Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

BẢN CHẤT của HOẠT ĐỘNG LÃNH đạo QUẢN lý-tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.99 KB, 20 trang )

Tên môn: QUẢN LÝ BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG
Đề tài: BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ
CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO
1. Khái niệm của hoạt động lãnh đạo
Khái niệm: Hoạt động lãnh đạo là một quá trình hành vi giữa người lãnh
đạo và người bị lãnh đạo thông qua một phương thức nhất định, kết hợp lại cùng
thực hiện một mục tiêu của tổ chức, cũng là quá trình vận động làm cho các yếu
tố của hoạt động lãnh đạo liên hệ với nhau và tác động lẫn nhau.
2. Bản chất của hoạt động lãnh đạo
Hoạt động lãnh đạo có tính quần thể. Lãnh đạo là quá trình hành động, kết
hợp thống nhất giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo, là hoạt động quần thể
của xã hội. Trong hoạt động lãnh đạo, người lãnh đạo và người bị lãnh đạo là chủ
thể, suy đến cùng quần chúng với tư cách là người bị lãnh đạo có tác dụng quyết
định, còn người lãnh đạo có tác dụng chủ đạo. Nếu khuyết thiếu một trong hai
nhân tố đều không thể cấu thành hoạt động lãnh đạo, đều không thể thực hiện
được nhiệm vụ và mục tiêu dự định. Vì thế muốn thực hiện tốt hoạt động lãnh
đạo phải biết thống nhất cả hai nhân tố, phát huy tính tích cực của cả hai nhân tố
đó.
Hoạt động lãnh đạo khác với hoạt động quản lý chung là hoạt động lãnh
đạo có tính chiến lược. Hoạt động quản lý chung chủ yếu là để quán triệt, chấp
hành mục tiêu, phương châm cụ thể, còn hoạt động lãnh đạo luôn phải xuất phát
từ toàn cục, chế định chiến lược, quyết sách có tính toàn cục. Vì thế lãnh đạo
phải dựa trên quan điểm toàn cục, chiến lược, phải có tư duy chiến lược không
mù quáng rời vào sự vụ cục bộ, dẫn đến chỉ lo sự vụ nhỏ mà bỏ sót nhiệm vụ
lớn, gây thất bại cho toàn cục.
Lãnh đạo phải có dự kiến, dự kiến là đặc trưng quan trọng cần có của hoạt
động lãnh đạo. Tài năng và trình độ của người lãnh đạo thường biểu hiện ở năng
lực dự kiến. Hoạt động lãnh đạo có thể thành công hay không, điều quan trọng
được quyết định bởi người lãnh đạo có thể dự kiến, đưa ra quyết định một cách
khoa học hay không. Muốn thế người lãnh đạo phải nắm chắc thế giới quan và
1




phương pháp luận, giỏi điều tra nghiên cứu, nắm chắc quy luật phát triển của sự
vật khách quan, tìm hiểu tiến trình và xu thế phát triển của sự vật đồng thời phải
nhận biết quá khứ, đi sâu vào tìm hiểu hiện trạng và lại phải nắm bắt xu thế mới
có thể thực hiện lãnh đạo đúng đắn. Đặc biệt trong điều kiện sản xuất lớn xã hội
hóa hiện đại, hoạt động lãnh đạo đòi hỏi phải có dự kiến khoa học, đưa ra quyết
sách khoa học và thực thi một cách đúng đắn mới có thể thành công.
Hoạt động lãnh đạo luôn phải được thực hiện hoàn thành nhiệm vụ mới
của thời đại trong điều kiện lịch sử nhất định. Điều này đòi hỏi người lãnh đạo
phải phát huy tính sáng tạo, nghiên cứu tình hình mới, đề ra mục tiêu, phương
châm, biện pháp chiến lược mới để giải quyết vấn đề, mở ra cục diện mới của
công tác lãnh đạo. Người lãnh đạo phải nắm chắc lý luận và phương pháp tiên
tiến, trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan, triển khai hoạt động lãnh đạo một
cách sáng tạo để thực hiện mục tiêu lãnh đạo. Do đó người lãnh đạo cần nỗ lực
nâng cao tính sáng tạo, năng lực tư duy của mình, phát huy đầy đủ tinh thần sáng
tạo trong hoạt động lãnh đạo.
Nghệ thuật lãnh đạo là kỹ năng lãnh đạo được xây dựng trên cơ sở tri
thức và kinh nghiệm của người lãnh đạo. Đó là nghệ thuật hoàn thành công việc
thông qua con người. Để thực hiện mục tiêu công tác, người lãnh đạo khéo léo
vận dụng quyền lực, ảnh hưởng đến người bị lãnh đạo (với những đặc điểm tâm
lý phức tạp khác nhau) một cách có hiệu quả, điều chỉnh các mối quan hệ và mâu
thuẫn; sử dụng các kỹ năng, kỹ xảo, thủ thuật và phương pháp đặc thù để cải
biến hoàn toàn bên trong, bên ngoài của lãnh đạo. Đó là sự phản ánh tổng hợp và
thể hiện trong công tác về mặt tâm lý trí tuệ, học vấn, tài năng, tố chất, tác
phong, khí chất, cá tính, phẩm chất, sức ảnh hưởng, sức thu hút, kinh nghiệm của
người lãnh đạo.
Hoạt động lãnh đạo không có cách thức và quy định thống nhất.
Có tính tùy cơ và tính linh hoạt, có nghĩa là không phải vận dụng khoa học và
phương pháp lãnh đạo một cách máy móc, giản đơn mà là dựa vào sự thay đổi

của tình hình, vận dụng phương pháp lãnh đạo có tính linh hoạt, tính sáng tạo
nhằm trúng đối tượng, hoàn cảnh, vấn đề.
2


Hoạt động lãnh đạo vó tính đặc thù và tính ngẫu nhiên, nghệ thuật lãnh
đạo cụ thể, thông thường là phương pháp và thủ thuật đặc thù. Lãnh đạo là khả
năng của một người tác động, thúc đẩy, hướng dẫn và chỉ đạo người khác để đạt
mục tiêu đã đề ra của tổ chức. Lãnh đạo phải liên quan đến người khác (cấp
dưới) chấp nhận sự chỉ đạo của mình (cấp trên), không có cấp dưới thì năng lực
lãnh đạo không thể biểu hiện và nhận biết được. Lãnh đạo gắn liền với sự phân
bổ không bình đẳng quyền lực giữa lãnh đạo và các thành viên, các nhà lãnh đạo
không chỉ chỉ đạo cấp dưới mà còn sử dụng ảnh hưởng của mình để đòi hỏi cấp
dưới thực hiện những mệnh lệnh của mình.
Lãnh đạo vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật vì những lý do
sau. Lãnh đạo là một khoa học vì nó đòi hỏi người lãnh đạo phải có tri thức hiểu
biết khoa học về tất cả mọi mặt,mọi lĩnh vực, nhận thức và vận dụng đúng quy
luật, nắm vững đối tượng, có thông tin đầy đủ chính xác, có khả năng thực hiện.
Nhà lãnh đạo phải nhận xét các sự kiệnmột cách khách quan, gạt bỏ những tình
cảm và các giá trị khác biệt. Kết luận các sự kiện phải theo những nguyên tắc rõ
ràng, theo các quy luật khách quan. trong quốc gia hoạt động lãnh đạo phải dựa
trên những phương pháp quản lý lãnh đạo khoa học, làm việc theo phương pháp
khoa học.
Lãnh đạo là một nghệ thuật vì: kỹ năng lãnh đạo, quản lý được xây
dựng trên cơ sở tri thức và kinh nghiệm của người lãnh đạo. Lãnh đạo lấy con
người làm đối tượng, tư tưởng, tư tưởng, chính kiến, tình cảm của con người
luôn thay đổi đòi hỏi nhà lãnh đạo cảm hứng, sự thông minh và sáng suốt để
“dùng người”, chính là nghệ thuật khéo léo, nhạy cảm và sáng tạo để hoàn thành
công việc lãnh đạo thông qua việc con người trong tập thể, sử dụng các kỹ xảo,
thủ thuật để giải quyết các mối quan hệ nhiều chiều nhằm đạt kết quả cao nhất.

Lãnh đạo, quản lý không có cách thức và định hướng thống nhất, tuỳ thuộc vào
tâm lý trí tuệ, học vấn, tài năng, tố chất, tác phong và kinh nghiệm của mỗi người
mang tính linh hoạt và sáng tạo. Mỗi người có một thủ thuật đặc thù riêng để
hoàn thành công việc. Người lãnh đạo luôn hải tìm tòi những điều mới mẻ, cách
thức lãnh đạo sử dụng các nguyên tắc về lãnh đạo một cách mềm dẻo, sáng tạo
3


tuỳ hoàn cảnh thực tế để thu hút đối tượng lãnh đạo của mình.
Là một nghệ thuật nhưng nghệ thuật lãnh đạo tế nhị hơn các nghệ thuật khác ở
chỗ những hành động và quyết định của người lãnh đạo có ảnh hưởng đến nhiều
người khác. Nếu quyết định và hành động đúng sẽ thoả mãn các lợi ích của tập
thể và từng người tạo điều kiện và tăng động cơ làm việc tích cực của mỗi thành
viên từ đó sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức và ngược lại nếu quyết
định và hành động của người lãnh đạo nhằm vào việc thoả mãn nhu cầu cá nhân
mình thì sẽ gây bất bình trong tập thể, chia rẽ tập thể. Mỗi người lãnh đạo phải
luôn bình tĩnh, sáng suốt và trong sạch để tỏ rõ nghệ thuật của mình.
Đối với công tác quản lý hành chính đòi hỏi nhà lãnh đạo phải sử dụng
đúng uy quyền của mình do pháp luật quy định nhưng cũng uỷ quyền cho cấp
dưới chủ động để thực hiện các hoạt động có hiệu quả, phải biết tổ chức công
việc hợp lý, quan tâm giải quyết mối quan hệ với người dưới quyền, chú ý kỹ
thuật truyền đạt mệnh lệnh và tâm lý khi giao tiếp.
CHƯƠNG 2. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
1. Khái niệm
Một cách tổng quát nhất, quản lý được xem là quá trình tổ chức và điều
khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định, đó là sự kết hợp giữa tri thức
và lao động trên phương diện điều hành. Dưới góc độ chính trị: quản lý được
hiểu là hành chính, là cai trị; nhưng dưới góc độ xã hội: quản lý là điều hành,
điều khiển, chỉ huy. Dù dưới góc độ nào đi chăng nữa, quản lý vẫn phải dựa
những cơ sở, nguyên tắc đã được định sẳn và nhằm đạt được hiệu quả của việc

quản lý, tức là mục đích của quản lý.
Quản lý là sự tác động có mục đích đã được đề ra theo đúng ý chí của chủ
thể quản lý đối với các đối tượng chịu sự quản lý. Việc đúng ý chí của người
quản lý cũng đồng nghĩa với việc trả lời câu hỏi tai sao phải quản lý và quản lý
để làm gì.
Quản lý là sự đòi hỏi tất yếu khi có hoạt động chung của con người. Quản
lý là một chức năng lao động bắt nguồn từ tính chất lao động của xã hội. Từ khi
con người bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện những mục tiêu mà họ
4


không thể đạt được với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, thì nhu cầu quản lý
cũng hình thành như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân
hướng tới những mục tiêu chung. Xã hội phát triển qua các phương thức sản
xuất từ cộng sản nguyên thủy đến nền văn minh hiện đại, trong đó quản lý luôn
là một thuộc tính tất yếu lịch sử khách quan gắn liền với xã hội ở mỗi giai đoạn
phát triển của nó. Thuộc tính đó bắt nguồn từ bản chất của hệ thống xã hội, đó là
hoạt động lao động tập thể - lao động xã hội của con người. Trong quá trình lao
động con người buộc phải liên kết lại với nhau, kết hợp lại thành tập thể. Điều
đó đòi hỏi phải có sự tổ chức, phải có sự phân công và hợp tác trong lao động,
phải có sự quản lý.
Như vậy, quản lý là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng
đồng dựa trên sự phân công và hợp tác để làm một công việc nhằm đạt được
mục tiêu chung đề ra. Quản lý trong thời kỳ nào, xã hội nào thì phản ánh bản
chất của thời kỳ đó, xã hội đó. Ví dụ ở thời kỳ công xã nguyên thủy thì hoạt
động quản lý còn mang tính chất thuần túy, đơn giản vì lúc này con người lao
động chung, hưởng thụ chung, hoạt động lao động chủ yếu dựa vào săn bắn, hái
lượm, người quản lý bấy giờ là các trưởng làng, tù trưởng. Thời kỳ này chưa có
nhà nước nên hoạt động quản lý dựa vào các phong tục, tập quán chứ chưa có
pháp luật để điều chỉnh.

Tóm lại, quản lý là sự điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình,
căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng cho hệ thống
hay quá trình ấy vận động theo đúng ý muốn của người quản lý nhằm đạt được
mục đích đã đặt ra từ trước. Là một yếu tố thiết yếu quan trọng, quản lý không
thể thiếu được trong đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển về trình độ và quy
mô sản xuất, kỹ thuật công nghệ thì trình độ quản lý, tổ chức, điều hành càng
được nâng lên và phát triển không ngừng.
2. Bản chất của hoạt động quản lý
Quản lý muốn được thực hiện phải dựa trên cơ sở tổ chức và quyền uy.
Quyền uy là thể thống nhất của quyền lực và uy tín. Quyền lực là công cụ để
quản lý bao gồm hệ thống pháp luật và hệ thống kỷ luật nhà nước được tổ chức
5


và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phân cấp quản lý rành mạch.
Uy tín thể hiện ở kiến thức chuyên môn vững chắc, có năng lực điều hành, cùng
với phẩm chất đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng, đảm bảo cả
hai yếu tố “tài” và “đức”. Uy tín luôn gắn liền với việc biết đổi mới, biết tổ chức
và điều hành. Nói một cách ngắn gọn, có quyền uy thì mới đảm bảo sự phục
tùng của cá nhân đối với tổ chức. Quyền uy là phương tiện quan trọng để chủ
thể quản lý điều khiển, chỉ đạo cũng như bắt buộc đối với đối tượng quản lý
trong việc thực hiện các mệnh lệnh, yêu cầu mà chủ thể quản lý đề ra.
Hoạt động quản lý là khoa học, nghệ thuật và là một nghề trong xã hội.
Hoạt động quản lý là khoa học. Hoạt động quản lý phải dực trên những tri thức
khoa học được hệ thống, tổng hợp, khái quát thành lý luận, quan điểm, niềm
tin…; được kiểm nghiệm qua thực tiễn nói chung và thực tiễn hoạt động quản lý
nói riêng trở thành phương pháp luận chỉ đạo cho hoạt động quản lý. Phải tuân
theo các quy luật khách quan, phải dựa trên những phương pháp quản lý khoa
học và trên những phương pháp quản lý cụ thể.
Hoạt động quản lí là hoạt động phức tạp bởi đối tượng quản lí là con

người. Hoạt động quản lí không chỉ liên quan đến con người và tập thể mà còn
liên quan đến nhiều mối quan hệ (quan hệ chính trị, luật pháp, kinh tế,....). Nhà
quản lí không chỉ thực hiện công việc thông qua người khác, không chỉ thực
hiện chức năng của một nhà quản lí mà là một nhà giáo dục: văn hóa, truyền
thống,... liên quan đến tổ chức, lợi ích kinh tế cho tổ chức, người dưới quyền.
Hoạt động của nhà quản lí chủ yếu thực hiện thông qua giao tiếp. thông
qua hoạt động giao tiếp để thu thập thông tin quản lí, ra quyết định quản lí, điều
hành tổ chức thực hiện các quyết định quản lí, kiểm tra, đánh giá, hầu như tất cả
các khâu trong hoạt động quản lí đều được nhà quản lí thực hiện thông qua giao
tiếp.
Hoạt động quản lý là hoạt động mang tính gián tiếp. Hoạt động quản lí
chủ yếu được tiến hành thông qua hoạt động giao tiếp. Bản thân nhà quản lí
không trực tiếp tạo ra sản phẩm, song kết quả hoạt động quản lí của họ sẽ biểu
hiện bằng kết quả hoạt động chung của tập thể. Nhà quản lí giải quyết các nhiệm
6


vụ, chức năng của mình bằng cách tác động tới người khác: khuyến khích, động
viên, gây ảnh hưởng- sử dụng quyền lực của mình.
Hoạt động lao động quản lý là hoạt động lao động trí óc và mang nhiều
tính sáng tạo. Đặc trưng chung của hoạt đông lao động quản lý là lao động trí óc.
Đặc trưng chung đó chính là đặc điểm cơ bản mà từ đó dẫn đến những đặc điểm
khác của hoạt động lao động quản lý và những yêu cấu cần được lưu ý trong quá
trình tổ chức lao động cho lao động quản lý các loại. Lao động trí óc được định
nghĩa là: Sự tiêu hao sức lao động dưới tác động chủ yếu về các khả năng chí tuệ
và thần kinh tâm lý đối với con người trong quá trình lao động.Vì là hoạt động
lao động chủ yếu vì trí óc nên hoạt động lao động quản lý mang đặc tính sáng
tạo nhiều hơn so với lao động chân tay.
Hoạt động lao động quản lý là hoạt động mang tính tâm lý-xã hội cao.
Xuất phát từ đặc điểm lao động trí óc nên hoạt động lao động quản lý đặt ra yêu

cầu cao về yếu tố thần kinh - tâm lý đối với người lao động, tức là đặt ra yêu cầu
cao đối với khả năng nhận biết, khả năng thu nhận thông tin và các phẩm chất
tâm lý cần thiết khác (như có tưởng tượng, trí nhớ, khả năng khái quát về tổng
hợp,...). Đồng thời trong quá trình giải quyết nhiệm vụ lao động, tức các công
việc quản lý, các cán bộ nhân viên quản lý phải thực hiện nhiều mối quan hệ
giao tiếp qua lại với nhau. Do đó, yếu tố tâm lý - xã hội đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động lao động, ảnh hưởng tới nhiệt tình làm việc, chất lượng làm việc
và tiến độ thực hiện công việc của họ. Mặt khác, đối tượng quản lý ở đây là
những người lao động và các tập thể lao động nên đòi hỏi hoạt động lao động
quản lý phải mang tính tâm lý - xã hội giữa những người lao động với nhau.
Thông tin kinh tế vừa là đối tượng lao động, kết quả lao động, vừa là
phương tiện lao động của cán bộ quản lý.Trong quá trình lao động quản lý, đối
tượng lao động không phải là các yếu tố vật chất thông thường mà là các thông
tin kinh tế. Bằng hoạt động lao động của mình, lao động quản lý thu nhận và
biến đổi các thông tin để phục vụ mục đích quản lý ở các cấp quản lý trong xí
nghiệp. Những thông tin kinh tế chưa được xử lý là đối tượng lao động của lao
động quản lý còn những thông tin đã được xử lý chính là kết quả của hoạt động
7


lao động quản lý của họ. Mặt khác, thông tin kinh tế là phương tiện để hoàn
thành nhiệm vụ của tất cả lao động quản lý các loại. Hoạt động quản lý là các
thông tin các tư liệu thực hiện cho việc hình thành và thực hiện các quyết định
quản lý. Một sai sót nhỏ trong hoạt động quản lý có thể dẫn tới ảnh hưởng lớn
trong sản xuất, nên đòi hỏi các cán bộ, nhân viên quản lý phải có tinh thần trách
nhiệm cao.
Quản lý là một trong những hoạt động vừa khó khăn, vừa phức tạp, vừa là
một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, suy
thoái hay thịnh vượng của một tổ chức, một quốc gia, khu vực hay thậm chí là
toàn cầu. Sự phát triển xã hội dựa vào nhiều yếu tố như sức lao động, nguồn

vốn, tri thức, tài nguyên, năng lực quản lý. Trong đó năng lực quản lý được xếp
hàng đầu. Năng lực quản lý là sự tổ chức, điều hành, kết hợp tri thức với việc sử
dụng sức lao động, nguồn vốn và tài nguyên để phát triển xã hội. Quản lý tốt thì
xã hội phát triển, ngược lại nếu buông lỏng hay quản lý kém thì sẽ dẫn đến sự
rối loạn, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
CHƯƠNG 3. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ
Xét về khoa học lãnh đạo và khoa học quản lý, hai ngành khoa học này
không những không phải là quan hệ giữa bộ phận và toàn thể để có thể bao hàm
lẫn nhau, cũng không phải là một quan hệ đồng nhất để có thể thay thế nhau.
Khoa học lãnh đạo và khoa học quản lý có 3 điểm khác nhau sau đây:
Thứ nhất, sự khác nhau giữa chức năng giữa quản lý và lãnh đạo. Chức
năng lãnh đạo và chức năng quản lý là hoàn toàn khác nhau. Đối với chức năng
lãnh đạo, nhiều chuyên gia cho rằng trách nhiệm của người lãnh đạo chung quy
lại chủ yếu có 2 việc là sử dụng cán bộ và đưa ra chủ ý có tính chất quyết định.
Mọi kế hoạch, nghị quyết, mệnh lệnh đều là đưa ra chủ ý, những ý tưởng nhằm
giải quyết các công việc của tổ chức. Để cho mọi chủ ý được thực hiện, cần phải
đoàn kết cán bộ, cổ vũ họ thực hiện, cái đó thuộc về sử dụng cán bộ. Sử dụng
cán bộ tức là cổ vũ, khuyến khích, tạo điều kiện để họ phát huy sở trường, thực
hiện quyết sách. Sau khi đưa ra chính sách, người lãnh đạo cổ vũ họ thực hiện
8


chứ không phải bản thân người lãnh đạo tự thân thực hiện. Như vậy, chức năng
của lãnh đạo là đề ra chính sách và cổ vũ việc chấp hành chính sách. Còn chức
năng quản lý thì lại khác, là việc chấp hành chính sách, là việc quán triệt chấp
hành chính sách dưới sự cổ vũ của người lãnh đạo. Hai chức năng này khác
nhau, có thể diễn giải một cách đơn giản: lãnh đạo chủ yếu là quyết sách, quản
lý chủ yếu là chấp hành.
Có người nêu ra lãnh đạo có quyết sách, lẽ nào quản lý lại không có quyết
sách. Lãnh đạo có quyết sách, quản lý cũng có quyết sách, nhưng quyết sách

lãnh đạo, quyết sách quản lý, quyết sách thao tác là những khái niệm hoàn toàn
khác nhau. Quyết sách của lãnh đạo là những quyết sách chiến lược mang tính vĩ
mô, toàn cục. Đó là những quyết sách đặc trưng mà bất kỳ một nhà quản lý nào
cũng không thể có được. Đương nhiên, không nên quan niệm, chỉ có cấp trung
ương, chính phủ, quốc hội mới có quyết sách chiến lược mà chính quyền cơ sở,
phòng ban cấp dưới công ty, xí nghiệp không có những quyết sách chiến lược.
Các bộ ngành, mọi tổ chức các cấp đều có chiến lược của mình, nhưng tập thể
hay cá nhân đề ra quyết sách chiến lược đó thường là lãnh đạo của các tổ chức
này.
Thứ hai là nguyên tắc, nguyên lý khác nhau. Do chức năng không giống
nhau, nên nguyên lý, nguyên tắc cho đến phương thức, phương pháp của lãnh
đạo cũng khác với quản lý. Chức năng của lãnh đạo là định ra những quyết sách
chiến lược, nó quyết định quan trọng về vận mệnh, tiền đồ của các tổ chức. Vì
vậy, người lãnh đạo phải tập trung trí tuệ, sức lực để nắm những việc lớn hoặc
nói cách khác, người lãnh đạo phải làm việc lãnh đạo. Người lãnh đạo tài giỏi
đến đâu cũng rất khó có thể tập trung để suy nghĩ những chi tiết cụ thể tồn tại và
phát sinh trong quá trình chấp hành những quyết sách, càng không thể nói họ
nên đi trực tiếp thực hiện. Cho dù có sức lực, thời gian để nắm hết mọi việc lớn
nhỏ để tự mình làm hết thì cũng là không đúng vì làm như vậy sẽ gây khó đễ, sẽ
ức chế tính chủ động sáng tạo của cấp dưới, không thể rèn luyện được cán bộ,

9


làm cho cán bộ không phát triển được và do đó không bồi dưỡng được lớp người
kế cận.
Nguyên tắc cơ bản và phương pháp cơ bản của công tác lãnh đạo do chức
năng lãnh đạo quyết định là nắm việc lớn và không đi sâu vào việc vụn vặt.
Nhưng quản lý thì lại khác, do chức năng của quản lý là quán triệt thực hiện một
cách cụ thể quyết sách của lãnh đạo, nên cần phải tính toán kỹ đến các tình tiết

nhỏ nhất có thể xảy ra trong quá trình chấp hành cho đến các biện pháp có thể
giải quyết chúng. Những chi tiết nhỏ, những biện pháp này đối với người lãnh
đạo nó là việc nhỏ nhưng đối với người quản lý thì nó lại là việc lớn, sai một ly
đi một dặm, trong lịch sử đã có nhiều minh chứng cho sai lầm của một tình tiết
dẫn đến sự thất bại của công tác quản lý. Vì vậy, không thể coi nhẹ các tình tiết,
đó là phương pháp và nguyên tắc cơ bản của công tác quản lý.
Thứ ba, tiêu chuẩn của thành bại và mục tiêu của quản lý và lãnh đạo
khác nhau. Cho dù là người lãnh đạo hay người quản lý đều có sự phân biệt giữa
thành công và thất bại. Mọi người đều theo đuổi thành công và tránh thất bại.
Những tiêu chuẩn về thành bại của lãnh đạo và quản lý khác nhau. Ví dụ, giám
đốc nhà máy đưa ra quyết sách là sản xuất một loại sản phẩm, còn các cấp quản
lý thì đưa ra kế hoạch cụ thể, tổ chức thực hiện quyết sách của lãnh đạo. Mục
tiêu mà người quản lý theo đuổi đó là hiệu suất, người quản lý tốt là người quản
lý có hiệu quả. Người lãnh đạo có hiệu suất chưa chắc là người lãnh đạo thành
công, chỉ khi người lãnh đạo có hiệu năng thì mới là người lãnh đạo thành công.
Nói đến hiệu năng, tức là muốn chỉ hiệu năng lãnh đạo hoặc hiệu năng tổ chức ,
hiệu năng là tích hợp của cả mục tiêu và hiệu suất. Nghĩa là hiệu năng được
quyết định bởi mục tiêu của quyết sách có đúng hay không và việc chấp hành
quyết sách có hiệu suất hay không, đó cũng là hai nhân tố quan trọng nhất của
hiệu năng. Chỉ có mục tiêu của quyết sách đúng đắn, việc chấp hành quyết sách
lại có hiệu quả thì đó mới là người lãnh đạo thành công. Một sản phẩm sản xuất
ra vừa nhiều vừa tốt nhưng nó không phải là nhu cầu của thị trường, bán không

10


được mà sản xuất càng nhiều thì càng lãng phí. Đó thuộc về quyết sách và là
trách nhiệm của lãnh đạo.
Ba vấn đề trên đây là khác biệt cơ bản giữa lãnh đạo và quản lý. Từ đó có
thể đưa ra rất nhiều đặc trưng khác nhau giữa chúng. Chẳng hạn, công tác quản

lý tuy cũng cần các ngành khoa học mềm, những kiến thức thông thái, nhưng
những kiến thức chuyên ngành của khoa học quản lý chủ yếu là thuộc khoa học
cứng, kỹ thuật cứng như các ngành thuộc tài vụ, kế toán,…Còn công tác lãnh
đạo thì khác, nó chỉ cần những ngành khoa học mềm, kỹ thuật mềm. Đương
nhiên, người lãnh đạo cũng cần biết những khoa học cứng và kỹ thuật cứng,
nhưng người lãnh đạo cũng không cần hiểu sâu, hiểu kỹ như những chuyên gia
quản lý.
Sự khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý là rõ ràng và quan hệ giữa chúng
cũng rất sâu sắc, mật hiết. Lãnh đạo và quản lý đều có một quá trình ra đời và
phát triển. Lãnh đạo lại được tách ra từ quản lý, đó là tính mật thiết trong quan
hệ giữa hai ngành, khiến cho nhiều người không thấy được ranh giới giữa
chúng.
Ở phạm vi nhỏ hơn khoa học, lãnh đạo và quản lý là hai khái niệm đôi khi
dễ gây nhầm lẫn. Khi chưa hiểu bản chất của mỗi khái niệm này, chúng có thể
cho rằng chúng gần nghĩa với nhau, đều muốn nói đến công việc, hay vai trò của
người đứng đầu. Khi một người nắm giữ một chức vụ trong một tổ chức hay
trong một nhóm, chúng ta nói họ là nhà quản lý và cũng là nhà lãnh đạo, nhưng
không hẳn như vậy.
Trước hết, lãnh đạo chú trọng đến kết quả đạt được còn quản lý chú trọng
đến hoàn thành công việc theo khuôn khổ. Các nhà lãnh đạo truyền cảm hứng và
phát triển những người khác, thách thức hiện trạng, luôn đặt ra câu hỏi cái gì và
tại sao, và có tầm nhìn xa. Còn các nhà quản lý thì quản lý công việc, kiểm soát
ngân sách và chi phí, duy trì hiện trạng. Lãnh đạo liên quan đến sự đổi mới,
trong khi đó quản lý liên quan đến duy trì tình trạng hiện tại. Nhà quản lý sử
dụng các hệ thống kế toán, thông tin, quản lý hiệu suất công việc, hoạch định,
11


các chế độ lương, đào tạo, tuyển dụng nhân viên và kiểm tra để hướng thái độ
cấp dưới tới thành tích của tập thể hoặc các mục tiêu của tổ chức.

Lãnh đạo hướng các thành viên trong tổ chức đi theo tầm nhìn mới.
Trong khi các nhà quản lý tập trung vào tuân thủ các quy trình hiện có thì các
nhà lãnh xem xét và thậm chí đặt ra câu hỏi tại sao hệ thống lại tồn tại, cần phải
thay đổi thế nào để tổ chức sẽ vận hành tốt hơn. Nhà lãnh đạo thành công có thể
hướng hành vi cấp dưới đến với tầm nhìn mới này. Và để điều khiển tổ chức đến
đạt được tầm nhìn mới đòi hỏi những sự nỗ lực rất lớn. Lúc này cần có sự kết
hợp cả hai kỹ năng lãnh đạo và quản lý thì mới thực hiện thành công bất kỳ nỗ
lực thay đổi nào của tổ chức. Một trong những nguyên nhân thất bại của những
người đứng đầu là phải cố gắng rất nhiều mới có được kỹ năng lãnh đạo, kỹ
năng quản lý hoặc cả hai kỹ năng trên.
Có thể làm rõ sự khác biệt giữa hai khái niệm này qua bảng sau:
Lãnh đạo

Quản lý

Làm đúng việc

Làm việc đúng cách

Nhà lãnh đạo đổi mới

Nhà quản lý thực thi

Nhà lãnh đạo phát triển

Nhà quản lý duy trì

Nhà lãnh đạo truyền cảm hứng

Nhà quản lý kiểm soát


Nhà lãnh đạo có cái nhìn dài hạn

Nhà quản lý có cái nhìn ngắn hạn

Nhà quản lý hỏi Cái gì và Tại sao?

Nhà quản lý hỏi Như thế nào và Khi
nào?

Nhà lãnh đạo sáng tạo

Nhà quản lý mô phỏng

Qua đây, có thể thấy lãnh đạo và quản trị là những chức năng riêng biệt
nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Sự phân chia giữa lãnh đạo và
quản lý bắt đầu từ khi phân công xã hội tách ra làm hai khâu: ra quyết sách và
việc thực hiện.
Trong nền sản xuất lớn có sự phân công lao động chuyên môn ngày càng
rạch ròi vào khoảng cuối thế kỷ XVIII, khi khoa học kỹ thuật có nhiều tiến bộ,
12


nhiều nước tiến hành công nghiệp hóa, nhưng có tình trạng là nhiều kẻ ngoài
nghề. Nhà tư bản chiến hữu tư liệu sản xuất lại lãnh đạo sản xuất đã làm tăng
thêm trạng thái vô chính phủ trong sản xuất. Đến thế kỷ XIX, các xí nghiệp của
Mỹ bị sức ép cạnh tranh của thị trường, nếu muốn nâng cao chất lượng hàng hóa
buộc phải thực hiện chế độ thuê giám đốc chuyên nghiệp, còn gọi là chế độ
chuyên gia giám đốc. Đến đầu thế kỷ XX, những người lãnh đạo của một số
công ty xe hơi dân dụng ở Mỹ đề ra nguyên tắc “quyết sách tập trung, quản lý

phân tán” và xây dựng bộ quy chế phân quyền trong xí nghiệp. Đặc điểm của cơ
chế lãnh đạo này khác với cơ chế gia trưởng và tách quyền chiếm hữu với quyền
quản lý kinh doanh, thực chất là phân chia riêng rẽ quyết sách và chấp hành.
Quyền lực quản lý hàng ngày và trách nhiệm được phân chia rõ ràng. Do tính ưu
việt của thể chế phân quyền và phân công giữa quyết sách và chấp hành về sau
nó được các nước trên thế giới áp dụng khá phổ biến. Trên thực tế, sự phân công
xã hội giữa quyết sách và chấp hành trên lĩnh vực chính trị xuất hiện còn sớm
hơn. Tiêu biểu là sự phân chia cơ cấu lập pháp và cơ cấu chấp hành theo quy
luật: khi nhà nước pháp quyền dần lớn mạnh, nền dân chủ phát triển tất yếu sẽ
xuất hiện sự phân công xã hội mới.
Do đó có thể thấy sự phân định giữa lãnh đạo và quản lý, tức là lãnh đạo
lo quyết sách, quản lý lo chấp hành đều là hiện tượng lịch sử, nhưng không phải
từ trước tới nay đều đã có. Nó là kết quả phát triển lâu dài của xã hội, là kết quả
phát triển của sự phân công xã hội. Phân công xã hội là cơ sở khách quan, là
nguồn gốc xã hội của sự phân chia giữa lãnh đạo và quản lý, nếu tách rời cơ sở
đó sẽ không thu được kết quả rõ ràng.
Lãnh đạo và quản lý là hai khái niệm khác nhau, tuy vậy ở Việt Nam nó
hay bị làm lẫn lộn với nhau. Tức là các chức năng quản lý và lãnh đạo nhiều khi
bị đảo lộn, và với một bộ máy như vậy, tất yếu sẽ không có hiệu quả cao. Nếu ta
ví một cấu trúc tổ chức (của một doanh nghiệp, một viện khoa học, một Bộ, v.v.)
như là một sinh vật, thì phần lãnh đạo có thể ví như phần hồn còn phần quản lý

13


như phần thân của sinh vật đó. Cả phần lãnh đạo và phần quản lý đều có vai trò
quan trọng, đảm bảo sự vận hành hoạt động hiệu quả của cả cấu trúc tổ chức đó.
Nói về chức năng công việc, thì lãnh đạo và quản lý là hai công việc khác
nhau. Những công việc chủ yếu của lãnh đạo là: Phân tích tình hình, định
hướng, vạch ra chiến lược; đưa ra các quyết định quan trọng; làm điểm tựa về uy

tín cho tổ chức, đối với cả người bên trong lẫn người bên ngoài. Còn những
công việc chủ yếu của quản lý là: thực hiện các quyết định của lãnh đạo; xử lý
các công việc, đảm bảo cho bộ máy hoạt động trơn tru, hiệu quả. Ở các tổ chức
nhỏ, các việc lãnh đạo và quản lý hay được quy làm một, do cùng một người, ví
dụ như chủ một doanh nghiệp nhỏ đảm nhiệm. Tuy nhiên, đối với các tổ chức
lớn, thì sự phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý là cần thiết. Có những người có
khả năng làm cả hai công việc lãnh đạo và quản lý, và trong các tổ chức lớn
cũng có những vị trí đòi hỏi phải làm cả hai việc. Tuy nhiên, hai công việc này
đòi hỏi những loại kỹ năng khác nhau.
Những điều mà một người lãnh đạo cần có là: uy tín cá nhân cao, có trình
độ cao, tầm nhìn xa trông rộng, để có thể đưa ra những định hướng và quyết
định đúng đắn; biết phối hợp hài hòa với bộ phận quản lý.
Người quản lý thì không nhất thiết cần có trình độ cao, uy tín cao hay tầm
nhìn xa trông rộng như người lãnh đạo, nhưng ngược lại cần những đức tính
như: hiểu được và tuân theo các quyết định của lãnh đạo; có tính kỷ luật, cẩn
thận, tỉ mỉ, nắm sát các chi tiết,…Và tùy lĩnh vực quản lý mà cần có trình độ
chuyên môn tương ứng nhất định. Ví dụ như một người làm trưởng phòng nhân
sự (một chức vụ quản lý) ở một chỗ này, thì dễ có thể chuyển sang làm trưởng
phòng nhân sự ở chỗ khác, vì làm quản lý nhân sự ở đâu cũng gần giống nhau,
đòi hỏi cùng một loại kỹ năng. Nhưng một người làm viện trưởng (một chức vụ
lãnh đạo) cần có uy tín trong ngành A, và khó có thể chuyển thành làm viện
trưởng ngành B.
Ở nước ta, có không ít trường hợp các chức năng quản lý và lãnh đạo
nhiều khi bị đảo lộn, những người đáng nhẽ phải là lãnh đạo (ví dụ viện trưởng
14


một viện nghiên cứu) thì lại thành quản lý, còn người đáng nhẽ làm chức năng
quản lý (ví dụ trưởng phòng tổ chức) thì có khi lại thành lãnh đạo. Không phải ai
có trình độ và tầm nhìn trong khoa học đều tự động trở thành người lãnh đạo

khoa học giỏi, mà còn cần có tư cách, có thời gian bỏ ra quan tâm đến việc
chung và suy nghĩ làm sao để những người khác có thể phát huy khả năng khoa
học của họ.
Lãnh đạo là người đưa ra ý tưởng còn quản lý là người thực thi ý tưởng .
Điều này có nghĩa là lãnh đạo là một trong những người trong công ty có nhiệm
vụ nghĩ ra những ý tưởng mới và đưa vào kế hoạch của công ty trong giai đoạn
tiếp theo. Người lãnh đạo phải luôn có tầm nhìn và luôn phát triển các chiến
lược và chiến thuật mới. Do đó họ cần phải có hiểu biết về các xu hướng hay các
nghiên cứu và kỹ năng mới nhất.
Trong khi đó, người quản lý sẽ duy trì và vận hành những gì đã được thiết
lập để nó hoạt động trơn tru đúng kế hoạch. Người quản lý phải luôn để mắt tới
nhân viên cấp dưới và duy trì sự kiểm soát thường xuyên để nhằm đảm bảo sự
hoạt động của các bộ phận trong công ty. Vì trực tiếp làm việc với nhân viên nên
họ am hiểu nhân viên của mình, biết rõ ai là người phù hợp nhất với những
nhiệm vụ cụ thể.
Lãnh đạo củng cố niềm tin trong khi quản lý dựa vào kiểm soát. Người
lãnh đạo là người truyền cảm hứng cho nhân viên, để nhân viên biết như thế nào
là tốt nhất và làm thế nào để đẩy nhanh tiến độ. Ở vai trò người quản lý, công
việc của họ là duy trì việc kiểm soát nhân viên để nhân viên phát huy khả năng
và năng lực lớn nhất từ đó tạo ra sản phẩm hoặc tăng doanh thu/lợi nhuận cho
công ty. Để làm điều này một cách hiệu quả, người quản lý cần phải am hiểu rõ
cấp dưới của mình và hiểu cả đam mê, mong muốn về lương bổng của nhân
viên.
Nhà lãnh đạo là người có sức thu hút cá nhân mãnh liệt, đủ khả năng lôi
cuốn đám đông và đủ tài năng để biến ý tưởng thành chương trình hành động
khả thi. Còn nhà quản lý quan trọng nhất vẫn là ở khả năng tổ chức, biết quản lý
nhân viên và công việc hợp lý và hiệu quả. Nhà quản lý lấy kết quả làm mục
15



tiêu, kiến thức làm nền tảng, và tổ chức làm phương tiện. Vì vậy, đối với nhà
quản lý, soạn thảo chương trình hành động, kinh nghiệm và phương pháp làm
việc là vô cùng cần thiết khi tiến hành công việc. Ngược lại, nhà lãnh đạo chú
trọng vào việc tạo ra các thông điệp và lộ trình với sức thuyết phục để tạo được
sự lôi cuốn người đi theo mình.
Một công ty chỉ cần có một nhà lãnh đạo giỏi, vì có lãnh đạo giỏi sẽ thu
hút nhiều nhà quản lý có chất lượng. Không có lãnh đạo giỏi, công ty sẽ thiếu
khả năng thu hút người tài. Không có người tài, công ty không thể phát triển. Vì
vậy đào tạo lãnh đạo hay thu hút lãnh đạo là vô cùng quan trọng. Bởi có lãnh
đạo giỏi sẽ có quản lý giỏi. Nhưng có quản lý giỏi không có nghĩa sẽ có nhà lãnh
đạo giỏi. Một điểm khác biệt nữa giữa quản lý và lãnh đạo là có thể đào tạo các
nhà quản lý qua các khóa huấn luyện kỹ năng như tổ chức, truyền thông, điều
đình, quản lý thời gian và công việc,…. Nhưng đào tạo lãnh đạo là việc làm vô
cùng khó. Nhà lãnh đạo thực tài là sự kết hợp của cả tài năng bẩm sinh và quá
trình huấn luyện cá nhân.
Thực tế, quản lý là một tập hợp của các quá trình: lập kế hoạch, dự kiến
ngân sách, cơ cấu việc làm, đánh giá năng suất, giải quyết vấn đề, giúp công ty
thực hiện các công việc một cách trơn tru nhất. Quản lý giúp con người tạo ra
các sản phẩm và dịch vụ như đã hứa với chi phí và chất lượng hợp lý. Trong bất
kỳ công ty nào, đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Người ta thường đánh
giá thấp độ phức tạp của công việc này, đặc biệt nếu như chưa từng giữ chức vụ
quản lý cấp cao. Vì vậy, quản lý là rất quan trọng và thiết yếu nhưng đó không
phải lãnh đạo.
Lãnh đạo hoàn toàn khác biệt. Lãnh đạo giúp công ty hoặc tổ chức hướng
đến tương lai, nhận ra các cơ hội đang đến và khai thác cơ hội đó càng nhanh
càng tốt. Lãnh đạo phải có tầm nhìn xa và rộng, hiểu biết về khách hàng, tình
hình biến động của thị trường, và quan trọng nhất là tạo ra những thay đổi hữu
ích. Lãnh đạo không phải là thuộc tính, mà là hành vi. Và trong một thế giới
ngày càng chuyển động nhanh hơn, công việc lãnh đạo ngày càng trở nên cần
thiết, dù ở chức vụ nào. Quan điểm cho rằng những người xuất chúng ở chức vị

16


cao nhất mới có nhiệm vụ lãnh đạo là hoàn toàn sai lầm, và thường dẫn đến thất
bại.
Với bản chất của nền công nghiệp hóa - hiện đại hóa, người cán bộ lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào cũng phải là
những chủ thể hội đủ các phẩm chất và năng lực tương ứng. Lãnh đạo trong sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa là công việc đầy tính sáng tạo, kết hợp
nhuần nhuyễn khoa học và nghệ thuật, cần sự nhìn nhận, phân tích, liên kết, tổng
hợp, điều hòa vô vàn mối quan hệ để vạch ra chủ trương, đường lối, chiến lược,
sách lược, điều hành hệ thống công việc đạt được mục đích cao.
Người lãnh đạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay
vừa là chủ thể có những phẩm chất phù hợp với xã hội hiện đại, vừa có đủ năng
lực để lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ cách mạng hiện nay. Người lãnh đạo
trong giai đoạn mới này phải là chủ thể làm chủ các phương tiện khoa học công nghệ hiện đại, nắm chắc cơ cấu và phương thức vận hành của nền sản xuất
công nghiệp, của cơ cấu, tổ chức, vận hành của xã hội hiện đại; vừa phải nâng
cao tính độc lập, vừa phải đặt mình trong tổng thể cơ cấu thống nhất - liên hoàn
của một xã hội phát triển cao. Người lãnh đạo muốn đáp ứng sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải có tầm nhìn thời đại; có trình độ và khả năng
phù hợp với bản chất của xã hội công nghiệp – xã hội hiện đại; có tư duy khoa
học, phương pháp tư duy duy vật biện chứng, phù hợp tính chất công nghiệp, lối
sống hiện đại, biểu hiện trong năng lực tư duy sắc bén nhanh nhạy, uyển chuyển,
sáng tạo; có tư chất đặc thù của người lãnh đạo như vững vàng về tinh thần, phát
triển sâu sắc và phong phú thế giới nội tâm; yếu tố lý trí và yếu tố tình cảm hài
hòa; có tri thức và kinh nghiệm phát triển tương ứng với tính chất công việc
được giao: tri thức tổng hợp và chuyên sâu; có trình độ cao, kể cả hiểu biết về
nền khoa học – công nghệ hiện đại, cũng như thao tác về kỹ thuật vi tính, viễn
thông...; khả năng thu hút mọi người và quy tụ họ xung quanh mình, tổ chức,
huy động, phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể để thực hiện tối ưu mục tiêu

chung; khả năng, dự báo các khả năng có thể xảy ra trong hiện thực và tương lai,
17


đồng thời dự phòng các khả năng giải quyết, thực hiện chúng trong những điều
kiện ngặt nghèo nhất; khả năng sáng tạo, phá vỡ cái định hình, vượt qua cái cũ,
tìm tòi, khám phá, phát hiện và đề xuất cái mới có ích cho nhân dân, có giá trị
cho xã hội; sự quyết đoán, táo bạo, đồng thời lại chắc chắn trong việc đưa ra
những quyết định cũng như trong chỉ đạo hành động.
Nhiều người vẫn cho rằng có thể thay thế quản lý và lãnh đạo cho nhau.
Điều này rõ ràng là sai vì chúng có chức năng khác nhau. Cho tới khi nào thực
sự hiểu rõ vấn đề, chúng ta mới có thể giải quyết những vấn đề đặt ra giữa lãnh
đạo và quản lý. Thông thường, nhiều công ty vẫn thường tăng cường khả năng
lãnh đạo bằng cách chăm chỉ quản lý hơn. Và rút cuộc quản lý quá nhiều nhưng
lại thiếu sự lãnh đạo đúng đắn, khiến công ty hoặc tổ chức trở nên dễ tổn thương
trong một thế giới chuyển động quá nhanh.
Ở nước ta những năm vừa qua có thực trạng đề bạt nhân sự gây ồn ào dư
luận, việc đề bạt diễn ra tùy tiện, tràn lan và không có hệ thống. Pháp luật hiện
hành quy định khá chặt chẽ về tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức trong tổ
chức, cơ quan, doanh nghiệp nhà nước. Thế nhưng, tình trạng lợi dụng quyền
lực để cài cắm, đưa người thân vào làm việc, bổ nhiệm trái quy định gây mất
dân chủ, đoàn kết nội bộ diễn ra ở nhiều nơi. Một số người là con cháu của quan
chức nhưng làm việc rất hiệu quả, thực sự có tài thì sẽ đưa tổ chức, doanh
nghiệp đi lên. Nhưng đại đa số những người được đưa vào đều làm việc rất kém
hiệu quả và đẩy tổ chức, doanh nghiệp đi xuống. Chính sự lạm quyền đã sinh ra
kiểu tuyển dụng ưu tiên quan hệ, sử dụng đồng tiền đè nặng lên hiệu quả hoạt
động của cơ quan công quyền, doanh nghiệp nhà nước. Cũng có thể từ một
người làm quan mà cả họ trục lợi bằng nhiều cách, sẽ tận dụng lợi thế để làm lợi
riêng cho mình. Thực trạng này cho thấy việc ngăn chặn tình trạng tùy tiện
tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ cần có sự vào cuộc quyết liệt từ các cấp ngành, địa

phương, của cả hệ thống chính trị. Muốn hạn chế được tình trạng trên, đơn vị
chủ quản phải kiểm soát chặt chẽ vấn đề nhân sự, phát huy dân chủ cơ sở, công
tác tổ chức cán bộ, tuyển dụng, đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm, xử lý cán bộ phải
18


thực sự công tâm, khách quan, dân chủ, theo đúng nguyên tắc, quy định, quy
trình. Có như vậy mới mong hạn chế phần nào tình trạng này.
Hoặc những vấn đề còn tồn tại trong công tác quản lý cán bộ. Từ khi ra
đời đến nay, lúc nào Đảng ta cũng coi trọng công tác cán bộ. Nhờ đó Đảng đã
xây dựng được các thế hệ cán bộ hùng hậu kế tiếp nhau qua các chặng đường
cách mạng. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ được tôi luyện, trưởng thành, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, hết lòng phấn đấu
hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên,
ở nhiều nơi có lúc việc đánh giá, sử dụng cán bộ còn chủ quan, cảm tính, cục bộ
địa phương, thiếu dân chủ, làm cho một số cán bộ có đức, có tài bị bỏ quên,
trong khi đó, không ít kẻ cơ hội, thiếu tài, kém đức lại được trưng dụng, làm mất
đoàn kết nội bộ, hỏng việc, thậm chí gây ra những tổn hại to lớn cho việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
Tóm lại, có thể đào tạo quản lý và tạo điều kiện và môi trường cho lãnh
đạo tài giỏi xuất hiện. Phải hiểu rõ sự khác biệt giữa quản lý và lãnh đạo, chúng
ta mới có thể đào tạo quản lý và tìm kiếm lãnh đạo thích hợp cho tổ chức mình.
Cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý không cần nhiều, chỉ cần một con số vừa đủ
nhưng phải có chất lượng cao, thực sự giỏi và có tầm nhìn. Một công ty, một cơ
quan, một tổ chức có bộ máy lãnh đạo và quản lý tài giỏi thì năng suất, hiệu quả
làm việc sẽ cao hơn, tốt hơn và cơ hội thành công sẽ lớn hơn nhiều. Mong rằng
trong tương lai Việt Nam sẽ có những nhà quản lý, nhà lãnh đạo tài giỏi trên
nhiều lĩnh vực khác nhau để đưa đất nước đi lên, từng bước hội nhập với thế
giới.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Lao
Động, Hà Nội.
19


2. PGS. TS Vũ Dũng (2006), Giaó trình Tâm lý học quản lý, Nxb Đại
học Sư phạm, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn, PGS.TS. Phan Huy Đường (2013), Giáo
trình Khoa học Quản lý, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
4. Daron Acemoglu, James A. Robinson (2013), Tại sao các quốc gia thất
bại, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Khoa Xây dựng Đảng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2012), Đề
cương bài giảng Khoa học lãnh đạo quản lý, Hà Nội.

20



×