Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

VẬN DỤNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CUẢ NHÀ NƯỚC NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CỦA NHTMCPQĐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.02 KB, 34 trang )

VẬN DỤNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CUẢ NHÀ NƯỚC NHẰM
PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CỦA NHTMCPQĐ
I. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA
NHNN.
1. Nguyên tắc hình thành lãi suất.
Việc hoạch định chính sách lãi suất phải tuân thủ các nguyên tắc bảo đảm lãi
suất thoả mãn các yêu cầu mà nền kinh tế đặt ra cho lãi suất. Trong thực tế, lãi suất
của Ngân hàng được hình thành trên cơ sở các nguyên tắc sau:
Lãi suất Ngân hàng được hình thành phải đảm bảo an toàn về vốn cho các tổ chức
kinh tế, cá nhân hay nói cách khác là phải đảm bảo mức lãi suất thực dương. Để
đảm bảo nguyên tắc này thì lãi suất tiền gửi phải lớn hoặc bằng tỷ lệ lạm phát có
như vậy mới giữ được giá trị của khoản vốn cho người gửi tiền và các tổ chức tín
dụng để tránh các rủi ro về vốn khi đó lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát sẽ
lớn hơn hoặc bằng không do vậy sẽ bảo toàn được vốn cho khách hàng.
Lãi suất hình thành trên cơ sở có lãi hợp lý cho người gửi tiền và các tổ chức
tín dụng. Điều kiện hình thành lãi suất theo nguyên tắc cũng là:
Lạm phát < lãi suất tiền gửi < lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, ở góc độ tâm lý
người có tiền cho vay bao giờ cũng muốn đồng tiền của mình phải sinh lời, không ai
muốn cấp tiền mà không thu lại được gì cả. Việc lãi suất đảm bảo có lãi là hợp lý vì
nó phù hợp với lợi ích của người gửi tiền; lãi suất tiền gửi < lãi suất ngân hàng cho
vay đối với nền kinh tế sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng và các tổ chức tín dụng tồn
tại và hoạt động trên cơ sở tổng lãi thu từ cho vay trừ đi tổng lãi phải trả phải đủ bù
đắp chi phí hoạt động Ngân hàng và có lãi.
Lãi suất bảo đảm cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế: Nguyên tắc này được dựa
trên cơ sở lãi suất được coi là đòn bẩy kinh tế . Điều kiện của nguyên tắc này là tỷ
lệ lạm phát < lãi suất tiền gửi < lãi suất cho vay < tỉ suất lợi bình quân của nền kinh
tế. Nhìn vào bất đẳng thức trên ta thấy, nội dung bất đẳng thức đã thoả mãn yêu
cầu an toàn vốn và có lãi hợp lý cho người gửi tiền và các tổ chức tín dụng. Điều
kiện lãi suất cho vay < tỉ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế, chỉ ra rằng lãi
suất cho vay của Ngân hàng phải nhỏ hơn mức lợi nhuận bình quân của các ngành
sản xuất vật chất của nền kinh tế. Như vậy mới đảm bảo cho các tổ chức kinh tế


sau khi thu được lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh, ngoài việc trả nợ Ngân hàng sẽ
còn lại một khoản lợi nhuận dùng để mua sắm thiết bị và đầu tư mở rộng sản xuất,
đảm bảo có tái sản xuất mở rộng mà tái sản xuất mở rộng là điều kiện để có tăng
trưởng kinh tế.
Trên đây là 3 nguyên tắc cơ bản để xác định các mức lãi suất hợp lý của Ngân
hàng, các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế chỉ có trên cơ sở tuân thủ các
nguyên tắc này mới có thể phát huy tác dụng đòn bẩy kinh tế của công cụ lãi suất
hướng vào các mục tiêu kinh tế xã hội. Đó cũng là nguồn gốc của ổn định tiền tệ.
Ngoài 3 nguyên tắc cơ bản nêu trên, trong điều kiện một nền kinh tế thị trường
từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì việc xác định lãi suất
còn được dựa trên một số các nhân tố khác đó là: Mức độ rủi ro tối thiểu của hoạt
động tín dụng không phải trong điều kiện bất khả kháng của nền kinh tế; Mức độ
dao động tối thiểu về tâm lý tích trữ tiền mặt của dân chúng; lãi suất cơ bản ngoại
tệ mạnh chủ yếu cấu thành dự trữ ngoại tệ quốc gia và mức biến động của tỷ giá
hối đoái.
2. Một số quan điểm điều hành chính sách lãi suất
Qua xem xét và đánh giá thực trạng tình hình qủan lý lãi suất ở Việt Nam
thời gian qua chúng ta thấy: Đặc trưng cơ bản của thị trường tiền tệ nước ta thời
gian qua là quan hệ cung cầu về vốn, tiền tệ hình thành một cách hết sức khó khăn,
diễn ra không bình thường. Sự ấn định giá cả (hình thành lãi suất suất thị trường)
không tránh khỏi bị áp đặt bởi một số ít lực lượng thị trường. Sự nôn nóng theo
đuổi mục tiêu chính sách đôi lúc khiến cho Ngân hàng Nhà nước cũng bị lôi cuốn
vào đó, mặc dù không phải lúc nào việc áp đặt mức lãi suất trần cũng suôn sẻ và
được thị trường chấp nhận.
Xét về năng lực thể chế yếu kém của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, khuôn
khổ pháp lý và qui chế dự phòng rủi ro chưa hoàn bị cũng cho thấy trong thời điểm
hiện nay để cho thị trường tự định đoạt lãi suất cho nó (tự do hoá lãi suất ) là rất
khó thực hiện. Dựa trên nền tảng này khó có ngay chính sách lãi suất thích hợp.
Cũng phải thấy là việc duy trì trần lãi suất cho vay là để hạn chế các Ngân hàng
yếu kém về mặt tài chính chấp nhận mức rủi ro quá mức. Trong chừng mực nhất

định, trần lãi suất đủ đảm bảo cân bằng tương đối về tiền tệ ở góc độ vĩ mô nhưng
ở góc độ vi mô tầm hoạt động của các NHTM còn nhiều vướng mắc. Nội dung
chính sách lãi suất hiện nay là không chỉ kiểm soát trần lãi suất cho vay, mà theo
đó là kiểm soát trần lãi suất huy động, khống chế tổng lượng tín dụng của nền kinh
tế bằng hạn mức tín dụng, hạn mức vay nợ nước ngoài, mức cung tiền (MS) tăng
lên hàng năm và một số chỉ tiêu khống chế tài sản có khác. Trước thực trạng này đã
và đang nảy sinh một số quan điểm định hướng điều chỉnh lại chính sách lãi suất
hiện nay cụ thể là:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, Ngân hàng Nhà nước phải kiên trì kiểm soát
lãi suất toàn diện, duy trì mức lãi suất trần, kết hợp khống chế về tổng lượng tín
dụng bằng sự phân bổ hạn mức tín dụng, hạn mức cung ứng tiền tăng thêm và một
số chỉ tiêu hoạt động, cho vay hàng năm, chủ yếu đối với các NHTMQD. Quan
điểm này cũng thừa nhận những khiếm khuyết của chính sách lãi suất hiện nay và
hy vọng vào sự linh hoạt của trần lãi suất, ổn định tỷ giá, hối đoái, cải tiến cung
ứng tiền, phân bổ hạn mức tín dụng, vay trả nợ nước ngoài và định hướng tốt cho
tín dụng ưu đãi...sẽ tiếp tục tạo ra ổn định tiền tệ, tín dụng, góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bền vững.
Quan điểm thứ 2, Ngân hàng Nhà nước nên từng bước nới lỏng sự kiểm soát
tín dụng, dỡ bỏ lãi suất trần, thay vào đó là chế độ lãi suất cơ bản, linh hoạt hoá lãi
suất, thực sự khuyến khích tiết kiệm, đầu tư mạnh phát triển kinh tế, chuyển dần
sang kiểm soát tiền tệ và lãi suất một cách gián tiếp, đề cao vai trò của các công cụ
điều hành chính sách tiền tệ như dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ
thị trường mở, nhấn mạnh dự phòng rủi ro tín dụng, bảo toàn tiền gửi Ngân hàng,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá hối đoái và quản lý ngoại hối.
Đây là quan điểm khá mới thực chất là nhấn mạnh vai trò của các công cụ điều
hành lãi suất một cách gián tiếp, đồng thời hết sức chú ý mở cửa với bên ngoài về
hoạt động tiền tệ, tín dụng.
Quan điểm thứ 3: Cho rằng Ngân hàng Nhà nước phải xúc tiến các giải pháp
tình thế thăm dò tình hình như: linh hoạt hoá trần lãi suất cho vay, phân lãi suất
tiền gửi theo hai hướng, hoặc áp đặt lãi suất tiền gửi tối thiểu, lãi suất cho vay tối

đa nghiêng về bảo vệ độ an toàn hoạt động Ngân hàng: hoặc áp đặt lãi suất tiền gửi
tối đa, lãi suất cho vay tối thiểu nhằm bảo vệ lợi ích của người gửi tiền và người đi
vay, đặt các Ngân hàng trước những thử thách kinh doanh khó khăn hơn. Bên cạnh
đó là đồng thời hạ thấp dự trữ bắt buộc, nới lỏng hạn mức tín dụng, mở rộng cung
ứng tiền, áp dụng tỷ lệ bình quân hoá các mức lãi suất khác nhau của một số lực
lượng thị trường then chốt (các NHTMQD) để xác định lãi suất tham chiếu, thực
hiện lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước, ổn định tỷ giá hối đoái, quản
lý chặt giao dịch hối đoái...Quan điểm điều hành theo giải pháp như vậy là hết sức
linh hoạt, đóng vai trò quan trọng trong điều kiện thị trường hiện nay, tuy nhiên
cũng cần phải có định hướng rõ ràng để trong điều hành thực tế không gặp mẫu
thuẫn vướng mắc.
Xem xét các quan điểm trên đây thì đại đa số cho rằng quan điểm thứ 2 là có
định hướng đúng đắn, sát thực hơn đối với cơ chế thị trường trong việc điều hành
lãi suất. Nếu tiếp tục chú trọng điều hành lãi suất nghiêng về kiểm soát chặt chẽ
của Nhà nước (quan điểm 1) trong xu thế thị trường tiền tệ phát triển ngày càng sôi
động, phức tạp hiện nay và dù có tìm cách khắc phục những tồn tại vốn có của nó
(như đã nêu) bằng những giải pháp tình thế (quan điểm 3) thì kết quả cũng hết sức
hạn hẹp, nhất thời, thậm chí trôi dạt, mất phương hướng chủ chốt về trung và dài
hạn. Chỉ có loại quan điểm 2 mới định hướng đúng cho việc hình thành lãi suất cơ
bản của nền kinh tế và đó là đích cuối cùng phải đạt được trong việc kiện toàn
chính sách lãi suất trong thời gian tới.
Như vậy định hướng cho một chính sách lãi suất đã rõ ràng, lãi suất cơ bản
sẽ được thay đổi cho lãi suất trần, điều chỉnh lãi suất sẽ hướng tới sử dụng các
công cụ gián tiếp như dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, thị trường mở. Vậy
lãi suất cơ bản là gì? nó được xác định như thế nào và tại sao lại được sử dụng thay
cho lãi suất trần?
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khoản 12 điều 19 đã xác định :“
lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ
chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”. Như vậy lãi suất cơ bản là mức lãi suất
do Ngân hàng Nhà nước ban hành làm cơ sở cho các NHTM xác định lãi suất kinh

doanh của mình, lãi suất cơ bản khác với lãi suất tái cấp vốn. Trên thực tế, lãi suất
tái cấp vốn cũng có ảnh hưởng toàn diện đến hệ thống lãi suất trong nền kinh tế thị
trường và cũng do Ngân hàng Nhà nước xác định trong từng hoạt động tái cấp vốn
nhưng lại không phải là hành động bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Thực tế
nó được thực hiện một cách tự nguyện theo nhu cầu của một tổ chức tín dụng. Nói
cách khác, lãi suất tái cấp vốn là một mức lãi suất nhất định trong một thời gian
nào đó, không phải là mức lãi suất bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng (nếu các
tổ chức tín dụng không có nhu cầu tái cấp vốn thì nó không trực tiếp liên quan đến
lãi suất tái cấp vốn) Chính vì lý do này luật Ngân hàng Nhà nước tách thành 2 loại
lãi suất trên, do Ngân hàng Nhà nước xác định công bố lãi suất cơ bản và lãi suất
tái cấp vốn.
Như vậy lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước ấn định và áp
dụng mang tính chất bắt buộc đối với tất cả các tổ chức tín dụng, vậy nó được xác
định như thế nào?. Hiện nay có rất nhiều quan điểm xung quanh việc xác định mức
lãi suất cơ bản: nếu theo định nghĩa trên đây thì lãi suất cơ bản có thể là bất kỳ mức
lãi suất nào do Ngân hàng Nhà nước công bố, chẳng hạn lãi suất tín dụng trần hay
sàn, lãi suất tiền gửi tối đa hay tối thiểu hoặc cũng có thể là một mức lãi suất nào
đó cộng thêm một biên độ nhất định...Vấn đề là lựa chọn một mức lãi suất nào để
vừa thích ứng với bối cảnh kinh tế hiện nay và vừa thúc đẩy quá trình thị trường
hoá lãi suất.
Về cả lý thuyết và thực tế, mỗi chính sách lãi suất đều có những mục đích
nhất định và do đó sẽ có những hạn chế riêng. Chẳng hạn, nếu lãi suất cơ bản được
qui định dưới hình thức trần lãi suất tín dụng thì mục đích cơ bản trong trường hợp
này là bảo vệ lợi ích cho người sản xuất, khắc phục tình trạng đẩy lãi suất cho vay
lên quá cao. Lãi suất tiền gửi, như vậy, đã được tự do hoá để có thể thu hút được
nguồn vốn, tất nhiên, các tổ chức phải đảm bảo một mức lãi suất thực dương. Song
do lãi suất bị ấn định ở mức trần nên: nếu nhu cầu vốn cao, các tổ chức tín dụng
hầu hết đã cho vay ở mức lãi suất tối đa cho phép, tạo gánh nặng cho nền sản xuất,
thứ 2, việc tính toán rủi ro vào lãi suất cho vay được thực hiện, gây khó khăn cho
chính bản thân Ngân hàng. Hơn nữa, việc điều hành lãi suất có tính chất hành

chính trên đây không thể cho phép lãi suất biến động phù hợp với những thay đổi
của nền kinh tế. Ngược lại, nếu qui định sàn lãi suất tiền gửi với mục đích bảo vệ
lợi ích của người gửi tiền thì lãi suất cho vay đã được tự do hoá. Trong trường hợp
này, lãi suất tiền gửi có thể không được điều chỉnh linh hoạt theo các biến động của
thị trường đặc biệt là trong điều kiện hệ thống Ngân hàng còn độc quyền nhu cầu
tín dụng còn cao thì lãi suất tín dụng có thể bị đẩy lên rất cao. Ví dụ điển hình cho
trường hợp này là thực trạng lãi suất giai đoạn 1995 - 1997 của Việt Nam. Trong
giai đoạn này, do vừa áp dụng lãi suất trần, vừa áp dụng lãi suất thoả thuận nên lãi
suất cho vay tăng vọt tới mức 2,3 - 3,5%/tháng, và mức chênh lệch lãi suất đầu
vào, đầu ra lên tới 0,7 - 1%/tháng. Cũng chính vì lý do này lãi suất cơ bản hiện nay
thích hợp nhất là hình thức lãi suất tín dụng trần. Tuy nhiên do mâu thuẫn giữa lợi
ích của nền sản xuất vật chất với lợi ích của hoạt động Ngân hàng, cũng như đòi
hỏi phải lành mạnh hoá hệ thống Ngân hàng và thị trường hoá từng bước hoạt động
tín dụng sang sàn lãi suất tín dụng. Vấn đề chuyển từ điều hành trần lãi suất tín
dụng sang sàn lãi suất tiền gửi cũng nên được đặt ra. Như vậy, việc thực hiện cơ
chế lãi suất cơ bản là một bước tiến mới trong quá trình thị trường hoá lãi suất ở
Việt Nam, lãi suất cơ bản theo định nghĩa ở trên có thể chính là trần lãi suất tín
dụng hiện hành. Tuy nhiên, đây đúng là một hình thức của lãi suất cơ bản.
Quá trình phân tích trên đây cho thấy rằng lãi suất cơ bản là một khái niệm
mở và trong từng điều kiện cụ thể Ngân hàng Nhà nước sẽ lựa chọn hình thức thích
hợp nhất cùng với quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng, chắc chắn các hình
thức lãi suất cơ bản được lựa chọn sẽ từng bước hướng về thị trường hoá việc điều
tiết lãi suất.
3. Tiến trình xây dựng chính sách lãi suất mới (lãi suất cơ bản)
Như vậy, lãi suất cơ bản là một bước tất yếu trong quá trình xây dựng chính
sách lãi suất theo hướng tự do hoá ở Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta không thể cầu
toàn ngay trong việc xác định. Một khi khả năng hoàn thiện chính sách lãi suất
hiện nay theo các nguyên tắc thực dương, linh hoạt và hợp lý vẫn đạt được các mục
tiêu của chính sách tiền tệ thì việc hình thành lãi suất cơ bản sẽ tự nảy sinh từ một
loại lãi suất nào đó tiêu biểu nhất trên thị trường hiện nay. Việc cần làm của Ngân

hàng Nhà nước là phải tạo thêm các điều kiện xúc tác cho sớm có quá trình này.
Tiến trình cho một định hướng như vậy sẽ là:
Thứ nhất: Phải chấn chỉnh và kiện toàn hệ thống các Ngân hàng Thương mại
qua đó đưa ra các tiêu chuẩn cần thiết cho việc hình thành lãi suất chủ đạo từ các
mức lãi suất huy động, lãi suất cho vay của nhóm các Ngân hàng mạnh chiếm thị
phần chủ yếu và đủ sức chi phối thị trường tiền tệ.
Thứ hai: Tạo lập các điều kiện thuận lợi về hàng hoá, quy chế, cơ chế thông
thoáng cho sự phát triển một thị trường tiền tệ liên Ngân hàng, thị trường tín phiếu,
trái phiếu kho bạc và nghiệp vụ thị trường mở để các Ngân hàng Thương mại dễ
dàng mua bán các khoản vốn tiền tệ nhàn rỗi, các giấy tờ có giá khác nhau, từ đó
giúp Ngân hàng Nhà nước định vị rõ ràng lãi suất thực tế và có khả năng can thiệp
nhanh chóng, điều chỉnh động thái thị trường tiền tệ.
Thứ ba: mở rộng hơn qui mô khai thác tiền gửi dự trữ bắt buộc tại Ngân
hàng Nhà nước của các Ngân hàng Thương mại và trả lãi cho họ (đủ bù đắp chi phí
huy động) để tạo lập quỹ can thiệp thị trường, làm nguồn tái cấp vốn thường
xuyên, linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước cho các Ngân hàng Thương mại. Nâng
cao vai trò người cho vay cuối cùng trên thị trường tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước từ đó tạo lập khả năng công bố chính xác lãi suất danh nghĩa (bước khởi đầu
của lãi suất cơ bản) của Ngân hàng Nhà nước.
Thứ tư: Xúc tiến việc điều tra nghiên cứu chọn mẫu một số các doanh
nghiệp tiêu biểu đại diện cho một số nghành, lĩnh vực hay mặt hàng .. chiếm tỷ lệ
trọng lớn trong cấu thành GDP hàng năm, từ đó nắm bắt kịp thời tỷ suất lợi nhuận
bình quân của nền kinh tế, giúp NHNN định hướng kịp thời xu hướng vận động lãi
suất của nền kinh tế để xác định lãi suất cơ bản qua các thời kỳ khác nhau.
Thứ năm: Quản lý chặt chẽ các luồng vốn vào ra của nền kinh tế ( bao gồm :
đầu tư, vay nợ, viện trợ, kiều hối ..) và hạn chế tối đa mức thâm hụt ngân sách, để
từ đó xác định chính xác những nhân tố tác động đến tổng cung, tổng cầu, vốn tiền
tệ trong từng thời kỳ của nền kinh tế đó là điều kiện hết sức quan trọng của việc
xác định lãi suất cơ bản đối với một nền kinh tế theo hướng hội nhập bên ngoài .
Thứ sáu: kiềm chế lạm phát ở mức thấp một chữ số, ổn định tiền tệ nhằm thu

hẹp tối đa và giữ vững khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất
thực tế tạo điều kiện giảm thiểu những rủi ro tiền tệ, giúp cho việc hình thành
chính xác và ổn định lãi suất cơ bản, chủ yếu là phản ánh một cách nhanh nhậy
quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế.
Tóm lại, việc tiến tới lãi suất cơ bản đòi hỏi một lộ trình phát triển thị trường
tiền tệ ở nước ta ở mức rất cao .Quá trình kiện toàn chế độ lãi suất theo định hướng
này nhất thiết phải trải qua các bước cải cách tuần tự, linh hoạt hoá và từng bước
dỡ bỏ các mức trần lãi suất, áp dụng lãi suất thị trường liên Ngân hàng, lãi suất thị
trường tín phiếu kho bạc, cho đến điều tiết thị trường bằng lãi suất tái cấp vốn hay
tái chiết khấu thực sự của Ngân hàng nhà nước, kết hợp với hoàn thiện các công cụ
tiền tệ khác trong việc điều hành chính sách tiền tệ là những bước đi tất yếu hiện
nay. Trong lúc chưa đủ điều kiện xây dựng chế độ lãi suất cơ bản đích thực thì
những bước cải cách quá độ, hợp lý, tuần tự và đúng hướng tình trạng lãi suất hiện
nay được coi là những bước quá độ đi tới đích hoàn thiện chính sách lãi suất như
mong muốn.
II. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
QUÂN ĐỘI
1. Lịch sử hình thành và phát triển:
Ngân hàng thương mại cổ phẩn quân đội ra đời tháng 11 năm 1996 cho đến nay
đã trải qua hơn 4 năm hoạt động. Trong suốt thời gian này Ngân hàng đã vượt qua
nhiều khó khăn thử thách của thị trường, tự khẳng định mình, kinh doanh có hiệu quả.
Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội được hình thành là kết quả sự hỗ trợ của các
cơ quan bộ ngành hữu quan, sự nỗ lực của cán bộ trong và ngoài quân đội cũng như
nhiều điều kiện khách quan thuận lợi khác.
Điều kiện cần cho sự ra đời của Ngân hàng thương mại cổ phẩn quân đội đó
là nhu cầu về một Ngân hàng phục vụ cho riêng quân đội, ý tưởng này đã có từ
những năm chiến tranh, khi các cán bộ quân đội sang công tác và học tập tại Liên
Xô (cũ), tại đây họ đã tìm hiểu các Ngân hàng dã chiến làm nhiệm vụ cấp phát cho
quân đội tại các khu vực vì nhiều lý do khác nhau, ý tưởng này đến cuối những năm
1980 vẫn chưa thực hiện được. Trên cơ sở pháp lệnh Ngân hàng và các tổ chức tín

dụng ra đời năm 1992, Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội đã được thành lập.
Ngân hàng này có nhiều điểm khác biệt so với các Ngân hàng dã chiến của Liên Xô
(cũ) trước kia, nhưng nhiệm vụ chính nhìn chung không mấy khác biệt, đó là phục vụ
các doanh nghiệp quân đội.
Nhiệm vụ của quân đội thời bình là bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước.
Các doanh nghiệp quân đội trước đây làm công tác quốc phòng nay chuyển sang
làm kinh tế, họ có mặt trên khắp các địa bàn từ cà phê Tây nguyên, đánh bắt thuỷ
hải sản trên biển đến Bay dịch vụ, than Đông bắc. Đây là lực lượng lớn hoạt động
khá hiệu quả, có tiềm lực lớn về vật tư lao động, khai thác một thị trường rộng, có
mức tăng trưởng cao và ổn định. Cũng như mọi doanh nghiệp khác, khó khăn lớn
nhất của doanh nghiệp quân đội là thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Nếu như nguyên
nhân là không vay được vốn của các Ngân hàng thương mại vào giai đoạn trước
năm 1992 thì thực tế đến nay là các Ngân hàng thương mại không đáp ứng nổi nhu
cầu về vốn của các doanh nghiệp quân đội. Lấy ví dụ năm 1999, tổng nhu cầu về
vốn của các doanh nghiệp quân đội là 2000 tỷ đồng trong đó nguồn từ các Ngân
hàng Thương mại chỉ đáp ứng được 1/10. Hơn nữa, bên cạnh nguồn vốn do Ngân
sách nhà nước cấp, rất nhiều doanh nghiệp thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh trong
khi đó doanh nghiệp còn một lượng vốn nhàn rỗi lớn. Nhu cầu có một trung gian
tài chính để điều hoà vốn trở nên ngày một bức xúc.
Xét về điều kiện đủ, đó là sự ra đời của một số luật và văn bản dưới luật như
Pháp lệnh Ngân hàng, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật
Công ty...Từ năm 2000 hệ thống Ngân hàng một cấp đã chuyển thành hệ thống
Ngân hàng hai cấp, tách riêng chức năng quản lý và chức năng kinh doanh tiền tệ,
với bốn Ngân hàng Thương mại quốc doanh (Ngân hàng ngoại thương Việt Nam,
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng công thương và Ngân hàng
nông nghiệp Việt Nam), tiếp đó là sự ra đời của hàng loạt các Ngân hàng Thương
mại cổ phần, Ngân hàng nước ngoài và các Công ty tài chính. Như vậy trên cơ sở
sự cho phép của pháp luật cũng như kinh nghiệm trong kinh doanh hoạt động và
quản lý của các Ngân hàng, đặc biệt là các Ngân hàng Thương mại cổ phần, Ngân
hàng Thương mại cổ phần quân đội đã được thành lập.

Với số vốn ban đầu là 20 tỷ đồng, Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội
đã lựa chọn thị trường quân đội là thị trường chính ngay từ buổi đầu lấy trọng điểm
là thị trường quân đội nhưng Ngân hàng vẫn theo đuổi mục tiêu phục vụ mọi đối
tượng khách hàng trong nền kinh tế, đa dạng hoá ngành nghề, lĩnh vực hoạt động,
là một Ngân hàng đa năng.
2. Tính chất hoạt động:
Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội là một loại hình Ngân hàng
Thương mại do đó xét về mặt chức năng kinh doanh tiền tệ nó giống với các Ngân
hàng Thương mại quốc doanh và các loại hình Ngân hàng khác, chịu sự điều tiết
của Luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, tuy nhiên nó còn mang tính chất của
một Công ty cổ phần, do đó cũng chịu sự điều tiết của luật Công ty. So với các
Ngân hàng Thương mại quốc doanh nó có một số điểm khác biệt cơ bản đó là:
Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội là một Ngân hàng Thương mại
được tổ chức dưới dạng Công ty cổ phần. Cổ đông của Ngân hàng phần lớn là các
doanh nghiệp Nhà nước. Vốn đóng góp của họ không phải lấy từ vốn ngân sách
nhà nước mà lấy từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng do Đại
hội cổ đông Quyết định chứ không phải do Thống đốc Quyết định như đối với các
Ngân hàng Thương mại quốc doanh khác.
Đại hội cổ đông của Ngân hàng cổ phần sẽ bầu ra một Hội đồng quản trị có
nhiệm kỳ thường là từ 4 đến 5 năm. Hội đồng quản trị sẽ bầu ra Tổng giám đốc
Ngân hàng và phải được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thông qua. Đối với Ngân
hàng Thương mại quốc doanh thì Tổng giám đốc (hoặc giám đốc) được chính
Thông đốc bổ nhiệm.
Về khả năng tăng vốn của Ngân hàng. Ở các Ngân hàng Thương mại quốc
doanh việc tăng vốn do Thông dốc Ngân hàng Nhà nước Quyết định và vốn của
các Ngân hàng Thương mại này đưọc cấp phát từ Ngân sách Nhà nước. Còn ở các
Ngân hàng cổ phần, việc tăng vốn được thực hiện bằng cách gọi vốn từ các cổ
đông và do Đại hội cổ đông Quyết định, được sự thông qua của Ngân hàng Nhà
nước.
Hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội chịu sự tác động của

các luật, qui chế hoạt động của Ngân hàng Nhà nước như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho
vay tối đa bên cạnh các điều lệ, qui chế hoạt động trong nội bộ Ngân hàng do Đại hội
cổ đông thông qua, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chuẩn y. Đây cũng là yếu tố khac
biệt so với Ngân hàng Thương mại quốc doanh.
3. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Thương mại cổ phần quân
đội
Về cơ cấu tổ chức, Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội Ban quản trị cụ
thể đó là, Hội đồng quản trị do Đại hội cổ đông bầu ra, về quản lý điều hành có
Ban giám đốc đứng đầu là Tổng giám đốc và 3 Phó tổng giám đốc
( ở các chi nhánh là Giám đốc và các Phó Giám đốc ) phụ trách các phòng ban sau:
Phòng hành chính tổng hợp, phòng quản lý dự án, phòng kế hoạch và kinh doanh,
phòng thanh toán quốc tế, phòng kế toán, phòng tín dụng, phòng ngân quỹ với một cơ
cấu tổ chức chặt chẽ hoạt động của các phòng ban có mối quan hệ qua lại hỗ trợ lẫn
nhau trong việc thực hiện các chủ trương kế hoạch đã được đặt ra trong từng giai đoạn
thời kỳ nhất định. Tuy nhiên do tính đặc thù của từng lĩnh vực mỗi một phòng ban
thực hiện một số chức năng nhất định.
Phòng tín dụng: thực hiện chức năng chủ yếu là cho vay và bảo lãnh: Yêu
cầu đối với hoạt động tín dụng của một Ngân hàng non trẻ như Ngân hàng Thương
mại cổ phần quân đội là từng bước hoàn thiện các bước của qui trình nghiệp vụ,
nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo mức tăng tổng dư nợ hợp lý. Trong những
năm qua, phần chủ yếu trong tài sản có của Ngân hàng là cho vay ngắn hạn (chiếm
khoảng 85% tổng dư nợ ), cho vay trung hạn chiếm khoảng 15%, chưa có cho vay
dài hạn. Đây là tỷ lệ tương đối cao trên mặt bằng tổng dư nợ trung hạn của các Ngân
hàng Thương mại. Cho vay trung hạn chủ yếu cho đổi mới thiết bị, nâng cao năng lực
sản xuất. Khách hàng thường xuyên của Ngân hàng là Công ty than Đông Bắc, Công
ty Lũng Lô, Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn. Cho vay ngắn hạn bổ sung vốn lưu
động cho các doanh nghiệp thực hiện sản xuất kinh doanh. Hoạt động tín dụng này đã
và đang chuyển hướng mạnh mẽ tham gia tích cực vào các chương trình kinh tế trọng
điểm của đất nước như hệ thống đường giao thông, bến cảng, sân bay...
Với tổng dư nợ tăng hàng năm, Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội đã

thực sự đóng góp phần không nhỏ vào kết quả tăng trưởng của các doanh nghiệp
quân đội làm kinh tế. Việc nâng cao chất lượng công tác quản lý hoạt động tín
dụng, hoàn thiện cơ chế cho vay theo các qui chế mới nhất như Thông tư 198, 199,
09, 324 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước luôn luôn được chú trọng.
Các hoạt động dịch vụ như bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu
bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh bảo hành công trình cũng phát triển nhanh tạo
nguồn thu cho Ngân hàng. Nghiệp vụ bảo lãnh tuy mới nhưng được triển khai
nhanh chóng và thực sự hiệu qủa. Thư bảo lãnh của Ngân hàng quân đội đã tạo
điều kiện cho rất nhiều doanh nghiệp quân đội mở rộng kinh doanh, tạo công ăn
việc làm.
Các hoạt động nghiệp vụ tín dụng và bảo lãnh chủ yếu được tiến hành tại
phòng tín dụng của Ngân hàng. Với các nghiệp vụ truyền thống và chủ yếu, như
vậy hàng năm phòng tín dụng đóng góp khoảng 70% lợi nhuận cho Ngân hàng.
Phòng thanh toán quốc tế thực hiện chức năng chủ yếu là thanh toán xuất
nhập khẩu và kinh doanh giao dịch ngoại tệ. Mặc dù mới được Ngân hàng Nhà
nước cho phép nhưng bước đầu Ngân hàng đã tạo được uy tín với khách hàng
trong và ngoài nước. Từ những hợp đồng hàng chục ngàn USD đến hàng chục triệu
USD, Ngân hàng đã thực hiện thanh toán kịp thời đúng theo thông lệ và cam kết
quốc tế, làm tốt chức năng của một Ngân hàng thanh toán. Với số lượng khách
hàng ngày càng đông, trong đó có rất nhiều khách hàng hoạt động thanh toán xuất
nhập khẩu trong và ngoài quân đội, đã nâng số lượng giao dịch ngoại tệ mỗi năm
một tăng. Vì vậy dịch vụ thanh toán mua bán ngoại tệ tại Ngân hàng Thương mại
cổ phần quân đội trở nên sôi động hơn nhất là trong thời kỳ biến động về tỷ giá.
Năm 1999 mặc dù có những khó khăn do tỷ giá thay đổi, thị trường ngoại tệ liên
Ngân hàng chưa đáp ứng được nhu cầu một cách thường xuyên nhưng Ngân hàng,
đã bằng mọi cố gắng, đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán của khách hàng và
thường xuyên bảo đảm ổn định trạng thái ngoại hối. Vì vậy không để xảy ra tình
trạng thua lỗ do tỷ giá tăng đột biến. Các giao dịch ngoại tệ trên thị trường đượ mở
rộng. Hiện nay, Ngân hàng đang thực hiện mua bán ngoại tệ trên thị trường liên
Ngân hàng với các hình thức giao ngay, và mua bán kỳ hạn (forward). Các hoạt

động này của phòng thanh toán quốc tế chủ yếu nhằm phục vụ các doanh nghiệp
trong xuất nhập khẩu, được phép mở tài khoản tại các Ngân hàng nước ngoài, quản
lý và cho phép các Ngân hàng nước ngoài mở tài khoản tại Ngân hàng mình, báo
cáo về trạng thái quản lý ngoại hối cho Ngân hàng Nhà nước. Mở rộng quan hệ
quốc tế và tư vấn thị trường quốc tế cho các doanh nghiệp, phòng thanh toán quốc
tế ngày càng thể hiện tầm quan trọng của mình, trong đó hoạt động hỗ trợ các
doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu, thanh toán xuất nhập khẩu, bảo lãnh L/C
chiếm tỷ trọng lớn. Riêng các giao dịch thanh toán ngoại tệ và báo cáo trạng thái
quản lý ngoại hối được thực hiện kết hợp với bộ phận kinh doanh ngoại tệ và
phòng kế toán.
Nghiệp vụ Kế toán - kho quĩ được thực hiện tại phòng kế toán, công tác kế
toán thanh toán đã được củng cố hoàn thiện từng bước mặc dù khối lượng khách
hàng giao dịch ngày càng lớn, yêu cầu tiếp nhận xử lý, kiểm tra, kiểm soát 1 khối
lượng chứng từ rất lớn, bên cạnh đó Phòng kế toán cũng nhận nhiệm vụ giao dịch
tiết kiệm, kinh doanh ngoại hối, cân đối nguồn vốn... Nhìn chung, qua các năm
công tác kế toán đã đáp ứng yêu cầu kinh doanh, nghiệp vụ kế toán đảm bảo chính
xác, an toàn, không có trường hợp nào nhầm lẫn, gây thiệt hại cho khách hàng
cũng như ngân hàng. Ghi nhận điều này năm 1999, Thanh tra Nhà nước đã kết luận
"Nhìn chung các nghiệp vụ phát sinh thực hiện tương đối tốt, việc bảo quản lưu giữ
chứng từ khá tốt, thu lãi cho vay, trả tiền gửi kịp thời, trong quá trình kiểm tra đoàn
chưa phát hiện trường hợp nào thu lãi sai".
Hoạt động kho quĩ được thực hiện một cách an toàn, việc kiểm tra kiểm soát
và hoạt động giao dịch đảm bảo đúng quy trình nghiệp vụ, thái độ phục vụ tận tình
chu đáo, không có trường hợp nào nhầm lẫn mất mát.
Phòng Nguồn vốn thực hiện chức năng chủ yếu là huy động vốn cho Ngân
hàng. Nhìn chung công tác huy động vốn của Ngân hàng được thực hiện khá tốt,
luôn đảm bảo vượt kế hoạch đề ra, chẳng hạn năm 1999 kế hoạch đề ra là đạt
khoảng 1100 tỷ nhưng đến ngày 31/12/1999 đã huy động được hơn 1500 tỷ. Điều
này chứng tỏ sự nỗ lự cố gắng của cán bộ công nhân viên Ngân hàng, tính thuyết
phục của chính sách khách hàng cũng như cải thiện vị thế của Ngân hàng trên thị

trường. Trong điều kiện các chính sách về lãi suất của Ngân hàng Nhà nước theo
hướng lãi suất đầu vào tăng, lãi suất đầu ra giảm, tỷ giá biến động, thị trường tài
chính khu vực có nhiều biến động và sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng
trong nước cũng như các Ngân hàng nước ngoài thì những kết quả đạt được của
ngân hàng nói chung và công tác huy động vốn nói riêng là rất đáng ghi nhận.
Vốn huy động của Ngân hàng bao gồm tiền gửi tiết kiệm từ dân cư, các tổ
chức kinh tế và tiền gửi thanh toán. Tiền gửi tiết kiệm trong dân cư là một bộ phận
rất nhạy cảm lại chịu nhiều quy chế quản lý như tỷ lệ dự trữ bắt buộc... nên khoản
này chiếm tỷ lệ còn nhỏ trong cơ cấu vốn huy động. Tiền gửi thanh toán của các tổ
chức kinh tế chiếm phần quan trọng hơn.Theo qui định thì các tổ chức dân cư đều
được phép mở tài khoản nhiều Ngân hàng, hơn nữa đứng về phía Ngân hàng, tiền
gửi thanh toán của doanh nghiệp là khoản không chịu ảnh hưởng sự biến động của
tỷ giá (không chịu rủi ro về tỷ giá).Do đó ngày nay chi tiêu này được sử dụng để
đánh giá qui mô khách hàng.
Ngoài ra, vốn đi vay từ các Ngân hàng khác trên thị trường liên Ngân hàng
và uỷ thác cũng là nguồn cấu thành nên vốn hoạt động của Ngân hàng Thương mại
cổ phần quân đội.
Các mặt hoạt động khác của Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội:
Ngay từ buổi đầu thành lập Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội đã chọn thị
trường các doanh nghiệp quân đội là thị trường chính. Với hơn 75% đối tượng
khách hàng là các doanh nghiệp quân đội. Ngân hàng đã thực sự góp phần không
nhỏ tăng trưởng kinh tế khu vực này. Bên cạnh làm tăng lợi nhuận của chính mình,
Ngân hàng đã góp phần mở rộng thị trường các doanh nghiệp quân đội, hàng trăm
công trình các đơn vị quân đội trúng thầu thi công, rất nhiều thiết bị hiện đại trong
lĩnh vực xây dựng hạ tầng, khai thác mỏ, sản xuất công nghiệp, được đầu tư bằng
vốn Ngân hàng đang được khai thác rất có hiệu quả. Ngân hàng đã và đang từng
bước mở rộng thị trường, thực hiện mục tiêu đa năng. Nghiệp vụ thanh toán và các

×