Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

NÉT ĐẶC SẮC VỀ BÀI THƠ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.14 KB, 2 trang )

NÉT ĐẶC SẮC CỦA BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

Bài thơ về Tiểu đội xe không kính là bài ca về những đoàn xe ra trận
trong những năm “tất cả vì Miền Nam phía trước”. Là người lính trong
đoàn quân “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” nên Phạm Tiến Duật không
chỉ mang vào thơ hơi thở nóng hổi của chiến tranh mà còn phản ánh
chân thực những khó khăn, thiếu thốn cũng như tinh thần lạc quan, yêu
đời, không sợ hy sinh gian khổ của người lính lái xe.
Bài thơ không hay về vần điệu, ngôn từ. Nhiều câu thơ trong bài
rất gần với lời nói thường ngày đậm chất văn xuôi. Cả bài thơ, tác giả
chỉ dùng một từ Hán Việt “tiểu đội”, 3 hình dung từ: “ung dung”, “phì
phèo”, “chông chênh”; còn lại là từ thông dụng trong giao tiếp hàng
ngày. Nhưng nhà thơ đã “phù phép” cho thứ chất liệu ngôn ngữ thô mộc
ấy thành một bài thơ hay: ám ảnh và lay động mạnh mẽ tâm hồn người
đọc; đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969; được tuyển chọn
vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở. Vậy yếu tố
nào tạo nên sự đặc sắc của bài thơ?
Toàn bài thơ được xây dựng bằng cấu trúc đối lập. Đối lập giữa tình
trạng xe càng ngày càng hư hỏng, thiếu thốn do bom đạn kẻ thù gây
ra: “Không có kính, rồi xe không có đèn/ Không có mui xe, thùng xe có
xước” với hoạt động liên tục suốt ngày đêm tiến ra phía trước của xe:
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy”, “xe vẫn chạy vì Miền Nam
phía trước”. Đối lập giữa những gian khổ, nguy hiểm dọc đường mà
người lính phải chịu đựng: “bom giật, bom rung”, “bụi phun tóc trắng”,
“mưa tuôn mưa xói”… với tư thế hiên ngang, tinh thần vượt hoàn cảnh,
niềm lạc quan yêu đời, ý chí chiến đấu vì Miền Nam ruột thịt của người
chiến sĩ : “Ung dung buồng lái ta ngồi”, “Chưa cần rửa, phì phèo châm
điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, “Chưa cần thay, lái trăm
cây số nữa/ Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi” … Các hình ảnh, từ ngữ
trong bài cũng có sự đối lập. Khi nói về sự tàn phá của bom đạn kẻ thù
và ảnh hưởng xấu của thiên nhiên, nhà thơ sử dụng những động từ


mạnh: “ giật”, “ rung”, “phun”, “tuôn”, “xối”; còn khi khi nói về tác hại
của chúng đối với người lính, tác giả lại sử dụng những từ ngữ chỉ trạng
thái ung dung, êm dịu, nhẹ nhàng: “ung dung… ngồi”, “xoa” cùng
những hình ảnh đùa nghịch tếu táo, vui vẻ rất lính tráng: “tóc trắng như
người già”, “phì phèo châm điếu thuốc” hay cách nói bất cần: “chưa cần
rửa”, “chưa cần thay” và đặc biệt tiếng cười “ha ha” vô tư, sảng khoái.
Chỉ một giọng cười ấy làm tiêu tan mọi gian khổ, mọi gian nguy của
chiến tranh, lửa đạn; làm cho cái gian lao trở thành một thú vui.
Nhà thơ cũng có nhiều sự sáng tạo trong cách xây dựng câu.
Phần lớn các câu trong bài là câu đặc biệt và câu thơ vắt dòng. Có lúc
nhà thơ thay từ “ừ thì” (thường để tự nhủ) cho quan hệ từ “cho nên”
trong kiểu câu nguyên nhân – kết quả: “Không có kính, ừ thì có bụi”,
“Không có kính, ừ thì ướt áo” (thông thường nói: không có kính cho nên
ướt áo; …) để nói được một cách tự nhiên, nhanh chóng phù hợp với
tình hình thời chiến cũng như thể hiện tinh thần bình thản, coi thường
đến mức bất chấp những gì xẩy ra. Đồng thời, nhà thơ còn sử dụng một
số kiểu câu đối thoại: “Không có kính không phải vì xe không có kính/
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi” mang tính tranh luận nhằm giải thích
cho tính khốc liệt của chiến tranh và hiện thực trần trụi của cuộc chiến.
Từ đó, khẳng định cái làm nên chiến thắng là ý chí, nghị lực của con
người, là sức mạnh chính nghĩa, là niềm tin tất thắng của một dân tộc
“thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”.
Mặt khác, nhà thơ phát hiện ra cách nhìn vừa mới mẻ vừa táo bạo
của người lính. Họ không chỉ nhìn đất, nhìn trời mà còn dám nhìn thẳng
vào gian khổ, hy sinh; không run sợ, không né tránh để thấy cả hiện tại
và tương lai. Do đó, cái nhìn của các anh là cái nhìn có tầm thời đại.

(Bài đã đăng Tài hoa trẻ 273, ra ngày 23/07/2003)

×