Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

CHI TIÊU CÔNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.98 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
***

TIỂU LUẬN
Đề tài: CHI TIÊU CÔNG

TP.Hồ Chí Minh, 08/2020
1


Mục lục
1. Cơ sở lý luận..............................................................................................................1
2. Số liệu Chi tiêu công từ 2006-2018...........................................................................1
3. Đánh giá Chi tiêu công từ 2006-2018.......................................................................3
3.1.

Đánh giá tình hình thu chi ngân sách từ 2006-2018..............................................3

3.2.

Đánh giá tình hình bội chi ngân sách từ 2006-2018..............................................4

3.3.

Đánh giá tình hình Nguồn thu NSNN 2006-2018.................................................5

3.4.

Đánh giá tình hình nguồn chi NSNN 2006-2018..................................................7


4. Thực trạng 2019 -2020..............................................................................................8
5. Ý kiến cá nhân – Giải pháp, kiến nghị...................................................................10

2


1. Cơ sở lý luận.
Chi tiêu công
Chi tiêu của chính phủ là số tiền mà khu vực công chi tiêu để mua hàng hóa và cung
cấp các dịch vụ như giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội và quốc phòng.
Trong kế toán thu nhập quốc dân, khi chính phủ mua hàng hóa và dịch vụ để sử
dụng hiện tại nhằm thỏa mãn trực tiếp nhu cầu và yêu cầu của cá nhân hoặc tập thể và
yêu cầu của cộng đồng, thì nó được phân loại là chi tiêu tiêu dùng cuối cùng của chính
phủ.
Khi chính phủ mua hàng hóa và dịch vụ để sử dụng trong tương lai, nó được phân
loại là đầu tư của chính phủ. Điều này bao gồm tiêu dùng công và đầu tư công, và các
khoản thanh toán chuyển nhượng bao gồm chuyển thu nhập.
Theo Ogbole & Momodu (2015), chi tiêu công (hay chi tiêu của Chính phủ) là
khoản tiền mà Chính phủ của bất kỳ quốc gia nào chi ra để thực hiện trách nhiệm hiến
pháp trong việc cung cấp các phúc lợi xã hội cho công dân của mình và bảo vệ sự toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia.
2. Số liệu Chi tiêu công từ 2006-2018
Đơn vị tính: Tỷ đồng.

1


2



3. Đánh giá Chi tiêu công từ 2006-2018
3.1.
Đánh giá tình hình thu chi ngân sách từ 2006-2018

Nhận xét:
Chỉ
tiêu
Tỷ
lệ tăng
thu so
với
năm
trước

Tỷ
lệ tăng
chi so
với
năm
trước


2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

18% 15% 21% 18% 29%

24% 10%

21% 12%


24%

23% 19% 25%

8%

-4% 16%

3% 14%

11% 19%

11%

9%

-Ngân sách Thu tăng đều qua mỗi năm: dao động từ 10-20% so với năm trước đó
3

9%

10%


-Ngân sách Chi tăng đều tương ứng mỗi năm : dao động từ 10-20%
Nhìn vào Bảng tỷ lệ tăng so với năm trước, ta thấy được nguồn thu và chi ngân
sách có sự đồng biến tương ứng nhau. Cụ thể, khi năm 2011 tăng thu 29% sơ với năm
2010 (133.500 tỷ đồng) thì chi tiêu công chính phủ cũng tăng tỷ lệ tương đương 25% so
với năm 2010 (143.400 tỷ đồng). Hay năm 2014 biến động, nguồn thu giảm 4% so với
năm 2013 ( - 33.300 tỷ) thì chi tiêu chính phủ tăng nhẹ chỉ 4% so với năm 2013 (28.700

tỷ). Điều này cho thấy chính phủ chi tiêu có kiểm soát.
3.2.

Đánh giá tình hình bội chi ngân sách từ 2006-2018.

Nhận xét:
Nhìn biểu đồ ta thấy được Việt Nam luôn trong tình trạng thâm hụt ngân sách. Cụ
thế Chi > Thu và chênh lệch này ngày càng tăng hay bội chi tăng, cụ thể về mặt quy mô:
năm 2006 là 48.500 tỷ đồng; năm 2018 là 204.000 tỷ đồng, và để bù đắp bội chi, chính
phủ phải vay nợ dẫn đến tình hình nợ công và vay nợ nước ngoài càng tăng. Nhưng so
với GDP thì Việt Nam đang duy tri tỷ lệ bội chi là 4-5%.Tỷ lệ này đang có xu hướng
giảm so với tổng GDP.

Chỉ tiêu

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
4


Tỷ lệ bội chi
so GDP
Tốc độ tăng
trưởng mỗi
năm

5%

5%

5%


5%

16% 18% 35%

6%

5%

5%

5%

5%

7% 18% 28% 16% 25%

5%

5%

4%

4%

7% 14%

-1%

8%


Dựa vào bảng trên ta thấy thu chi qua các năm tăng nhưng hiệu quả chi tiêu chưa
bền vững, thể hiện ở chỗ mức độ tăng trưởng GDP mỗi năm biến động. Vẫn là tỷ lệ bội
chi 5% so với GDP nhưng năm 2015, GDP tăng 7% so với GDP năm 2014, GDP năm
2017 giảm 1%so với GDP năm 2016….
3.3.

Đánh giá tình hình Nguồn thu NSNN 2006-2018

Nhận xét:
Nhìn biểu đồ trên, ta thấy được cơ cấu nguồn thu NSNN chính chủ yếu là từ thu nội
địa, sau đó là thu từ dầu thô, thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu và cuối cùng là thu
viện trợ không hoàn lại. Cơ cấu thu NSNN ngày càng bền vững hơn theo hướng tăng tỷ
trọng từ các nguồn thu từ sản xuất - kinh doanh, giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn thu từ
tài nguyên khoáng sản (dầu thô) và thu từ xuất - nhập khẩu. Tỷ trọng thu nội địa ngày
càng tăng, từ 55% năm 2006 lên 83% năm 2016 so với tổng thu NSNN, cho thấy hoạt
động sản xuất - kinh doanh của người nộp thuế có hiệu quả hơn, số lượng doanh nghiệp
mới thành lập gia tăng, Nhà nước áp dụng các ưu đãi thuế, đơn giản hóa thủ tục hành
chính, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho sản xuất - kinh doanh phát triển
thuận lợi. Tỷ trọng thu dầu thô giảm còn 3% tổng thu NSNN, so với trung bình 13,4%
5


của giai đoạn 2011 - 2015. Thu từ dầu thô giảm do giá dầu thô trong giai đoạn vừa qua ở
mức thấp và nỗ lực cơ cấu nền kinh tế thông qua việc giảm phụ thuộc vào tài nguyên
thiên nhiên, trong đó có dầu thô. Tỷ trọng thu cân đối từ hoạt động xuất - nhập khẩu so
với tổng thu NSNN giảm trung bình từ 20,06% giai đoạn 2006 - 2010 xuống còn 17,7%
giai đoạn 2011 - 2015 và hơn 14% giai đoạn 2016 - 2018. Tỷ trọng thu từ hoạt động xuất
- nhập khẩu trong các năm gần đây ngày càng giảm do Việt Nam đẩy mạnh hội nhập kinh
tế quốc tế, thực hiện cắt giảm thuế quan theo lộ trình.

Chỉ tiêu
Tỉ lệ Thu nội
địa so với năm
trước
Tỉ lệ Thu từ
dầu thô so với
năm trước
Tỉ lệ Thu cân
đối từ hoạt động
xuất nhập khẩu so
với năm trước
Tỉ lệ Thu viện
trợ không hoàn lại
so với năm trước

2006

2007 2008 2009 2010

2011

2012 2013

15%

25%

23%

26%


30%

29%

13%

-9%

-3%

4%

5%

39%

16%

37%

8%

20%

20%

39%

0%


3.4.

2014

2015

2016

2017

2018

10%

-1%

18%

23%

26%

11%

26%

14%

14%


9%

-41%

-30%

-6%

45%

11%

8%

-8% 14%

-2%

5%

-1%

0%

0%

0%

10%


-33%

20%

39%

0%

Đánh giá tình hình nguồn chi NSNN 2006-2018

Nhận xét:

6


Nhìn biểu đồ trên, ta thấy được cơ cấu nguồn chi NSNN chính là chi thường xuyên,
sau đó là chi đầu tư, tiếp theo là chi trả nợ và viện trợ và cuối cùng là chi cải cách tiền
lương và dự phòng, chi dữ trự tài chính cố định 100 tỷ/năm.
Chỉ tiêu

2006 2007 2008 2009 2010 2011

2012

2013 2014 2015 2016 2017

2018

Tỷ lệ Chi đầu

tư phát triển so
với năm trước
22%
0% 13% 11% 21% 18% -3% -7% 20% 31% 40% 12%
Tỷ lệ Chi trả
nợ và viện trợ so
với năm trước
20% 4% 15% 19% 22% 16% 5% 14% 25% 3% 35% 14%
Tỷ lệ Chi
thường xuyên so
với năm trước
33% 19% 29% 25% 32% 23% 22% 7% 9% 7% 9%
5%
Tỷ lệ Chi cải
cách tiền lương
so với năm trước
16% 15% 29% -3% 24% 120% 74%
31% 49% 442%
Tỷ lệ Chi bổ
sung quỹ dự trữ
tài chính so với
năm trước
0% 0% 0% 0% 0%
0% 0% 0% 0% 0% 0%
0%
Tỷ lệ Dự
phòng so với năm
trước
20% 18% 28% 12% 20% 18% 8% 18% 30% 4% 13% 10%
4. Thực trạng 2019 -2020

 Dự toán Ngân sách thu – chi năm 2019 -2020
Chỉ tiêu
TỔNG THU CÂN ĐỐI NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC
Thu nội địa
Thu từ dầu thô
Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập
khẩu
Thu viện trợ
TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC
Chi đầu tư phát triển

năm 2019
1,4
11,300
1,
173,500

năm 2020
1,51
2,300
1,2
64,100

44,600

35,200
2
08,000


189,200
4,000
1,6
33,300

5,000
1,74
7,100
4
7


429,300
Chi trả nợ và viện trợ
Chi thường xuyên
Chi cải cách tiền lương, tinh giản biên
chế
Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
Dự phòng
BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
Tỷ lệ bội chi ngân sách so GDP

999,466

70,600
1
19,792
1,0

56,485

43,350

61,523

100

100

33,800

37,400

222,000

234,800

3.60%

3.44%

126,184

Tỷ trọng
Chỉ tiêu
TỔNG THU CÂN ĐỐI NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC
Thu nội địa
Thu từ dầu thô

Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập
khẩu
Thu viện trợ
TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC
Chi đầu tư phát triển
Chi trả nợ và viện trợ
Chi thường xuyên
Chi cải cách tiền lương, tinh giản
biên chế
Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
Dự phòng
BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
Tỷ lệ bội chi ngân sách so GDP

năm 2019

năm 2020

So với năm trước
năm
năm 2019
2020
7%

7%

83%
3%


84%
2%

7%
24%

8%
-21%

13%

14%

6%

10%

0%

0%

-20%

25%

7%

7%


26%
8%
61%

27%
7%
60%

7%
11%
6%

10%
-5%
6%

3%

4%

21%

42%

0%
2%

0%
2%


0%
5%

0%
11%

14%

13%

9%

6%

-3%

-4%

Nhận xét:
8


Từ bảng trên ta thấy, Việt Nam đang kiểm soát thu chi ngân sách theo cơ cấu.
+So với tổng Nguồn thu: thu nội địa khoảng 80-85%; tiếp theo là thu cân đối hoạt
động xuất nhập khẩu khoảng 10-15%, còn phần nhỏ là thu từ dầu thô, viện trợ.
+So với tổng Nguồn chi: chi thường xuyển 60-65%; chi đầu tư 25-30%; chi trả nợ
và viên trợ 5-10%; còn lại chi cải cách lương, bổ sung quỹ dữ trự tài chính và dự phòng
5-10%
Sức ép về cân đối NSNN hàng năm rất lớn nên dự toán thu NSNN luôn tăng qua
mỗi năm. Ngành Tài chính đã khá thận trọng khi chỉ đặt mức dự toán thu tăng khoảng 7%

so với năm trước. Tuy nhiên, do số dự toán thu NSNN về tuyệt đối khá lớn nên nhiệm vụ
hoàn thành thu NSNN của ngành Tài chính vẫn khá nặng.
Thu NSNN phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó có những yếu tố khách quan
như tăng trưởng kinh tế, giá dầu, xuất nhập khẩu, tình hình lạm phát... Do vậy, thực hiện
nhiệm vụ thu NSNN theo dự toán là thử thách rất lớn.
Về chi NSNN, để đáp ứng những yêu cầu cấp bách về cải cách bộ máy và tiết
kiệm chi thường xuyên, Bộ Tài chính đã sớm có văn bản hướng dẫn các bộ, ngành và địa
phương tổ chức triển khai dự toán chi NSNN theo hướng tích cực, chủ động, tiết kiệm
triệt để các khoản chi ngay từ khâu phân bổ dự toán và trong quá trình thực hiện, hạn chế
tối đa việc đề nghị bổ sung kinh phí, ứng trước dự toán năm sau; thực hiện điều hành,
quản lý, sử dụng nguồn dự phòng các cấp chặt chẽ. Bộ Tài chính cũng thực hiện rà soát,
trình cấp có thẩm quyền bổ sung, ban hành các chính sách, chế độ chi phù hợp với thực
tiễn; tăng cường kiểm soát chi NSNN đúng chế độ.
5. Ý kiến cá nhân – Giải pháp, kiến nghị
Qua số liệu và tìm hiểu về đề tài quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tỷ trọng hàng
hóa công thuần túy thì ta thấy rằng chi tiêu quá ít hoặc quá nhiều cho hàng hóa và dịch vụ
công sẽ làm giảm hiệu quả phát triển. Mức chi tiêu công cộng đem lại lợi ích cao nhất
cho nền kinh tế được gọi là quy mô chi tiêu công cộng tối ưu. Trong trường hợp đó, chi
tiêu công tạo điều kiện để khu vực tư phát triển mà không chèn lấn hoặc thay thế khu vực
tư. Hiệu quả chi tiêu công còn phụ thuộc tỷ lệ hàng hóa công thuần túy trong tổng chi tiêu
công cộng với lý do khu vực công chỉ hiệu quả khi cung cấp hàng hóa, dịch vụ công
thuần túy. Điều đó cũng có nghĩa là hiệu quả này giảm đi khi khu vực công cung cấp
những hàng hóa, dịch vụ công ít thuần túy hơn, hoặc lấn sân sang cung cấp những hàng
hóa, dịch vụ thuộc chức năng khu vực tư. Việc chi tiêu công phân tán, chịu ảnh hưởng từ
“vận động hành lang”, thiếu tiêu chí minh bạch cũng dẫn đến giảm hiệu quả chi tiêu. Như
vậy, tình trạng chi tiêu công thiếu hiệu quả thường xảy ra khi các chính phủ chi tiêu vượt
quá quy mô tối ưu, sai chức năng hoặc sai thứ tự ưu tiên. Riêng trong khu vực công, việc
trùng chéo quyền hành hay lẫn lộn chức năng thẩm quyền các cấp cũng dẫn đến giảm
thiểu hiệu quả của khu vực công. Chính quyền trung ương nhất thiết phải quản lý và phải
quản lý được những hàng hóa công trung ương. Tương tự như vậy, chính quyền địa

9


phương nhất thiết phải quản lý và phải quản lý được những hàng hóa công địa phương.
Trong trường hợp đó, tổng thể hiệu quả quản lý của bộ máy chính quyền các cấp là cao
nhất. Như vậy, để chi tiêu công hiệu quả, trong khu vực công phải có sự phân cấp hợp lý
theo nguyên tắc các cấp chính quyền cần được phân cấp quản lý các hàng hóa, dịch vụ
công phù hợp. Các chương trình chi tiêu công cộng hiện nay ở khá nhiều nước trên thế
giới đều mang tính chính trị, trong đó việc chia sẻ lợi ích từ “bầu sữa” ngân sách được
hợp pháp hóa thông qua chính sách tài khóa thường niên và quy trình chi tiêu ngân sách
hiện được thừa nhận như một tập quán khó thay đổi. Bản chất của quá trình này là sự dàn
xếp, chia sẻ lợi ích giữa các nhóm quyền lực một cách nhất thời mà khía cạnh hiệu quả,
bền vững của quốc gia bị đặt vào vị trí thứ yếu. Để phần nào hạn chế được điểm yếu này,
những đánh giá trung thực, khách quan và khoa học cần được vận dụng để điều chỉnh các
quyết định chi tiêu công cộng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng của nguồn lực công. Lý
tưởng nhất là quy trình ngân sách trung hạn được áp dụng một cách khoa học, trong đó
nhu cầu chi tiêu công trong trung hạn được lập kế hoạch và đề xuất hình thành các dự án.
Các dự án đề xuất cần được phân tích chi phí - lợi ích một cách khách quan, khoa học để
xếp hạng ưu tiên. Kế hoạch ngân sách sẽ được hình thành trên cơ sở các quyết định chi
tiêu theo thứ tự ưu tiên này
Chính sách tài khóa đóng vai trò quan trọng trong ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Đã đến lúc Việt Nam cần có sự đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, nhằm hướng tới xây dựng
một cơ cấu ngân sách bền vững, hiệu quả. Một số chính sách cần chú trọng trong thời
gian tới như sau:
Một là, cần giảm dần và chấm dứt xu hướng giảm chi đầu tư, đặc biệt ở cấp trung
ương, cải thiện về lập ngân sách đầu tư bằng cách quan tâm nhiều hơn đến các nhu cầu
chi duy tu bảo dưỡng liên quan đến đầu tư, qua đó, hỗ trợ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Việc kiểm soát và giảm mức chi đầu tư tràn lan không hiệu quả là đúng nhưng nếu xu
hướng giảm vẫn tiếp diễn trong thời gian dài, khối lượng tài sản công sẽ không đủ để hỗ
trợ và đáp ứng cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Hai là, rà soát lại các mục tiêu chi tiêu công theo khuôn khổ chính sách nhất quán
hơn nhằm tạo điều kiện để Việt Nam gắn kết tốt giữa chi tiêu và mục tiêu. Xét về chiến
lược phát triển kinh tế và những hạn chế về nguồn lực tài chính và ngân sách nói chung,
giả sử nếu tăng chi đầu tư về của cải vật chất và đầu tư về vốn con người theo dự kiến ở
tất cả các ngành ưu tiên sẽ khó khả thi. Vì vậy, cần xem xét điều chỉnh một số mục tiêu
về phát triển hạ tầng, phù hợp hơn với khả năng huy động nguồn lực hiện nay.

Ba là, chi tiêu cho các chương trình mục tiêu quốc gia cần gắn với mục tiêu ưu tiên.
Trong thực tế, cách thức phân bổ vốn hỗ trợ từ chương trình mục tiêu giai đoạn vừa qua
chưa đảm bảo khả năng tiên liệu, điều đó đang tạo ra những thách thức cho công tác lập
kế hoạch, lập ngân sách và chấp hành chi tiêu của chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện.
Nhận thức được những tồn tại trên, thời gian qua Chính phủ đã nỗ lực hợp nhất các
chương trình mục tiêu quốc gia, nhằm tập trung cụ thể hơn cho những mục tiêu ưu tiên,
10


phần nào đã nâng cao khả năng tiên liệu. Nhiệm vụ tiếp theo của Chính phủ là phải thiết
kế lại các phương thức phân bổ để tập trung trực tiếp hơn vào kết quả thực hiện thay vì
các chỉ số phức tạp dựa trên đầu vào.
Bốn là, hướng đến cơ cấu chi ngân sách bền vững, hiệu quả Chính phủ cần giảm tỷ
lệ chi thường xuyên bằng cách giảm tốc độ tăng biên chế và quỹ lương cho cán bộ, công
chức, viên chức, phát triển một bộ máy hành chính linh hoạt và có khả năng đáp ứng cao
hơn. Trong trung hạn, cần có giải pháp gắn kết chi lương và phụ cấp của Chính phủ với
hiệu quả công việc của người lao động, nhằm hỗ trợ việc hiện thực hoá các mục tiêu về
chuyển đổi thể chế. Thực hiện Đề án cải cách tiền lương của Việt Nam dựa trên vị trí việc
làm như đã đề cập trong “Luật Cán bộ, công chức” năm 2008 và “Luật Viên chức” năm
2010.
Năm là, xem xét lại mức độ phân cấp chi đầu tư cho địa phương gắn với hiệu quả
tổng thể kinh tế - xã hội, hạn chế rủi ro đầu tư dàn trải, tạo ra cơ chế khuyến khích, nhằm
thúc đẩy sự kết nối giữa các dự án hạ tầng lớn, bao gồm cả các dự án hạ tầng địa phương;

Phân cấp đầu tư cần gắn liền với trách nhiệm giải trình và năng lực quản lý của địa
phương; Cải thiện cơ chế lựa chọn và sắp xếp thứ tự ưu tiên dự án đầu tư công trên cơ sở
áp dụng phương pháp thẩm định dự án dựa trên hiệu quả kinh tế - xã hội theo thông lệ
quốc tế; Nâng cao hiệu quả lựa chọn và áp dụng các cơ chế lựa chọn chặt chẽ, góp phần
giảm tình trạng đầu tư dàn trải với quá nhiều dự án, đồng thời, nâng cao hiệu quả đầu tư.
Sáu là, gắn kết chi đầu tư và chi thường xuyên. Trong thời gian tới, cần duy trì và
nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản thông qua việc từng bước tăng chi khai thác và duy tu
bảo dưỡng qua kế hoạch tài chính - ngân sách và kế hoạch đầu tư trung hạn; Cần tăng
cường cơ chế phối hợp giữa 2 cơ quan kế hoạch và tài chính, nhằm đảm bảo nhu cầu chi
khai thác và duy tu bảo dưỡng được tính toán đầy đủ ngay từ khi lập dự toán cho các dự
án đầu tư mới và được lồng ghép đầy đủ vào ngân sách các năm sau đó.
Bảy là, hoàn thiện cơ sở dữ liệu về dự án đầu tư và hệ thống theo dõi tập trung
nhằm cải thiện chất lượng báo cáo đầu tư công, góp phần đưa ra những quyết định kịp
thời để thực hiện các dự án hiệu quả. Trước mắt, cần thu thập thông tin và kiểm soát cam
kết chi trung hạn và tình hình thực hiện dự án qua Hệ thống thông tin quản lý ngân sách
và kho bạc và Hệ thống thông tin dữ liệu dự án đầu tư công đối với tất cả các đơn vị sử
dụng vốn đầu tư công.
Tám là, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình về tài chính ở các đơn
vị sử dụng ngân sách, thực hiện nghiêm kỷ luật tài khóa.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã tăng cường đáng kể tính minh bạch và trách
nhiệm giải trình ngân sách. Từ chỗ ngân sách được coi là “bí mật” Nhà nước, đến nay
thông tin được công khai với mức độ tương đương với các quốc gia khác có thu nhập
ngang và cao hơn Việt Nam. Tuy nhiên, độ tin cậy, khả năng chia sẻ và tính hữu ích của
dữ liệu vẫn cần được tiếp tục cải thiện. Theo đó cần tăng cường tính minh bạch và phù
hợp với thông lệ quốc tế trong cách trình bày và báo cáo NSNN, làm nền tảng cho việc ra
11


quyết định chính sách kịp thời, đánh giá hiệu quả hoạt động dịch vụ công và chính sách
thu, chi tiêu công, nâng cao trách nhiệm giải trình và hội nhập quốc tế.

Nâng cao hiệu suất chi tiêu cũng đòi hỏi phải có các biện pháp minh bạch, công
bằng và hiệu quả trong lĩnh vực đấu thầu mua sắm và quản lý dự án. Hiện đã có những nỗ
lực lớn về cải cách đấu thầu mua sắm trong khu vực công, nhưng hầu hết các thành tưu
đạt được đến nay chủ yếu nhằm hình thành khung pháp lý. Công tác triển khai vẫn là một
thách thức. Chỉ định thầu vẫn là hình thức chi phối mặc dù đấu thầu cạnh tranh đã chứng
minh được lợi ích của nó. Những biện pháp chính trong lĩnh vực đấu thầu mua sắm bao
gồm tăng cường cạnh tranh và minh bạch trong quá trình đầu thầu, đảm bảo cơ chế xử lý
khiếu nại độc lập và hướng dẫn xử lý tranh chấp trong thực hiện hợp đồng (trên cơ sở
Luật Đấu thầu năm 2015).
Tóm lại để chi tiêu công đạt hiểu quả tốt nhất, chúng ta nên ưu tiên những nhóm
hàng hóa công có mức độ thuần túy công cao hơn là những nhóm hàng hóa có mức độ
thuần túy thấp. Bên canh đó, chúng ta cần nâng cao, hoàn thiện các chính sách chi tiêu
công của chỉnh phủ để phát triển kinh tế cũng như là hạn chế sự chi tiêu lãng phí của
chính phủ vào những dự án không cần thiết và không mang lại hiệu quả cao cho sự phát
triển đất nước.

12



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×