Tải bản đầy đủ (.docx) (122 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.34 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA KINH TẾ

VŨ THỊ QUẾ ANH

XÕY DựNG Hệ THốNG NHắN TIN NộI Bộ
DựA TRỜN CỎC THIếT Bị THỤNG TIN
KHỤNG DÕY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI, 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

VŨ THỊ QUẾ ANH

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI
PHÁP
CHUYÊN NGÀNH

:KTCT XHCN

MÃ SỐ

:5.02.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HỒNG SƠN

HÀ NỘI, 2004

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ NGÀNH NÔNG NGHIỆP

1.1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của cơ cấu kinh tế
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và những nhân tố ản

1.2. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp
1.2.1. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
1.2.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông ngh
1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở một số nước.
1.3.1.
1.3.2.
1.3.3.
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 1986 - 2002

2.1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam

giai đoạn 1986 - 2002
2.1.1. Cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ
2.1.2. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng: nôn
ng
2.1.3. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp: trồn
ch
2.1.4. Cơ cấu nội bộ ngành trồng trọt
2.1.5. Cơ cấu nội bộ ngành chăn nuôi
2.2. Khái quát những thành tựu và hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam từ sau đổi mới
2.2.1.
N


2.2.2. Những hạn chế trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
th
CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH
NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

3.1. Định hướng giải pháp cho vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam
3.2.1. Xây dựng các quy hoạch tổng quan phát triển các ngành
x
3.2.2. Củng cố và mở rộng thị trường cho hàng nông sản, đặc
q
3.2.3. Tăng cường hoạt động chuyển giao công nghệ, đẩy nha
d


3.2.4. Phát triển công nghiệp chế biến giải quyết đầu ra cho hà
n
ng
3.2.5. Khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất nông nghi
h
3.2.6. Tổng kết và nhân rộng các mô hình chuyển dịch cơ cấu
n
3.2.7. Đổi mới chính sách và tăng cường hiệu lực quản lý của
n
k
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Cơ cấu ngành nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1986-2002.........................43
Bảng 2: Cơ cấu lao động ngành nông nghiệp (%).................................................. 44
Bảng 3: Chi ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn 1996-2001...........44
Bảng 4: Cơ cấu giá trị sản xuất trồng trọt- chăn nuôi- dịch vụ..............................50
Bảng 5: Tốc độ tăng trưởng trồng trọt- chăn nuôi và dịch vụ 1990-2002..............52
Bảng 6: Giá trị sản xuất ngành trồng trọt 1986-2002 (theo giá so sánh 1994).......56
Bảng 7: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt (%)............................................. 57
Bảng 8: Cơ cấu diện tích lương thực..................................................................... 59
Bảng 9: Cơ cấu diện tích gieo trồng một số cây công nghiệp lâu năm...................65
Bảng 10 : Diện tích trồng cây công nghiệp hàng năm........................................... 68
Bảng 11: Diện tích và giá trị sản xuất cây ăn quả 1990-2002................................70
Bảng 12: Giá trị sản xuất ngành trồng trọt (theo giá so sánh 1994)/ha đất.............72

Bảng 13: Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi theo giá so sánh 1994.........................73
Bảng 14: Tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi (%)................................... 73
Bảng 15: Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi (%)........................................ 75

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1 - Cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam giai đoạn 1986-2002.................. 36
Biểu đồ 2 - Sự gia tăng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp 1986-2002.................41
Biểu đồ 3 - Tỷ trọng nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản trong giá trị sản xuất
toàn ngành nông nghiệp của Việt Nam giai đoạn 1986-2002.............42
Biểu đồ 4 - Cơ cấu giá trị sản xuất trồng trọt- chăn nuôi- dịch vụ.........................50
Biểu đồ 5- Tốc độ tăng trưởng trồng trọt- chăn nuôi và dịch vụ 1990-2002 (%) .. 52
Biểu đồ 6- Sự gia tăng giá trị sản xuất ngành trồng trọt......................................... 56
Biểu đồ 7- Cơ cấu các nhóm cây trồng.................................................................. 57

3


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng, sản xuất

nông nghiệp của Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Trong một thời
gian không dài, từ một nền nông nghiệp tự túc, lạc hậu Việt Nam đã bước đầu
xây dựng được một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa; từ chỗ phải nhập
khẩu lương thực, Việt Nam không những đảm bảo được an toàn lương thực
quốc gia mà còn có xuất khẩu. Hơn thế nữa, một số mặt hàng nông nghiệp
xuất khẩu còn có vị thế và thị phần cao trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, hiện nay, sự phát triển của

nông nghiệp Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Các
nguồn lực nông nghiệp của Việt Nam vẫn đang bị sử dụng một cách lãng phí
và hiệu quả thấp. Với điều kiện khí hậu thuận lợi, đất đai màu mỡ... và với
hơn 75% lực lượng lao động nhưng nông nghiệp chỉ đóng góp 23% vào tổng
sản phẩm quốc dân.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, Nghị quyết hội nghị TW 5
khoá VII đã xác định: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình “tiếp tục đổi mới và phát triển kinh
tế nông thôn”. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được coi là
nội hàm của sự phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp Việt Nam, từ đó đưa ra các gợi ý về giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả phát triển của ngành nói riêng và phát triển kinh tế đất nước nói
chung là rất cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2.

Tình hình nghiên cứu

4


Chuyển dịch cơ cấu là nội hàm của sự phát triển kinh tế. Nông nghiệp
lại là một ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế vì vậy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp để thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển
theo hướng sản xuất hàng hoá đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa
học, kinh tế và quản lý. Điển hình là các công trình như:
-

Tác động của cơ chế quản lý kinh tế với việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, Luận án PTS của Nguyễn Hữu Đức, 1996.


-

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, TS. Lê Đình Thắng,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998.

-

Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt
nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ thế kỷ XX đến thế kỷ XXI
trong thời đại kinh tế tri thức, Chủ biên Lê Quốc Sử, NXB Thống Kê, Hà
Nội 2001.

-

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Yên Bái trong quá trình CNH,
HĐH, Luận án PTS của Vũ Ngọc Kỳ, 1996.

Tuy nhiên, do mục tiêu và yêu cầu nghiên cứu khác nhau, phần lớn các
công trình nghiên cứu trên chỉ tập trung nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trên diện rộng là cơ cấu kinh tế nông thôn hoặc nếu có nghiên cứu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thì chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp
trong một tỉnh. Một vài nghiên cứu có đề cập đến xu hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp hay tác động của việc quản lý Nhà nước đến quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhưng việc khái quát và luận
giải quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Việt Nam một cách
rõ ràng, khoa học dường như chưa được đề cập đến. Đề tài này sẽ cố gắng lấp
những chỗ trống kể trên.
3.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận
văn Mục đích nghiên cứu:
5


Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp


một số nước, luận văn phân tích và làm rõ thực trạng quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất những giải
pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt
Nam theo hướng hợp lý hơn, hiệu quả hơn.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
-

Hệ thống hóa và phân tích một số luận điểm cơ bản về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành nông nghiệp và kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp của một số nước;

-

Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam
từ 1986 đến nay và chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế của quá trình đó;

-

Đề xuất quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc

đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Việt Nam
hiệu quả hơn.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.
-

Đối tượng nghiên cứu: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp có thể xem xét trên
nhiều góc độ khác nhau, song vì Luận văn nghiên cứu cơ cấu kinh tế
nông nghiệp trên phạm vi rộng của cả nước nên chỉ giới hạn nghiên cứu
về cơ cấu kinh tế nông nghiệp phân theo ngành (gọi tắt là cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp) và sự chuyển dịch cơ cấu ấy. Đồng thời, ngành
nông nghiệp được hiểu theo nghĩa hẹp bao gồm ba nhóm ngành là: trồng
trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp.

-

Phạm vi nghiên cứu: sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
Việt Nam trên phạm vi cả nước, có tham khảo kinh nghiệm chuyển dịch
6


cơ cấu kinh tế nông nghiệp của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến
trong khu vực.
Thời gian nghiên cứu: từ 1986 đến 2002

5.

Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử làm phương pháp nghiên cứu cơ bản, đồng thời kết hợp với các phương
pháp phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp... để làm rõ vấn đề nghiên cứu.

6.

Những đóng góp mới về khoa học của Luận văn
-

Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp

-

Phân tích và đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp ở Việt Nam

-

Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp của Việt Nam

7.

Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3
chương.
Chương 1:

Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp


Chương 2:

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp


Chương 3:

Việt Nam 1986-2002

Định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở
Việt Nam

7


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH NÔNG NGHIỆP

1.1.

Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

1.1.1. Khái niệm và đặc trƣng của cơ cấu kinh tế
Khái niệm cơ cấu thường được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong,
tỷ lệ và mối liên hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Sau một
thời gian biến đổi, các quan hệ giữa các bộ phận sẽ làm cho cơ cấu của hệ
thống thay đổi, nó chuyển sang một trạng thái khác về chất hay trở thành một
cơ cấu khác. Nếu hiểu biết cơ cấu của toàn bộ hệ thống thì sẽ nghiên cứu

được quy luật để xác định các vấn đề có tính định lượng của hệ thống đó. Vì
vậy, nghiên cứu về cơ cấu có vai trò cực kỳ quan trọng trong nghiên cứu hệ
thống và khi nghiên cứu cơ cấu, cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
-

Không chỉ nghiên cứu về những yếu tố cấu thành hệ thống mà còn phải
nghiên cứu về mối quan hệ, liên kết hữu cơ giữa các yếu tố đó (cả về tỷ
trọng số lượng, chất lượng các yếu tố) và sự vận động, biến đổi cơ cấu của
hệ thống. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu theo chuỗi thời gian.

-

Phải đứng trên quan điểm hệ thống để nghiên cứu cơ cấu.
Để nghiên cứu hệ thống kinh tế quốc dân, cần phải nghiên cứu về cơ

cấu cấu thành hệ thống đó. Trên quan điểm hệ thống như vậy, có thể hiểu cơ
cấu kinh tế của một nước là tập hợp các yếu tố cấu thành nền kinh tế của
nước đó và mối quan hệ, những tác động qua lại giữa tất cả các yếu tố cấu
thành nền kinh tế quốc dân.
Trong cơ cấu kinh tế có sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Theo Mác, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ
phù hợp với một quá trình phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật
8


chất. Khi quá trình tổ chức lao động phát triển mạnh mẽ sẽ làm thay đổi cơ
cấu kinh tế của xã hội. Vì thế có thể hiểu cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối
quan hệ chủ yếu về chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các yếu tố
kinh tế hoặc các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
một hệ thống tái sản xuất xã hội với những điều kiện kinh tế- xã hội và thời

gian nhất định. Điều đó có nghĩa là khi xem xét cơ cấu kinh tế phải xem xét
cấu trúc bên trong của nền kinh tế qua các mối quan hệ khác nhau. Các quan
hệ này không chỉ là quan hệ tỷ lệ mang tính số lượng mà còn mang tính chất
lượng thể hiện sự ràng buộc giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Hơn thế nữa, hệ thống kinh tế có có đặc điểm: là hệ thống mở, phức tạp,
động, đa cấu trúc, phân cấp, tự điều chỉnh và bị điều khiển bởi nhà nước, vì
thế cơ cấu kinh tế có thể vận động theo những mục tiêu nhất định của nền
kinh tế.
Dưới dạng tổng quát, cơ cấu kinh tế (của một nước) có thể được hiểu là
tập hợp các yếu tố kinh tế cấu thành nền kinh tế quốc dân, phản ánh mối
quan hệ hữu cơ, những tác động qua lại giữa các yếu tố kinh tế đó, được thể
hiện ra cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian, điều kiện kinh
tế- xã hội cụ thể và vận động hướng vào các mục tiêu nhất định của nền kinh
tế.
Đặc trưng của cơ cấu kinh tế
Trước hết, cơ cấu kinh tế có tính khách quan và mang tính lịch sử, xã
hội nhất định, được hình thành do trình độ phát triển sản xuất và phân công
lao động xã hội. Khi sản xuất và phân công lao động càng phát triển thì cơ
cấu kinh tế ngày càng chi tiết.
Cơ cấu kinh tế được hình thành, tồn tại và phát triển theo quy luật
khách quan nên có tính khách quan. Vì vậy, con người chỉ có thể vận hành nó
trên cơ sở tuân theo quy luật khách quan của nó. Con người cũng không thể
9


áp đặt cơ cấu kinh tế một cách giáo điều cho mọi nơi, mọi lúc vì nó có tính
lịch sử, xã hội nhất định. Nền kinh tế chỉ phát triển khi các bộ phận của quá
trình tái sản xuất xã hội giữ được mối liên hệ cân đối. Mỗi phương thức sản
xuất có những yêu cầu về số lượng và tỷ lệ cân đối khác nhau do các quy luật
kinh tế đặc thù mà trước hết là các quy luật kinh tế cơ bản của phương thức

sản xuất đó quy định. Ngay trong cùng một hình thái kinh tế- xã hội nhưng ở
những nước khác nhau thì cơ cấu kinh tế cũng khác nhau do có điều kiện
kinh tế- xã hội khác nhau. Cơ cấu kinh tế thường biến động gắn với sự phát
triển không ngừng của bản thân các yếu tố, bộ phận trong nền kinh tế và các
mối quan hệ của chúng.
Thứ hai, trong cơ cấu kinh tế, các yếu tố, các bộ phận kinh tế không
tách rời một cách độc lập mà liên hệ với nhau hết sức chặt chẽ theo những
quy luật đặc thù riêng.
Thứ ba, một cơ cấu kinh tế có thể bao gồm nhiều bộ phận kinh tế khác
nhau, có bộ phận kinh tế chủ yếu, có bộ phận kinh tế thứ yếu. Bộ phận kinh
tế chủ yếu có thể được gọi là bộ phận then chốt, mũi nhọn quyết định chiều
hướng, quy mô, nhịp độ phát triển của tổng thể nền kinh tế.
Thứ tư, cơ cấu kinh tế không cố định, nó không ngừng vận động, biến
đổi và phát triển theo xu hướng ngày càng hoàn thiện hơn, mở rộng hơn và
hiệu quả hơn trong quá trình phân công và hợp tác lao động giữa các ngành,
các vùng, các đơn vị kinh tế trong nước và trên phạm vi quốc tế.
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và những nhân tố ảnh hƣởng
tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Hệ thống kinh tế quốc dân có thể được xem xét trên nhiều khía cạnh và
tương ứng sẽ có những cơ cấu kinh tế khác nhau. Trong nghiên cứu kinh tế,
ba loại cơ cấu kinh tế thường được đề cập là: cơ cấu kinh tế ngành (xét theo

10


sự phân công lao động trong quá trình sản xuất xã hội), cơ cấu kinh tế thành
phần (xét trên góc độ sở hữu và hình thức tổ chức, quản lý sản xuất kinh
doanh) và cơ cấu kinh tế vùng (xét theo các đặc điểm sinh thái tự nhiên, phân
bố theo không gian). Ba loại cơ cấu kinh tế này có sự ràng buộc lẫn nhau, có
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, đan xen nhau, trong đó cơ cấu kinh tế

ngành là cơ cấu cơ bản nhất, phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của phân
công lao động xã hội, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ
khoa học công nghệ của hệ thống kinh tế, Do đó, cơ cấu kinh tế ngành có vai
trò quan trọng nhất trong việc phân tích, đánh giá, dự báo sự phát triển của
nền kinh tế. Cũng chính vì vậy, luận văn cũng chủ yếu đề cập tới cơ cấu kinh
tế ngành và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trong nghiên
cứu.
Một cách đơn giản, có thể hiểu cơ cấu ngành của nền kinh tế là kết cấu
hữu cơ theo ngành của nền kinh tế, nó phản ánh các mối quan hệ tương đối
ổn định giữa các ngành hình thành nên nền kinh tế quốc dân. Sự thay đổi cơ
cấu kinh tế ngành theo thời gian được gọi là chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành (chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành).
Theo Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), nền kinh tế được phân thành
3 nhóm ngành lớn là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong mỗi nhóm
ngành lại bao gồm nhiều ngành và phân ngành nhỏ hơn.
Cũng giống như các cơ cấu kinh tế khác, cơ cấu kinh tế ngành không
cố định. Sự thay đổi cơ cấu ngành hay sự chuyển dịch cơ cấu ngành là kết
quả của quá trình:
-

Xuất hiện thêm những ngành mới hay mất đi một số ngành đã có, tức là
đã có sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế.

11


-

Tăng trưởng về quy mô với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn tới thay
đổi cơ cấu hay nói cách khác, sự phát triển không đều của các ngành sau

mỗi giai đoạn đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế ngành.

-

Thay đổi trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành. Mối quan hệ
của một ngành với các ngành khác thể hiện qua quy mô đầu vào mà nó
cung cấp cho các ngành khác hay nhận được từ các ngành đó. Khi công
nghệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho mối quan hệ này thay đổi, kéo theo
những tác động hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các ngành
có liên quan và vì thế dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Tóm lại, sự tăng trưởng của các ngành dẫn đến sự thay đổi cơ cấu

ngành trong một nền kinh tế, làm cho cơ cấu kinh tế ngành không ngừng vận
động, biến đổi và phát triển. Quá trình vận động, biến đổi đó chính là quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch đó luôn luôn gắn bó chặt
chẽ với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội. Lực lượng sản xuất càng phát triển cao, càng hiện đại thì phân công lao
động xã hội cũng phát triển cao hơn, tỉ mỉ hơn, theo quy luật quan hệ sản xuất
luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Và,
như vậy, cơ cấu kinh tế dần được hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn và mở rộng
hơn. Cho nên chuyển dịch cơ cấu ngành xảy ra như là kết quả của quá trình
phát triển. Đây là quy luật tất yếu dù xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế hay
trên phạm vi phân ngành hẹp hơn.
Sự hình thành và tăng trưởng của các ngành kinh tế lại phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, cả chủ quan và khách quan. Có thể tổng hợp các nhân tố tác
động tới quá trình hình thành, tăng trưởng của các ngành kinh tế, và do đó
kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là:
-

Các nhân tố địa lý - tự nhiên (như tài nguyên khoáng sản, nguồn nước,

nguồn năng lượng, đất đai, khí hậu). Những yếu tố này tác động trực tiếp
1
2


và mang tính khách quan đến sự hình thành cơ cấu kinh tế ngành. Những
nước, những vùng khác nhau có ưu thế địa lý và khí hậu khác nhau sẽ có
cơ cấu ngành khác nhau, tương ứng phù hợp với các điều kiện đó. Đồng
thời, việc có tài nguyên khoáng sản hay không, nhiều hay ít cũng ảnh
hưởng tới việc tạo ra cơ cấu kinh tế ngành và tốc độ tăng trưởng của mỗi
ngành kinh tế.
-

Các nhân tố kinh tế - xã hội (khoa học kỹ thuật và công nghệ, phong tục,
tập quán, truyền thống dân tộc, thị trường, sức mua...). Những nhân tố này
không chỉ có ảnh hưởng tới quá trình hình thành cơ cấu kinh tế ngành mà
còn có tác động lớn đến năng suất, tốc độ tăng trưởng của mỗi ngành và
do đó, sẽ dẫn tới sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành.

-

Các nhân tố kinh tế đối ngoại và phân công lao động quốc tế. Trong môi
trường toàn cầu hoá hiện nay, một nền kinh tế mở sẽ chịu nhiều tác động
hơn của các yếu tố ngoài nước: sự biến động của giá cả thị trường thế
giới, sự thay đổi nhu cầu, yếu tố luật pháp, các rào cản thương mại,... và vì
vậy sự thay đổi của những yếu tố này cũng sẽ tác động tới việc tiêu thụ
sản phẩm do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất, ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của các ngành kinh tế dẫn tới thay đổi cơ cấu kinh tế
ngành.


-

Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước: Trong nền kinh tế thị trường
hiện đại ngày nay, Nhà nước thường trực tiếp tham gia vào điều tiết nền
kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao và phát triển bền vững.
Sự quản lý, điều tiết của Nhà nước được thực hiện thông qua việc ban
hành các chính sách kinh tế vĩ mô. Các chính sách kinh tế vĩ mô sẽ ảnh
hưởng tới các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất (huy động
vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, thị trường), do vậy sẽ tác động ngay đến

1
3


tốc độ, khả năng phát triển của các ngành, sẽ làm cho cơ cấu kinh tế
ngành thay đổi.
Tóm lại, sự thay đổi cơ cấu hay sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể
do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong quá trình phát triển,
nếu như không có những tác động chủ quan của con người, của Nhà nước thì
cơ cấu kinh tế vẫn chuyển dịch. Tuy nhiên, nhà nước có thể chủ động tác
động vào cơ cấu kinh tế, làm thay đổi nó phù hợp với những mục tiêu nhất
định. Sự tác động của nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định
hướng là để đạt được một mô hình cơ cấu có lợi thế so sánh nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
Tuy nhiên, trong quá trình can thiệp của nhà nước nhằm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo một mục tiêu chủ quan nhất định thì cần phải chú trọng
một số điểm sau:
Trước hết, do cơ cấu kinh tế là phạm trù khách quan nên không thể áp
đặt một cách chủ quan một cơ cấu kinh tế, cũng không thể nóng vội để xác
lập tức thời cơ cấu kinh tế mới, tiến bộ khi điều kiện khách quan chưa cho

phép. Sự duy trì quá lâu hoặc sự thay đổi quá nhanh chóng cơ cấu kinh tế mà
không dựa vào những biến đổi của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đều gây
nên những thiệt hại về kinh tế. Việc duy trì hay thay đổi cơ cấu kinh tế không
phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện của việc tăng trưởng và phát triển kinh
tế.
Bên cạnh đó, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, việc xác định bộ phận
kinh tế chủ yếu, then chốt, mũi nhọn có vai trò quan trọng. Việc lựa chọn này
xuất phát từ nguyên tắc lợi thế so sánh để đạt hiệu quả cao nhất trong điều
kiện các nguồn lực hạn chế. Việc phân tán nguồn lực, vốn đầu tư cho tất cả
các bộ phận kinh tế sẽ đi ngược lại nguyên tắc hiệu quả, còn nếu quá tập
trung vào một bộ phận sẽ lại gây ra sự mất cân đối của cơ cấu kinh tế, thậm
1
4


chí còn dẫn đến một nền kinh tế què quặt, gây các hậu quả kinh tế, xã hội
khác.
Chúng ta cũng cần phân biệt khái niệm chuyển dịch cơ cấu với điều
chỉnh cơ cấu và cải tổ cơ cấu. Trong ba khái niệm này, khái niệm “chuyển
dịch cơ cấu” mang ý nghĩa khái quát nhất, nó nói đến sự thay đổi cơ cấu kinh
tế qua thời gian do cả các nhân tố khách quan và chủ quan. Còn “điều chỉnh
cơ cấu” và “cải tổ cơ cấu” là sự thay đổi cơ cấu kinh tế một cách chủ động
của nhà nước, được thực hiện thông qua việc ban hành các chính sách kinh tế
vĩ mô và chính sách kinh tế ngành để tác động vào quá trình hình thành và
phát triển của các ngành khác nhau và do đó sẽ làm cho cơ cấu kinh tế ngành
thay đổi theo mục đích của nhà nước. “Điều chỉnh cơ cấu” và “cải tổ cơ cấu”
thường gắn với những thay đổi tương đối lớn của nhà nước (tương ứng trong
ngắn hạn và dài hạn) khi việc thay đổi cơ cấu kinh tế trở thành một yêu cầu
bức bách hoặc vì sự chậm trễ trong giai đoạn trước đó, hoặc vì kết quả đột
biến của từng ngành, hoặc một phân ngành nào đó, đòi hỏi phải xác lập một

cơ cấu mới, tạo ra sự đồng bộ trong toàn bộ nền kinh tế hay trong một ngành
nào đó.
1.2. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp
1.2.1. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong ba khu vực lớn cấu thành nền kinh tế quốc
dân. Ngành nông nghiệp có đặc thù riêng so với hai khu vực còn lại thể hiện


đối tượng lao động chủ yếu của ngành là những sinh vật sống (cây trồng,

vật nuôi). Ngành nông nghiệp cũng được chia thành nhiều ngành và phân
ngành chi tiết hình thành nên cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Cơ cấu kinh

1
5


tế ngành nông nghiệp phản ánh sự phát triển của phân công lao động và lực
lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.
Trên cơ sở khái niệm cơ cấu kinh tế, dưới dạng tổng quát, có thể hiểu
cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp (cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành) là
tập hợp các ngành kinh tế cấu thành ngành nông nghiệp, phản ánh mối quan
hệ hữu cơ, những tác động qua lại giữa các ngành kinh tế đó, được thể hiện
ra cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian, điều kiện kinh tếxã hội cụ thể và vận động hướng vào các mục tiêu nhất định của nền kinh tế.
Về việc phân ngành trong lĩnh vực nông nghiệp, theo nghĩa rộng,
ngành nông nghiệp bao gồm ba ngành lớn là: nông nghiệp (theo nghĩa hẹp),
lâm nghiệp và thuỷ sản. Ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp gồm trồng trọt,
chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp. Trong lịch sử phát triển ngành nông
nghiệp, hai ngành trồng trọt và chăn nuôi xuất hiện trước. Khi lực lượng sản

xuất phát triển, phân công lao động phát triển đã làm xuất hiện thêm ngành
lâm nghiệp và thuỷ sản nên cơ cấu ngành nông nghiệp truyền thống được mở
rộng. Ngành trồng trọt và chăn nuôi trở thành những ngành bộ phận cấu
thành ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp.
Đối với nước ta hiện nay, mặc dù đã có sự xuất hiện và đang dần phát
triển của các ngành lâm nghiệp và thuỷ sản, nhưng nông nghiệp theo nghĩa
hẹp (chủ yếu bao gồm trồng trọt và chăn nuôi) vẫn đang chiếm tỷ trọng rất
lớn trong tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp nói chung và vì vậy vẫn giữ một
vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế đất nước.
Cũng chính vì lý do đó, trong luận văn này, tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu cơ
cấu ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp.
Trong mỗi ngành bộ phận thuộc ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp lại
được chia thành những ngành nhỏ hơn như ngành trồng trọt được chia thành
các nhóm: cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, rau đậu và các cây
1
6


trồng khác; chăn nuôi được chia thành chăn nuôi gia súc, chăn nuôi gia cầm
và chăn nuôi khác. Trong mỗi tiểu ngành ấy lại chia thành các tiểu ngành nhỏ
hơn nữa hoặc thành các ngành sản phẩm cụ thể: trồng lúa, trồng sắn, trồng
mía, trồng cây công nghiệp dài ngày, cây công nghiệp ngắn ngày..., chăn nuôi
trâu, bò, cừu, lợn, gà, vịt, ngan, chim.... Mức độ phân ngành càng chi
tiết phản ánh trình độ chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội ngày
càng cao.
Có thể thấy rằng, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là một bộ phận của
cơ cấu kinh tế ngành chung. Nó vừa chịu sự chi phối, ràng buộc bởi cơ cấu
kinh tế chung vừa thể hiện các đặc thù của một ngành sản xuất lấy sinh vật
sống làm đối tượng tác động và sản phẩm của nó lại có tính phổ biến ai ai
cũng biết đến. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về các nông sản càng giảm,

nhưng đặc biệt là không bao giờ giảm tới 0 như một số hàng hoá khác.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là nền tảng của cơ cấu kinh tế quốc dân vì
trong quá trình phát triển của loài người, vấn đề đầu tiên cần đáp ứng phải là
vấn đề ăn, ở rồi mới đến các nhu cầu khác. Điều đó cũng có nghĩa là cơ cấu
kinh tế nông nghiệp vừa là chỗ dựa, vừa là động lực thúc đẩy và cũng vừa là
nơi trì trệ, lạc hậu nhất trong toàn bộ nền kinh tế. Kinh nghiệm phát triển kinh
tế đã chỉ rõ, không bao giờ các kỹ thuật và công nghệ sản xuất trong nông
nghiệp vượt hơn các ngành khác.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp có đầy đủ các đặc trưng chung là có tính
khách quan, tính lịch sử xã hội nhất định, tính ổn định tương đối và luôn tác
động lẫn nhau vận động biến đổi không ngừng và ngày càng hoàn thiện. Nó
cũng chịu tác động của các nhóm yếu tố như địa lý, tự nhiên, kinh tế xã hội
và các yếu tố quốc tế.

1
7


1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
Cũng giống như các cơ cấu kinh tế khác, quá trình phát triển kinh tế
nông nghiệp tất yếu cũng sẽ dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp cũng là kết
quả của sự tăng trưởng các ngành sản xuất trong nông nghiệp, là kết quả của
quá trình phát triển phân công lao động xã hội và lực lượng sản xuất trong
nông nghiệp. Trong quá trình phát triển, con số tỷ trọng phản ánh mối quan
hệ giữa các ngành sẽ thay đổi, đồng thời sự phát triển có thể làm xuất hiện
những ngành sản phẩm mới, hay mất đi những ngành sản phẩm không còn
phù hợp, xã hội không có nhu cầu hoặc sản xuất không hiệu quả làm cơ cấu
kinh tế ngành nông nghiệp thay đổi, chuyển dịch. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành nông nghiệp cũng có thể do các nguyên nhân khách quan và vừa có

thể do các nguyên nhân chủ quan từ phía nhà nước.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhà nước có thể
can thiệp, chủ động tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng có lợi. Thực tiễn
lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng, trong nền kinh tế thị trường
không chỉ cần sự tác động của các quy luật thị trường như một “bàn tay vô
hình” để điều tiết nền kinh tế. Để nền kinh tế hoạt động hiệu quả, còn cần đến
bàn tay thứ hai đó là sự điều tiết của nhà nước.
Trong điều kiện cụ thể của ngành nông nghiệp, sự tác động của Nhà
nước vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành càng trở nên cần thiết
nhằm nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Để tác động vào cơ cấu
kinh tế, trước hết nhà nước phải xác định được trong cơ cấu kinh tế mới,
ngành nào sẽ là ngành chủ yếu, mũi nhọn, những ngành nào có vai trò quan
trọng và những ngành nào có vai trò thứ yếu. Trong điều kiện vốn ít chúng ta
không có điều kiện đầu tư vào nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, vì vậy không cho
1
8


phép chúng ta thực hiện phát triển cân đối. Lý thuyết tăng trưởng không cân
đối đã chỉ ra rằng: Đối với các nước nghèo, các nước đang phát triển, do sự
hạn chế về vốn, lao động kỹ thuật, khoa học - công nghệ, thị trường... việc
phát triển với cơ cấu ngành không cân đối hay “cực tăng trưởng” là có lợi và
cần thiết vì:
-

Tạo ra sự kích thích đầu tư nhờ bất cân bằng cung cầu, như động lực
khuyến khích đầu tư nâng cao năng lực sản xuất.

-


Các “cực tăng trưởng” là các ngành, các lĩnh vực có tác dụng như “đầu
tàu” lôi kéo toàn bộ nền kinh tế phát triển. Với ý nghĩa như vậy, trong mỗi
thời điểm nhất định phải biết chọn lựa những lĩnh vực có lợi thế để tập
trung những nguồn lực còn khan hiếm của mỗi quốc gia nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở nước ta hiện nay, các nguồn lực

phát triển là hạn chế, vì vậy, việc ứng dụng lý thuyết Tăng trưởng không cân
đối là phù hợp. Theo lý thuyết này, Nhà nước cần tham gia vào quá trình điều
tiết nhằm xác định các ngành có vai trò là “cực tăng trưởng” đóng vai trò là
ngành mũi nhọn để tập trung đầu tư. Việc xác định “cực tăng trưởng” dựa
trên nhiều cơ sở, trong đó đặc biệt coi trọng sự phân tích lợi thế so sánh của
từng ngành. Việc phân tích lợi thế so sánh trong sản xuất nông nghiệp của
từng ngành lại phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể gắn với mỗi vùng địa lý
cụ thể. Lý thuyết lợi thế so sánh đã chỉ ra rằng: Một nước nếu tập trung vào
sản xuất những sản phẩm có lợi thế so sánh so với nước ngoài, sau đó thực
hiện thương mại quốc tế, đem trao đổi lấy các sản phẩm khác của nước ngoài
thì sẽ thu được lợi ích, hiệu quả cao hơn so với việc tự sản xuất tất cả các mặt
hàng trong nước. Trong sản xuất nông nghiệp, vì sản xuất nông nghiệp chịu
nhiều ảnh hưởng của tự nhiên, sản phẩm nông nghiệp mang tính đặc thù gắn
với điều kiện thời tiết, khí hậu, đất đai, do đó, mỗi nước ở vào các vùng địa lý

1
9


khác nhau, sẽ có các sản phẩm có lợi thế so sánh khác nhau. Vì vậy, việc xác
định một cách chính xác sản phẩm mang lợi thế so sánh của quốc gia để tập
trung sản xuất và tham gia vào thương mại quốc tế sẽ mang lại hiệu quả kinh

tế cao cho quốc gia.
Trong phạm vi một quốc gia, việc ứng dụng lý thuyết này cũng có thể
đem lại lợi ích cao nhất cho mỗi vùng kinh tế, và vì vậy, đem lại hiệu quả cao
nhất cho ngành sản xuất nông nghiệp cả nước nói chung. Trong phạm vi hẹp
quốc gia, đặc biệt trong điều kiện địa hình trải dài của Việt Nam, mỗi vùng
lãnh thổ lại có những điều kiện tự nhiên, đất đai, nguồn nước, thời tiết, khí
hậu, truyền thống... khá khác biệt, do vậy, mỗi vùng sẽ có những sản phẩm
lợi thế khác nhau. Việc xác định được chính xác sản phẩm có lợi thế so sánh
của từng vùng và tập trung sản xuất, sau đó thực hiện trao đổi sản phẩm giữa
các vùng sẽ đem lại hiệu quả, lợi ích cao hơn cho mỗi vùng (giống như lợi
ích quốc gia có được khi tham gia vào thương mại quốc tế), và vì vậy, hiệu
quả sản xuất nông nghiệp quốc gia cũng được tăng lên.
Tuy nhiên, khi chủ động tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp cần thấy rằng cơ cấu kinh tế nông nghiệp có một số đặc
trưng riêng.
Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp lấy đối tượng là sinh vật sống nên
chúng có quy luật sinh ra và lớn lên đồng thời lại chịu tác động lớn bởi sự
thay đổi của thời tiết, khí hậu nên kết quả đầu ra với số lượng và chất lượng
yếu tố đầu vào là không đều, hay thay đổi và nhiều khi không tỷ lệ thuận. Do
vậy, việc tính toán hồi quy, sử dụng các mô hình Toán để định lượng xác định
một cơ cấu kinh tế hiệu quả là việc khó khăn cũng như kết quả có được chỉ
mang ý nghĩa rất tương đối.
Thứ hai, việc hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp luôn gắn với quan
hệ cung cầu và giá cả trên thị trường. Theo quy luật cung cầu thì giá tăng,
2
0


lượng cung sẽ tăng và lượng cầu sẽ giảm. Khi cung cầu gặp nhau sẽ có điểm
cân bằng và tại đó sẽ xác định được lượng hàng hoá sản xuất ra. Và như vậy

sẽ tính toán được giá trị sản phẩm của từng ngành, từ đó dự đoán được cơ cấu
kinh tế ngành. Đó là về nguyên tắc, còn đối với nông nghiệp có chu kỳ sản
xuất dài, trong nhiều trường hợp nguồn lực khó di chuyển từ sản xuất mặt
hàng này sang sản xuất mặt hàng khác nên việc hình thành cơ cấu kinh tế
nông nghiệp bị chi phối bởi một quy luật gọi là “hiệu ứng trễ”. Có nghĩa là
giá cả thời kỳ trước có ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp thời
kỳ sau, điều đó tạo nên một chu kỳ theo một số vụ sản xuất nào đó. Trong cơ
chế thị trường, muốn có một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý và theo chủ
đích thì phải tác động bằng nhiều cách như: qua các chính sách, dự trữ,
hướng dẫn tiêu dùng, dự báo...
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải coi trọng sự kết
hợp đa dạng hoá và chuyên môn hoá. Sản xuất nông nghiệp là ngành phụ
thuộc nhiều nhất vào nhóm điều kiện địa lý - tự nhiên so với các lĩnh vực
khác, lại trải dài trên khắp cả nước, qua nhiều vùng địa lý khác nhau, với
nhiều kiểu đất khác nhau, với nhiều trình độ khác nhau, nên phải thực hiện đa
dạng hoá. Nếu đồng nhất hoá sản xuất nông nghiệp với các ngành kinh tế
khác để vận hành theo kiểu chuyên môn hoá cao độ sẽ dẫn tới thất bại.
Thứ tư, cơ cấu kinh tế nông nghiệp vừa lệ thuộc vào cơ cấu kinh tế
nông thôn vừa có tác dụng thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông thôn phát triển. Cơ
cấu kinh tế nông thôn gồm ba bộ phận chủ yếu là nông nghiệp (theo nghĩa
rộng), công nghiệp và dịch vụ. Kinh tế nông thôn bao trùm lên kinh tế nông
nghiệp, các chương trình phát triển nông thôn sẽ quyết định sự phát triển của
nông nghiệp, ngược lại, sự phát triển của nông nghiệp sẽ kéo theo các ngành
công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản phát triển,
các dịch vụ đầu vào, đầu ra, dịch vụ giao thông, môi giới phát triển.

2
1



Thông thường, cụm từ kinh tế nông nghiệp nông thôn trở thành quen
thuộc và dễ nhầm tưởng nông nghiệp và nông thôn là một. Thực ra, kinh tế
nông thôn và kinh tế nông nghiệp có sự gắn bó hữu cơ, có sự đan xen vào
nhau song không phải là một. Nông thôn là vùng sinh sống, làm việc của một
cộng đồng chủ yếu là nông dân, là vùng chủ yếu sản xuất nông nghiệp, nông
nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu kinh tế nông thôn (điều này đã
khiến chúng ta dễ đồng nhất nông thôn và nông nghiệp). Song, có thể hiểu
nông thôn là một khu vực, cơ cấu kinh tế nông thôn là cơ cấu vùng lãnh thổ
của nền kinh tế quốc dân còn cơ cấu kinh tế nông nghiệp là cơ cấu ngành của
kinh tế nông thôn.
Thứ năm, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nằm trong mối quan hệ
hữu cơ với các cơ cấu kinh tế khác, đặc biệt có mối quan hệ chặt chẽ với cơ
cấu kinh tế vùng. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chịu nhiều ảnh
hưởng của yếu tố địa lý - tự nhiên, mà mỗi vùng kinh tế lại có những yếu tố
địa lý - tự nhiên khác nhau nên trực tiếp sẽ ảnh hưởng tới việc hình thành cơ
cấu kinh tế ngành trong nông nghiệp. Sự phân công lao động sản xuất nông
nghiệp theo các vùng sẽ tạo nên cơ cấu vùng nông nghiệp. Cơ cấu vùng biểu
hiện quan hệ của từng vùng so với tổng thể kinh tế nông nghiệp cả nước.
Trong mỗi vùng lại có các cơ cấu ngành khác nhau, trong đó việc hình thành
cơ cấu ngành sản xuất nông nghiệp gắn liền với điều kiện cụ thể của từng
vùng. Vì vậy, trong quá trình tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành nông nghiệp, sẽ không có một cơ cấu kinh tế thống nhất cho mọi
vùng kinh tế, mỗi vùng cần phải có những chính sách riêng, cơ cấu kinh tế
ngành riêng phù hợp.
Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình, chịu sự tác động
của nhiều yếu tố, cả chủ quan và khách quan. Một cơ cấu kinh tế mới ra đời
được bắt nguồn, được chuyển dịch từ một cơ cấu trước đó, từ sự tích luỹ về
lượng, đủ mức dẫn tới sự biến đổi về chất, nó kế thừa những tinh hoa của cơ
22



cấu cũ và thay thế những mặt lỗi thời, lạc hậu của cơ cấu kinh tế cũ. Quá
trình này sẽ được thúc đẩy nhanh thông qua sự tác động thông minh của con
người bằng một hệ thống những chính sách và biện pháp đồng bộ tác động
liên tục hợp quy luật. Đương nhiên, mọi sự chần chừ, bảo thủ đều là những
trở lực làm hạn chế sự loại bỏ những cái cũ, lạc hậu, thúc đẩy nhanh chóng cơ
cấu mới ra đời; song thái độ nóng vội, chủ quan không nhận thức được đầy
đủ quy luật phát triển và chuyển dịch cơ cấu sẽ gây phương hại đến hiệu quả
của cơ cấu kinh tế mới.
1.2.3. Xu hƣớng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện ra ở quan hệ tỷ lệ giữa
các ngành qua các mốc thời gian và chính quan hệ tỷ lệ này sẽ phản ánh cơ
cấu kinh tế ngành có tiến bộ hay không, có đem lại hiệu quả cao hay không.
Từ các giai đoạn phát triển nông nghiệp của thế giới và Việt Nam có
thể tổng kết quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp diễn ra theo xu
hướng mang tính quy luật như sau:
-

Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng lên song tỷ trọng giá trị sản lượng
nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân ngày càng giảm.

-

Từ nông nghiệp mở ra lâm nghiệp và thuỷ sản - những ngành có giá trị
kinh tế cao song việc sản xuất khó khăn hơn, đòi hỏi một trình độ cơ sở
vật chất nhất định và vốn đầu tư cao. Trong quá trình phát triển, tỷ trọng
của lâm nghiệp và thuỷ sản sẽ tăng dần lên, còn tỷ trọng nông nghiệp sẽ
giảm đi mặc dù ngành này vẫn phát triển.

-


Trong nông nghiệp theo nghĩa hẹp, chăn nuôi ngày càng phát triển và dần
chiếm tỷ trọng cao hơn trồng trọt. Sự phát triển trong trồng trọt trước hết
sẽ thúc đẩy sản xuất thức ăn gia súc, chăn nuôi phát triển nhằm đáp ứng
nhu cầu ăn ngon, đủ dinh dưỡng cho con người. Ngành chăn nuôi vì vậy
2
3


×