Tải bản đầy đủ (.docx) (140 trang)

Đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp dệt may ở thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.17 KB, 140 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-----------------------

PHẠM THỊ LINH

ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY
Ở THÁI BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội - Năm 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-----------------------

PHẠM THỊ LINH

ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY
Ở THÁI BÌNH
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Giáo viên hướng dẫn: TS. Tạ Thị Đoàn

Hà Nội - Năm 2011




MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT…………………………………………….I
DANH MỤC CÁC BẢNG………………………………………………………...II
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ.......……………………………………….III
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP.............................................................................................. 8
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ......................8
1.1.1 Các quan niệm về lợi ích kinh tế, bản chất, đặc trƣng và vai trò của lợi
ích kinh tế.............................................................................................................8
1.1.2 Hệ thống lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay......................................... 19
1.2 LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP.................................................................................................................. 21
1.2.1 Các yếu tố cấu thành lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong các
doanh nghiệp...................................................................................................... 21
1.2.2 Cơ chế, chính sách hiện hành của Nhà nƣớc trong việc đảm bảo lợi ích
kinh tế của ngƣời lao động................................................................................ 27
1.3 QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NGƢỜI LAO ĐỘNG VÀ NGƢỜI SỬ
DỤNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP.......................................... 36
1.3.1 Mối quan hệ giữa việc làm, thu nhập và lợi nhuận................................36
1.3.2 Mối quan hệ giữa đào tạo, bồi dƣỡng tay nghề cho ngƣời lao động với
lợi nhuận............................................................................................................. 39
1.3.3 Mối quan hệ giữa điều kiện làm việc, thời gian làm việc, cƣờng độ lao
động với năng suất lao động và lợi nhuận........................................................ 40
1.4 KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VÀ TRONG NƢỚC VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP............................ 42
1.4.1 Kinh nghiệm thế giới................................................................................. 42
1.4.2 Kinh nghiệm trong nƣớc.......................................................................... 45

1.4.3 Những bài học kinh nghiệm rút ra đối với việc giải quyết vấn đề lợi ích
kinh tế trong các doanh nghiệp......................................................................... 48
Kết luận chƣơng 1............................................................................................. 50

i


Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VIỆC ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA
NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY TƢ NHÂN

Ở TỈNH THÁI BÌNH...................................................................................................................... 51
2.1 MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM ẢNH HƢỞNG
ĐẾN LỢI ÍCH NGƢỜI LAO ĐỘNG LÀM VIỆC TRONG CÁC DOANH NGHIỆP

DỆT MAY............................................................................................................... 51
2.2 KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
DỆT MAY Ở TỈNH THÁI BÌNH............................................................................ 53
2.2.1 Khái quát kết quả hoạt động của doanh nghiệp dệt may ở tỉnh Thái
Bình..................................................................................................................... 53
2.2.2 Đặc điểm lao động và sử dụng lao động trong các doanh nghiệp dệt
may ở Thái Bình................................................................................................. 56
2.3 THỰC TRẠNG VIỆC ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƢỜI LAO
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY TƢ NHÂN Ở TỈNH THÁI
BÌNH....................................................................................................................... 62
2.3.1 Thực trạng việc đảm bảo lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong khâu
tuyển dụng, kí kết hợp đồng và mức độ ổn định của việc làm........................62
2.3.2 Thực trạng thu nhập của ngƣời lao động............................................... 66
2.3.3 Thực trạng điều kiện làm việc, thời gian làm việc trong quá trình sử
dụng lao động..................................................................................................... 73
2.3.4 Thực trạng vấn đề nhà ở của ngƣời lao động......................................... 81

2.3.5 Thực trạng việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp và các chế độ khác cho ngƣời lao động...............................83
2.3.6 Thực trạng việc ký kết thỏa ƣớc lao động tập thể.................................. 84
2.4 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA
NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY TƢ NHÂN Ở
TỈNH THÁI BÌNH.................................................................................................. 86
2.4.1 Những thành tựu đạt đƣợc trong việc thực hiện lợi ích kinh tế của ngƣời
lao động trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân ở tỉnh Thái Bình . 86

ii


2.4.2 Những tồn tại trong việc giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế phát sinh
trong quá trình hoạt động trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân ở tỉnh
Thái Bình............................................................................................................ 88
2.4.3 Nguyên nhân.............................................................................................. 96
Kết luận chƣơng 2............................................................................................. 98
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐẢM BẢO LỢI

ÍCH KINH TẾ CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
DỆT MAY TƢ NHÂN Ở TỈNH THÁI BÌNH.................................................................... 99
3.1 ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY CỦA TỈNH THÁI BÌNH
99
3.2 NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN NHẰM ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH
TẾ CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY TƢ
NHÂN Ở TỈNH THÁI BÌNH................................................................................100
3.2.1 Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của ngƣời
lao động trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân.......................................100
3.2.2 Xây dựng củng cố nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội,
kiểm tra giám sát của nhà nƣớc trong việc giải quyết mối quan hệ hài hòa về

lợi ích kinh tế trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân..............................102
3.3 GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƢỜI
LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY TƢ NHÂN Ở TỈNH
THÁI BÌNH..........................................................................................................105
3.3.1 Nhóm giải pháp về hoàn thiện chính sách bảo đảm lợi ích kinh tế của
ngƣời lao động.................................................................................................105
3.3.2 Nhóm giải pháp về phía ngƣời lao động...............................................113
3.3.3 Nhóm giải pháp về ngƣời sử dụng lao động.........................................116
3.3.4 Nhóm giải pháp về nâng cao trách nhiệm vai trò của các cơ quan quản
lý nhà nƣớc, các tổ chức chính trị - xã hội.....................................................119
KẾT LUẬN..........................................................................................................123
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................125

iii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Ký hiệu viết tắt
1

ATVSLĐ

2

BHXH

3


BHYT

4

BHTN

5

BHLĐ

6

CNH

7

DN

8

DNNN

9

DNTN

10

DNDMTN


11

ĐH

12

HĐH

13

LĐTBXH

14



15

NN

16

Nxb

17

NUTC

18


TNLĐ

19

TNHH

20

TNHH-1TV

21

UBND

I


STT

Bảng
1

2.1

2

2.2

3


2.3

4

2.4

5

2.5

6

2.6

7

2.7

8

2.8

9

2.9

10

2.10


11

2.11

12

2.12

II


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
STT

Biểu

1

2.1

2

2.2

3

2.3

4


2.4

5

2.5

STT

Sơ đồ
1

III


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Thái Bình là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, có nhiều
thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển công nghiệp nói
riêng, đặc biệt là ngành công nghiệp dệt may. Trong những năm qua ngành dệt may
Thái Bình từng bƣớc trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh và đã đạt
đƣợc những thành tựu đáng kể.
Tuy nhiên so với yêu cầu đặt ra, doanh nghiệp dệt may ở Thái Bình còn
những hạn chế nhất định, đặc biệt là hạn chế trong vấn đề đảm bảo lợi ích kinh tế
của ngƣời lao động làm việc trong các doanh nghiệp dệt may. Điều này đã gây
những ảnh hƣởng tiêu cực đến cuộc sống của ngƣời lao động và sự phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh.
Thực tế cho thấy, vấn đề đảm bảo lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong
các doanh nghiệp dệt may ở tỉnh Thái Bình những năm qua chƣa đƣợc quan tâm
thích đáng. Điều này thể hiện qua thực trạng điều kiện lao động của ngƣời lao động

trong các doanh nghiệp dệt may, nhất là doanh nghiệp dệt may tƣ nhân: lao động
thủ công nặng nhọc, chất lƣợng nhà xƣởng kém, chật hẹp, ẩm thấp, đại bộ phận
ngƣời lao động không đƣợc trang bị các thiết bị bảo hộ lao động, không đƣợc theo
dõi, kiểm tra sức khỏe thƣờng xuyên, trên 80% ngƣời lao động làm việc trong các
doanh nghiệp này không đƣợc đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội… Chính những
tồn tại này tiểm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột lợi ích trong các doanh nghiệp dệt may
tƣ nhân ở tỉnh Thái Bình. Vì vậy đòi hỏi cần phải có sự lý giải khoa học để kết hợp
hài hòa lợi ích kinh tế giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp dệt may và đƣa ra các giải pháp nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của
ngƣời lao động trong các doanh nghiệp dệt may ở tỉnh Thái Bình.
Xuất phát từ thực tế đó và bằng những kiến thức đã đƣợc tiếp thu trong quá
trình học tại Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, tác giả đã lựa chọn đề tài:
“Đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp dệt may ở
Thái Bình” làm luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị của mình.

1


2.

Tình hình nghiên cứu

Vấn đề lợi ích và lợi ích kinh tế bắt đầu thu hút đƣợc sự quan tâm nghiên
cứu của các nhà khoa học Việt Nam từ đầu những năm 1980, nhất là từ khi Đảng ta
quyết định thực hiện đƣờng lối đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế
thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc. Các công trình nghiên cứu có liên quan trực
tiếp đến đề tài có thể kể đến:
“Bàn về các lợi ích kinh tế” do Đào Duy Tùng chủ biên (1982), Nhà xuất
bản (Nxb) Sự thật, Hà Nội.
Cuốn sách tập hợp một số công trình nghiên cứu bƣớc đầu đã đƣợc trình bày

ở một số Hội nghị khoa học của các tác giả nhƣ Đào Duy Tùng, Phạm Thành, Vũ

Hữu Ngoạn… Trong đó các tác giả nói về cơ cấu lợi ích kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội cùng với sự kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế đó. Theo đó, cơ
cấu lợi ích kinh tế dƣới chế độ xã hội chủ nghĩa bao gồm lợi ích kinh tế của xã hội,
lợi ích kinh tế của nhà nƣớc và lợi ích kinh tế của cá nhân ngƣời lao động. Ba lợi
ích này kết hợp hài hòa với nhau và trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội.
Muốn có một nền kinh tế phát triển, muốn xây dựng đƣợc một xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh thì vấn đề cốt lõi là giải quyết mối quan hệ hài hòa giữa ba lợi
ích kinh tế này.
“Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích” của tác giả Nguyễn Linh Khiếu
(2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cuốn sách trình bày một số quan niệm về nhu cầu lợi ích và quan hệ lợi ích.
Trong cuốn sách, tác giả cũng đi làm rõ mối quan hệ lợi ích trong pháp triển xã hội:
quan hệ giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi
ích chung, giữa lợi ích trƣớc mắt và lợi ích lâu dài. Đặc biệt tác giả đã nghiên cứu
về lợi ích kinh tế cùng những xu hƣớng vận động chủ yếu của xã hội hiện nay,
những ảnh hƣởng của nó đối với việc thực hiện lợi ích kinh tế. Từ đây tác giả đã
đƣa ra cơ sở để giải quyết vấn đề lợi ích của ngƣời lao động là phải đa dạng hóa
vấn đề sở hữu, phải phát triển hài hòa các mối quan hệ lợi ích.

2


“Lợi ích – Động lực phát triển xã hội” của tác giả Nguyễn Linh Khiếu
(1999), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Cuốn sách nghiên cứu về lợi ích dƣới góc độ lý luận chung – lý luận triết
học. Qua cuốn sách, tác giả trình bày nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa
một số lợi ích chủ yếu với tính cách là động lực của sự phát triển xã hội và vấn đề
sử dụng vai trò động lực của lợi ích kinh tế trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ

đó tác giả đƣa ra những giải pháp để giải quyết mối quan hệ lợi ích sao cho lợi ích
giữ đƣợc vai trò là động lực phát triển xã hội.
“Cải cách và lợi ích” của tác giả Gatovskij do Nguyễn Ái Đoàn dịch (1996),
tài liệu phục vụ nghiên cứu, Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.
Tài liệu trình bày một số vấn đề cải cách ở nƣớc Nga những năm 90. Trong
công cuộc cải cách ấy đặc biệt chú ý đến vấn đề lợi ích. Tác giả phân chia lợi ích
kinh tế thành hai loại đối lập nhau: phù hợp và không phù hợp với mục tiêu cải
cách; …
“Quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh”, Mai Đức
Chính (2005), luận văn Thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Luận văn đã trình bày một cách khái quát những lý luận chung về vấn đề lợi ích
kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế. Trên cơ sở lý luận đó luận văn đã nghiên cứu thực
trạng về giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh và những
nguyên nhân cơ bản của việc tồn tại những bất đồng, mâu thuẫn và tranh chấp. Từ thực
trạng đã phân tích, luận văn đã đƣa ra những phƣơng hƣớng cùng giải pháp về hoàn
thiện luật pháp, về nâng cao vai trò của các tổ chức công đoàn, về giải quyết tranh chấp
lao động ở doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài… để giải quyết hài hòa mối quan
hệ lợi ích giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh

“Vai trò động lực của lợi ích kinh tế đối với sự nghiệp xây dựng đất nước”,
Đỗ Nhật Tân (1991), luận án Tiến sĩ, Học viện Nguyễn Ái Quốc.

3


Luận văn nghiên cứu phạm trù lợi ích kinh tế dƣới khía cạnh là một động
lực cơ bản nhất của hoạt động con ngƣời, là động lực của mọi sự phát triển và tiến

bộ xã hội nói chung. Theo đó cần phải coi động lực lợi ích kinh tế là nhân tố cơ bản
nhất của phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Luận văn cũng đƣa ra vấn đề: muốn sử
dụng đƣợc động lực lợi ích kinh tế trong công cuộc xây dựng đất nƣớc thì cần giải
quyết tổng hợp các mối quan hệ đa dạng phức tạp của lợi ích kinh tế. Điều đó đòi
hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân. Trong đó tập trung vào các giải pháp nhƣ
giải quyết các quan hệ sở hữu tƣ liệu sản xuất, giải quyết vấn đề tiền lƣơng, chặn
đứng và đẩy lùi nạn tham nhũng…
Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu, bài báo có liên quan đến vấn đề
lợi ích kinh tế của ngƣời lao động nhƣ “Lợi ích kinh tế - động lực thu hút mọi
nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Đào
Duy Huân trên Tạp chí Phát triển kinh tế số 200 xuất bản năm 2007; “Vấn đề bảo
vệ người lao động trong Bộ Luật lao động” của tác giả Nguyễn Văn Phần đăng trên
Tạp chí Lao động và xã hội số 5 xuất bản năm 1994; “Lợi ích kinh tế - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” của PTS Hồ Tấn Phong đăng trên Tạp chí Phát triển kinh tế
số 27 xuất bản năm 1993,…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên đã tiếp cận vấn đề lợi ích, lợi
ích kinh tế, vai trò của lợi ích trong sự phát triển của xã hội, của con ngƣời và mối
quan hệ giữa các lợi ích dƣới nhiều góc độ khác nhau, nhƣng mới chỉ đề cập đến
vấn đề lợi ích một cách chung chung đặt trong tổng thể các mối quan hệ khác liên
quan đến ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động. Nhìn chung chƣa có công
trình nào nghiên cứu vấn đề lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong các doanh
nghiệp dệt may ở Việt Nam dƣới góc độ kinh tế chính trị, còn nghiên cứu vấn đề
này trong phạm vi tỉnh Thái Bình thì cho đến nay chƣa có công trình nào đã công
bố. Do đó, nghiên cứu đề tài này là cần thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn.

4


3.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích:
Phân tích bản chất lợi ích kinh tế nói chung và lợi ích kinh tế của ngƣời lao
động nói riêng trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta
hiện nay. Đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng việc đảm bảo lợi ích kinh tế của
ngƣời lao động trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân ở tỉnh Thái Bình trong
những năm qua. Từ đó đề xuất phƣơng hƣớng và các giải pháp chủ yếu nhằm đảm
bảo ngày càng tốt hơn lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong các doanh nghiệp
dệt may tƣ nhân ở tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
Để đạt đƣợc mục tiêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Phân tích đặc trƣng, vai trò của lợi ích kinh tế; các yếu tố cấu thành lợi ích

kinh tế của ngƣời lao động trong các doanh nghiệp và mối quan hệ lợi ích kinh tế
giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động trong các doanh nghiệp.
-Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện lợi ích kinh tế của ngƣời lao
động trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân ở tỉnh Thái Bình những năm qua.
- Đề xuất phƣơng hƣớng và hệ thống các giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo

ngày càng tốt hơn lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong các doanh nghiệp dệt
may tƣ nhân ở tỉnh Thái Bình.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình thực hiện lợi ích kinh tế của ngƣời
lao động trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân trên địa bàn tỉnh Thái Bình từ
năm 2005 đến 2010.
5.


Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nhƣ: trừu tƣợng hoá khoa học, phân
tích tổng hợp, thống kê so sánh, lô gíc và lịch sử. Gắn lý luận với thực tiễn để làm
sáng tỏ vấn đề.
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học.

5


Trong luận văn, ngƣời viết sẽ sử dụng phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa
học để gạt bỏ khỏi quá trình nghiên cứu những cái đơn giản, ngẫu nhiên, tạm thời
hoặc tạm gác lại một số nhân tố nào đó nhằm tách ra những cái điển hình, ổn định,
vững chắc, từ đó tìm ra bản chất các hiện tƣợng và quá trình, hình thành các phạm
trù – khái niệm về lợi ích kinh tế, và phát hiện ra quy luật phản ánh những bản chất
đó. Qua đó xem xét vào vấn đề đảm bảo lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong
các doanh nghiệp dệt may ở tỉnh Thái Bình
-Phương pháp phân tích tổng hợp
Phƣơng pháp phân tích tổng hợp đƣợc tiến hành thông qua các công đoạn:
thu thập dữ liệu, kiểm tra dữ liệu, phân tích dữ liệu, và kiểm tra kết quả phân tích
(Các số liệu đƣợc tổng hợp từ các báo cáo của Sở Lao động thƣơng binh xã hội tỉnh
Thái Bình, Sở Kế hoạch và đầu tƣ tỉnh Thái Bình, Liên đoàn lao động tỉnh ). Trên
cơ sở kết quả phân tích, đề tài tổng hợp và đánh giá những mặt tích cực và hạn chế
của vấn đề đảm bảo lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong các doanh nghiệp dệt
may ở tỉnh Thái Bình, tìm ra những nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu cũng
nhƣ hạn chế của vấn đề, trên cơ sở đó đề xuất những phƣơng hƣớng và giải pháp
nhằm đẩy mạnh việc thực hiện lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong các doanh
nghiệp dệt may ở tỉnh Thái Bình.
- Phương pháp thống kê so sánh.


Các tƣ liệu thu thập đƣợc từ nhiều nguồn khác nhau sẽ đƣợc thống kê đầy
đủ dựa trên sự phân tích, từ đó quy vào từng tiểu loại theo từng tiêu chí cụ thể. Đề
tài sử dụng các số liệu liên quan đến các lợi ích kinh tế của ngƣời lao động, và việc
thực hiện các lợi ích đó trong các doanh nghiệp dệt may ở tỉnh Thái Bình chủ yếu từ
năm 2005 đến 2010 qua đó so sánh, xử lý các số liệu để rút ra các kết luận.
- Phương pháp lôgic – lịch sử.

Phƣơng pháp lôgic – lịch sử đƣợc sử dụng để đề tài vừa mang tính liên tục
vừa mang tính kế thừa các công trình nghiên cứu của các tác giả về vấn đề lợi ích
kinh tế theo một chiều dọc của thời gian, vừa có tính quan hệ mật thiết giữa cái
chung và cái riêng giữa các các công trình nghiên cứu và đề tài của tôi theo chiều

6


ngang của không gian. Lịch sử không chỉ là các sự kiện mà còn là tính quan hệ tất
yếu logic giữa các sự kiện mới quan trọng và có ý nghĩa hơn, bản chất hơn, quy luật
hơn, và sâu sắc hơn.
6.

Đóng góp mới của luận văn

Một là; thông qua phân tích, đánh giá thực trạng việc đảm bảo lợi ích kinh tế
của ngƣời lao động trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân ở tỉnh Thái Bình, luận
văn chỉ ra những hạn chế còn tồn tại cũng nhƣ nguyên nhân của những hạn chế
trong vấn đề đảm bảo lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong các doanh nghiệp dệt
may tƣ nhân trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Hai là; đề xuất phƣơng hƣớng và hệ thống giải pháp nhằm đảm bảo lợi ích
kinh tế của ngƣời lao động làm việc trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân nói

riêng và trong ngành dệt may nói chung trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Ba là; kết quả nghiên cứu của luận văn giúp cho doanh nghiệp dệt may ở Thái
Bình có quan điểm và nhận thức sâu sắc về vai trò của lợi ích kinh tế đối với ngƣời lao
động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó họ có thái độ cƣ xử đúng đắn,
phù hợp với đạo đức, với quy ƣớc của pháp luật trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình, tạo động lực phát triển sản xuất kinh doanh.
7.

Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc
kết cấu với 3 chƣơng, 11 tiết.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về lợi ích kinh tế trong các doanh
nghiệp.
Chƣơng 2: Thực trạng việc đảm bảo lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong
các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân ở tỉnh Thái Bình.
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế
trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân ở tỉnh Thái Bình.

7


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ

1.1.1 Các quan niệm về lợi ích kinh tế, bản chất, đặc trƣng và vai trò

của lợi ích kinh tế
1.1.1.1 Các quan niệm về lợi ích kinh tế
Lợi ích theo tiếng la tinh là “interest” nghĩa là có ý nghĩa quan trọng, là
nguyên nhân hiện thực của các hoạt động xã hội, các sự kiện, thành tựu ẩn dấu đằng
sau những sự thúc đẩy trực tiếp động cơ, ý đồ, lý tƣởng…của các cá nhân, tập đoàn
xã hội, giai cấp tham gia vào những hoạt động đó.
Các nhà kinh tế học cổ điển Anh cho rằng, lợi ích kinh tế tƣ nhân là động lực
đầu tiên của sự phát triển xã hội, trong hoạt động kinh tế, sự theo đuổi lợi ích tƣ
nhân là nguồn gốc, nguyên nhân làm tăng của cải trong xã hội.
Theo Adam Smith (1723-1790), trong quá trình hoạt động kinh tế, mỗi ngƣời
đều theo đuổi lợi ích tƣ nhân, đều nỗ lực cải thiện hoàn cảnh của mình, nhƣ thế tất
yếu sẽ dẫn đến làm tăng của cải xã hội. Nhƣng xuất phát từ tính vị kỷ của con
ngƣời, lợi ích của cá nhân này bị hạn chế bởi lợi ích của cá nhân khác và trong quá
trình thực hiện lợi ích kinh tế, tất cả các chủ thể đều có mối quan hệ với nhau. “Anh
cho tôi thứ mà tôi thích, anh sẽ có thứ mà anh yêu cầu” [23, tr.65].
Trong quan điểm kinh tế của David Ricardo (1772-1823), lợi ích kinh tế của các
giai cấp khác nhau đƣợc xây dựng trên cơ sở lý luận về giá trị. Ông coi tiền lƣơng và
lợi nhuận chỉ là hai bộ phận của giá trị và cùng có một nguồn gốc là lao động. Cho nên
việc tăng hay giảm tiền lƣơng sẽ không ảnh hƣởng đến giá cả của hàng hoá, mà chỉ ảnh
hƣởng đến việc phân phối giá trị đó đƣợc tạo ra giữa công nhân và nhà tƣ bản, và do
đó chỉ ảnh hƣởng đến lợi ích của họ về mặt số lƣợng. Nói cách khác, trong số giá trị
mới đƣợc tạo ra, phần của công nhân nhỏ hơn, còn phần của những ngƣời đi thuê công
nhân thì lớn hơn. Ricardo coi điều đó là do kết quả

8


của các quy luật tự nhiên trong sự phát triển xã hội, là phù hợp với các nguyên tắc
của kinh tế chính trị [22, tr.10].
Đến giữa thế kỷ XIX, Các Mác (1818-1883) và Ph.Angghen (1820-1895) là

những ngƣời đƣa ra phƣơng pháp mới về nguyên tắc trong việc nghiên cứu lợi ích
kinh tế. Chủ nghĩa Mác cho rằng, lợi ích không chỉ là biểu hiện cụ thể của quan hệ
sản xuất, mà còn là “nguyên tắc cơ bản chi phối hoạt động của con ngƣời” [18,
tr.346]. V.I.Lênin tiếp tục nghiên cứu cụ thể vấn đề lợi ích kinh tế và cho rằng cần
phải thấy những lợi ích là khách quan khi nói: “Lợi ích thúc đẩy cuộc sống các dân
tộc” [14, tr. 82].
Những năm gần đây, trên cơ sở những ý kiến tranh luận về vấn đề này từ
những năm 60 của thế kỷ XX, một số tác giả đã đi sâu vạch ra những mặt cơ bản
khác nhau của quan hệ lợi ích. Z.U.Sôraép (1986) cho rằng: Lợi ích là sự phản ánh
những hệ thống quan hệ phức tạp của một số mặt hoạt động của con ngƣời thông
qua một trong những mặt hoạt động khác nhau của họ trong quá trình thực tiễn tác
động lẫn nhau của con ngƣời. Hay lợi ích là trạng thái quy định hoạt động, là sản
phẩm tất yếu của các quan hệ xã hội hiện có, phản ánh nhận thức của chủ thể, và
đƣợc xác định bởi môi trƣờng xã hội, là khả năng và mục đích của sự hoạt động
của chủ thể theo sự thỏa mãn nhu cầu của cá nhân và xã hội. Ông còn khẳng định,
lợi ích xuất hiện trong quá trình hoạt động của cá nhân, nhóm, giai cấp với tƣ cách
là mặt cơ bản của hoạt động thực tiễn. A.X.Điđcốpxki (1986) nói một cách cụ thể
rằng: Lợi ích phản ánh mâu thuẫn giữa nhu cầu và việc thỏa mãn những nhu cầu, nó
là sự định hƣớng hoạt động sản xuất của con ngƣời.
Nhƣ vậy đa số các tác giả khẳng định lợi ích là cái phản ánh những quan hệ
kinh tế, do các quan hệ kinh tế sinh ra và nó gắn liền với việc thỏa mãn những nhu
cầu của con ngƣời.
Tùy theo cách tiếp cận, có thể phân biệt lợi ích theo lĩnh vực nhƣ lợi ích
kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích tinh thần; theo phạm vi cộng đồng nhƣ lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; theo tính chất chủ thể nhƣ lợi ích dân tộc, lợi ích
nhà nƣớc, lợi ích của đảng... Ở đây, luận văn đề cập sâu tới vấn đề lợi ích kinh tế.

9



Ở Việt Nam, tác giả Lê Xuân Tùng cho rằng:
Lợi ích kinh tế là cái biểu hiện những động cơ, mục đích, những nhân tố kích
thích khách quan thúc đẩy hoạt động lao động của con ngƣời. Lợi ích kinh tế gắn
chặt với nhu cầu kinh tế, vì có nhu cầu mới có lợi ích. Nhƣng sẽ là không đúng nếu
đồng nhất nhu cầu với lợi ích kinh tế… Lợi ích kinh tế không phải là nhu cầu nói
chung (nhƣ nhu cầu về ăn, mặc, ở…) mà là việc thỏa mãn nhu cầu một cách tốt
nhất, bao gồm cả nội dung của nhu cầu và phƣơng thức thỏa mãn nhu cầu. Vì suy
cho cùng, cái thúc đẩy ngƣời ta hành động chính là nhằm thỏa mãn trên thực tế nhu
cầu một cách tối ƣu…Có ngƣời hiểu lợi ích kinh tế nhƣ là sự thống nhất giữa nội
dung khách quan và hình thức chủ quan. Theo chúng tôi, lợi ích kinh tế là một phạm
trù kinh tế khách quan, nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở một quan hệ sản xuất nhất
định, không tùy thuộc vào ý muốn con ngƣời…Lợi ích kinh tế tồn tại không tùy
thuộc ở chỗ ngƣời ta có nhận thức đƣợc nó hay không, mà do địa vị của họ trong hệ
thống sản xuất xã hội quy định. Vì vậy, về bản chất, lợi ích kinh tế tồn tại khách
quan [20, tr.94-96].
Trong bài viết đăng trên tạp chí Phát triển kinh tế số 200, PGS.TS Đào Duy
Huân viết: Lợi ích kinh tế là cái có ích, cái có lợi về mặt kinh tế. Đây là một phạm
trù kinh tế biểu hiện tinh thần khách quan trong hoạt động kinh tế của con ngƣời
tức biểu hiện quan hệ sản xuất. Vì vậy các quan hệ kinh tế của mỗi xã hội đƣợc
biểu hiện trƣớc hết là lợi ích kinh tế [9].
Tác giả Vũ Hữu Ngoạn viết:
Nguồn gốc sâu xa của các động cơ kinh tế là ở chỗ: cuộc sống của con ngƣời
bao giờ cũng có nhu cầu và đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu. Dĩ nhiên không phải nhu cầu
nào cũng làm cho con ngƣời theo đuổi, cũng trở thành động cơ. Có nhu cầu chƣa
thể có sự chín muồi để thực hiện, có những nhu cầu mang tính hiện thực. Những
nhu cầu mang tính hiện thực phụ thuộc vào trình độ của phƣơng thức sản xuất. Khi
nhu cầu có điều kiện thực hiện thì trở thành lợi ích thiết thân của con ngƣời, thôi
thúc con ngƣời vƣơn lên hành động giành cho kỳ đƣợc.

10



Điều cần nhấn mạnh là không phải bản thân nhu cầu là lợi ích kinh tế, mà
nhu cầu khi đƣợc xác định về mặt xã hội mới trở thành lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh
tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện trƣớc hết các quan hệ
sản xuất, nó không tùy thuộc vào ý chí, lòng ham muốn của con ngƣời [21, tr.6162].
Ở tất cả các khái niệm đƣợc tiếp cận theo các quan điểm khác nhau theo mức

độ trừu tƣợng nông sâu khác nhau có thể thấy rõ hầu hết các tác giả khi đề cập đến
khái niệm lợi ích kinh tế đều đề cập đến một phạm trù, đó là nhu cầu kinh tế. Vậy
giữa lợi ích kinh tế và nhu cầu kinh tế có mối quan hệ nhƣ thế nào? Chúng có đồng
nhất với nhau hay không? Để hiểu rõ thêm về lợi ích kinh tế ta đi tìm hiểu về mối
quan hệ giữa lợi ích kinh tế và nhu cầu kinh tế.
Một số tác giả cho rằng, lợi ích và nhu cầu là những phạm trù phản ánh sự
khác biệt hoàn toàn về bản chất và sự tồn tại. Theo họ, cơ sở tác động của lợi ích là
các quá trình lao động sản xuất xã hội, còn nhu cầu thì nảy sinh trong mối quan hệ
giữa con ngƣời với tự nhiên, giữa con ngƣời với con ngƣời mà trong đó hƣớng vào
mục đích nhằm thỏa mãn “cơ thể sống chung”.
Những tác giả khác lại đồng nhất nhu cầu và lợi ích. Họ cho rằng, lợi ích là
nhu cầu đƣợc quyết định bởi xã hội, là nhu cầu khách quan đƣợc chế định bởi vị trí
xã hội giữa các cá nhân, các giai cấp, các dân tộc, các nhóm xã hội, là sự phản ánh
chủ quan các nhu cầu tồn tại khách quan.
Từ những quan điểm nêu trên có thể thấy không thể tách rời lợi ích kinh tế ra
khỏi nhu cầu kinh tế để xét nó nhƣ một hiện tƣợng riêng rẽ. Nhƣng cũng không thể
đồng nhất nhu cầu kinh tế với lợi ích kinh tế. Giữa lợi ích kinh tế và nhu cầu kinh tế
có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Nếu không có nhu cầu kinh tế thì cũng
không có lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế chỉ có ý nghĩa khi nó đƣợc đặt trong mối
quan hệ với nhu cầu kinh tế. Nhu cầu kinh tế thể hiện quan hệ chung của con ngƣời
với hoàn cảnh kinh tế xung quanh còn lợi ích kinh tế chẳng những thể hiện mối
quan hệ của con ngƣời với hoàn cảnh kinh tế xung quanh mà còn thể hiện mối quan

hệ giữa ngƣời với ngƣời có cùng nhu cầu kinh tế và đối tƣợng thỏa mãn nhu cầu

11


kinh tế với nhau trong việc thực hiện nhu cầu kinh tế ở các giai đoạn lịch sử nhất
định.
Giữa nhu cầu kinh tế và lợi ích kinh tế có cái chung. Cả hai đều chịu sự chi
phối bởi sự phát triển của trình độ sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội, do đó chúng
đều mang tính lịch sử. Cơ sở xuất hiện chúng, động cơ hành động của chúng đều là
quá trình lao động, quá trình hoạt động của con ngƣời.
Nhu cầu kinh tế và lợi ích kinh tế đều chịu sự chi phối của các quan hệ kinh
tế nhƣng ở những mức độ khác nhau, chẳng hạn do địa vị khác nhau của những
ngƣời trong hệ thống sản xuất, cho nên tuy họ có nhu cầu kinh tế nhƣ nhau nhƣng
lợi ích kinh tế của họ lại khác nhau. Nhu cầu kinh tế thể hiện nội dung vật chất của
lợi ích kinh tế và lợi ích kinh tế thể hiện quan hệ phân phối nhu cầu kinh tế của các
quan hệ sản xuất. Tóm lại, nhu cầu kinh tế phản ánh những mối quan hệ tất yếu của
xã hội, còn lợi ích kinh tế thì phản ánh những mối quan hệ trong phạm vi những
mối quan hệ thực hiện nhu cầu kinh tế.
Từ những phân tích trên có thể rút ra quan niệm chung nhất về lợi ích kinh tế
nhƣ sau:
“Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan biểu hiện của quan hệ
sản xuất, được phản ánh trong ý thức trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt
động kinh tế nhằm thỏa mãn tối ưu nhu cầu kinh tế của chủ thể tham gia hoạt động
đó”.
Nhƣ vậy lợi ích kinh tế do quan hệ sản xuất quyết định. Ở đây ngƣời nào
nắm các điều kiện vật chất của sản xuất ngƣời đó có thể chi phối lợi ích của các chủ
thể khác. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là động lực
thúc đẩy hoạt động lao động sáng tạo của con ngƣời cho nên những thực thể kinh tế
nắm giữ các điều kiện vật chất của sản xuất muốn thụ hƣởng đƣợc lợi ích tối đa

(tức là tối đa hóa lợi nhuận) buộc phải đảm bảo lợi ích cho những ngƣời trực tiếp
lao động sáng tạo ra lợi ích cho mình, giống nhƣ sự nuôi dƣỡng những động lực
sáng tạo liên tục ra các lợi ích.

12


1.1.1.2 Bản chất và đặc trưng của lợi ích kinh tế
Xuất phát từ câu trả lời lợi ích kinh tế là gì, có thể chỉ ra lợi ích kinh tế có
những bản chất và đặc trƣng sau:
Thứ nhất, lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện các quan hệ kinh tế và quy
luật kinh tế.
Nói đến lợi ích kinh tế là nói đến quan hệ phân phối kết quả sản xuất hình
thành thu nhập của những ngƣời tham gia vào quá trình sản xuất xã hội. Theo
C.Mác thì quan hệ phân phối này lại phụ thuộc vào quan hệ sở hữu về tƣ liệu sản
xuất. Mỗi quan hệ sản xuất có một phƣơng thức phân phối, do đó có một hình thức
thực hiện lợi ích kinh tế. Tính chất của lợi ích kinh tế là do quan hệ sản xuất quyết
định, mà quan hệ sản xuất này lại do trình độ lực lƣợng sản xuất quyết định. Rõ
ràng nội dung, hình thức, cũng nhƣ phƣơng tiện thực hiện lợi ích đƣợc quyết định
bởi điều kiện xã hội, không phụ thuộc vào ý muốn của chủ thể. Vì vậy, lợi ích kinh
tế là phạm trù kinh tế khách quan, nó chỉ xuất hiện giữa những ngƣời sản xuất có
mối quan hệ kinh tế với nhau.
Trong bài viết của Hồ Tấn Phong đăng trên Tạp chí phát triển kinh tế số 27,
ông viết: Theo Ăngghen: “Các quan hệ kinh tế của một xã hội đƣợc biểu hiện trƣớc
hết nhƣ những lợi ích” [32].
Quan hệ kinh tế quyết định tới lợi ích kinh tế thông qua vị trí, vai trò của các
chủ thể mang tính lợi ích trong hệ thống sản xuất xã hội. Do đó, lợi ích kinh tế là
sản phẩm của những quan hệ kinh tế, là hình thức vốn có, bên trong, hình thức tồn
tại và biểu hiện của các quan hệ kinh tế.
Mặt khác, quan hệ kinh tế là khác quan, cũng nhƣ mọi sự vật, hiện tƣợng nó

luôn luôn tồn tại trong vận động. Hình thức vận động của nó chính là sự vận động
của các quy luật kinh tế do nó trực tiếp sinh ra. Thông qua sự vận động của các quy
luật kinh tế mà quan hệ sản xuất ảnh hƣởng đến quá trình sản xuất. Nhƣng, các quy
luật kinh tế chỉ có thể tác động thông qua con ngƣời tức là thông qua lợi ích kinh tế
của con ngƣời. Nhƣ vậy, lợi ích kinh tế đóng vai trò là cơ chế tác động của các quy
luật kinh tế.

13


Vì vậy, có thể khẳng định lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa
nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
Về mặt khách quan: lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản
xuất, là cơ chế tác động chung của các quy luật kinh tế do quan hệ sản xuất trực tiếp
dinh ra.
Về mặt chủ quan: lợi ích kinh tế là động cơ của hành động kinh tế của con
ngƣời. Không có lợi ích khách quan thuần túy tồn tại ngoài con ngƣời hoăc là con
ngƣời không có mặt ý thức gì về nó.
Thứ hai, lợi ích kinh tế luôn gắn với nhu cầu kinh tế.
Xét một cách khái quát thì nhu cầu và sự hiện thực hóa nhu cầu là vấn đề sống
còn của con ngƣời trong mọi chế độ xã hội. Mọi động lực của đời sống xã hội, xét đến
cùng đều bắt nguồn từ nhu cầu và sự hiện thực hóa nhu cầu, tức là lợi ích mà trƣớc hết
là lợi ích kinh tế. Ta biết rằng, con ngƣời là một sinh thể - xã hội, là một bộ phận của
thế giới tự nhiên. Muốn tồn tại và phát triển đƣợc con ngƣời nhất thiết phải trao đổi vật
chất liên tục với môi trƣờng xung quanh. Sự trao đổi đó nhằm để đáp lại cái gì đó bị
thiếu hụt hay dƣ thừa trong bản thân con ngƣời. Khi xuất hiện nhu cầu trao đổi vật
chất bao giờ cũng thôi thúc con ngƣời hoạt động nhằm thỏa mãn. Sự hoạt động nhằm
thỏa mãn nhu cầu chính là quá trình khôi phục lại trạng thái mất cân bằng giữa chủ thể
và khách thể. TS.Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn “Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi
ích” cũng đã từng viết: “Mục đích xét đến cùng, chỉ là hình ảnh của đối tƣợng thỏa

mãn nhu cầu của con ngƣời. Nghĩa là, hoạt động của con ngƣời cuối cùng chỉ là nhằm
thỏa mãn những nhu cầu của họ…nhu cầu là nguồn gốc và là động lực thúc đẩy mọi
hoạt động của con ngƣời…” [12, tr.36].

Khi nhu cầu xuất hiện, đồng thời đối tƣợng để thỏa mãn nhu cầu cũng nhƣ
phƣơng tiện, phƣơng thức và những khả năng hiện thực hóa nhu cầu cũng đƣợc
phản ánh vào trong đầu óc của con ngƣời, và con ngƣời bắt đầu hƣớng sự nhận
thức của mình vào việc tìm kiếm phƣơng thức để thỏa mãn nhu cầu đó. Đối với chủ
thể hành động thì việc thỏa mãn nhu cầu bao giờ cũng đƣợc thực hiện thông qua
quan hệ lợi ích trong chế độ xã hội cụ thể.

14


Nhu cầu càng lớn thì sự hấp dẫn của lợi ích kinh tế đối với chủ thể càng cao.
Do đó động cơ tƣ tƣởng nảy sinh trên cơ sở của lợi ích kinh tế sẽ càng cuốn hút,
thúc đẩy ngƣời ta lao vào hành động. Theo tác giả Lê Xuân Tùng trong cuốn “Bàn
về các lợi ích kinh tế” thì lợi ích kinh tế nằm trong chuỗi “1-Các quy luật kinh tế,
nhƣ là cái bản chất nhất của quan hệ sản xuất, chi phối các mối liên hệ cơ bản giữa
những ngƣời sản xuất với nhau; 2-Nhu cầu, với tƣ cách là nhu cầu kinh tế, bị quyết
định bởi phƣơng thức sản xuất, mà trực tiếp là quan hệ sản xuất…3-Lợi ích kinh tế,
bắt nguồn trực tiếp từ nhu cầu kinh tế, vì không có nhu cầu thì không có lợi ích; 4Cuối cùng là hoạt động của con người, đƣợc kích thích bởi lợi ích nhằm thỏa mãn
các nhu cầu kinh tế.” [19, tr.95]. Nhƣ vậy, lợi ích kinh tế chính là một khâu trung
gian, qua đó mà tính tất yếu khách quan chuyển thành hành động có ý thức của con
ngƣời. Vì lẽ đó mà ngƣời ta thấy lợi ích kinh tế là khâu nhạy cảm nhất trong toàn
bộ chuỗi quy định nhân quả gây nên hoạt động của con ngƣời, là yếu tố mà tác
động vào đó sẽ gây nên phản ứng nhanh nhạy nhất của cơ thể xã hội.
Thứ ba, lợi ích kinh tế bao giờ cũng mang tính lịch sử và tính giai cấp.
Mỗi xã hội bao giờ cũng đều có một hệ thống lợi ích kinh tế nhất định do
toàn bộ những quan hệ kinh tế quyết định. Chúng thể hiện tính chất và cơ cấu của

những quan hệ sản xuất ấy. Mức độ thỏa mãn những nhu cầu lợi ích là do trình độ
phát triển lực lƣợng sản xuất và tính chất quan hệ sản xuất của xã hội đó quyết
định. Đồng thời, mỗi một hệ thống lợi ích kinh tế lại có sự khác nhau về tính chất
lịch sử, về cơ cấu, về vị trí và mối quan hệ giữa những bộ phận trong cơ cấu đó.
Thật vậy, lợi ích kinh tế chính là sự hiện thực hóa các nhu cầu. Song không
phải mọi nhu cầu của con ngƣời đều có khả năng hiện thực hóa mà chỉ có nhu cầu
nào xuất phát từ chính năng lực đáp ứng của nền sản xuất xã hội mới đƣợc hiện
thực hóa. Theo C.Mác: “Quy mô của nhu cầu đƣợc gọi là tất yếu và những phƣơng
thức để thỏa mãn nhu cầu ấy chính là sản phẩm của lịch sử và phụ thuộc phần lớn
vào trình độ văn hóa của đất nƣớc” [17, tr.27]. Vì vậy lợi ích kinh tế phụ thuộc vào
hoàn cảnh của đất nƣớc trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.

15


Trong xã hội có giai cấp, lợi ích tất yếu mang tính giai cấp. Bởi vì các chủ
thể trong một xã hội nhất định bao giờ cũng thể hiện tính giai cấp của mình ngay
trong những lợi ích kinh tế.
Chẳng hạn trong xã hội tƣ bản chủ nghĩa, lợi ích kinh tế của giai cấp tƣ sản
là thu giá trị thặng dƣ ngày càng lớn, còn lợi ích kinh tế của ngƣời lao động chỉ giới
hạn trong phạm vi giá trị sức lao động của họ.
Trong điều kiện một quốc gia đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nhƣ Việt Nam, mục đích chung của toàn bộ nền kinh tế là thúc đẩy tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển lực lƣợng sản xuất, tạo ra cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện giai cấp công nhân mà đại diện của nó là Đảng
cộng sản nắm chính quyền và mục đích của ngƣời lao động là có việc làm, có thu
nhập và nâng cao đời sống, thì mối quan hệ giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng
lao động tốt nhất là mối quan hệ đôi bên cùng có lợi chứ không thể là mối quan hệ
một mất một còn. Ở đây, ngƣời nắm giữ các điều kiện vật chất của ngƣời lao động
cũng cần đƣợc thụ hƣởng một phần thỏa đáng bộ phận giá trị mới do lao động tạo

ra và ngƣời lao động cũng cần nhận đƣợc một phần hợp lý bộ phận giá trị mới do
chính lao động của mình sáng tạo ra.
1.1.1.3 Vai trò của việc đảm bảo lợi ích kinh tế
Một là, lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy mọi tiến bộ xã hội.
Lợi ích kinh tế với tƣ cách là sự biểu hiện các quan hệ kinh tế và các quy
luật kinh tế phản ánh các quan hệ kinh tế đó, nó luôn có vai trò là động lực mạnh
mẽ thúc đẩy mọi tiến bộ xã hội.
Toàn bộ những quy luật phát triển của xã hội, trong đó có quy luật kinh tế là
một bộ phận, tuy tồn tại khách quan ngoài ý muốn chủ quan của con ngƣời, nhƣng
chỉ có thể thực hiện đƣợc thông qua hoạt động có mục đích của con ngƣời.
Thông qua lợi ích kinh tế mà con ngƣời nhận thức đƣợc các quy luật kinh tế
và hoạt động của mình nhằm thực hiện đƣợc các quy luật ấy. Từ đó lựa chọn những
hình thức, biện pháp thích hợp và tổ chức thực hiện các quy luật ấy một cách tốt
nhất nhằm mang lại kết quả cao nhất.

16


Nhƣ vậy, lợi ích kinh tế chỉ thực sự trở thành động lực mạnh mẽ khi nó phản
ánh đúng đƣợc yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, phản ánh đƣợc vị trí
của các chủ thể mang lợi ích trong hệ thống quan hệ sản xuất nhất định.
Hai là, lợi ích kinh tế là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, là
biện pháp cơ bản nhất để kích thích tính tích cực, năng động và sáng tạo của ngƣời
lao động.
Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản xuất và đời sống
xã hội. Lịch sử đã từng chứng minh, động lực thúc đẩy con ngƣời hoạt động trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội không phải là cái gì khác ngoài lợi ích của họ.
Chính những lợi ích đó đã gắn bó con ngƣời với cộng đồng của mình và tạo ra ở
con ngƣời những sự kích thích, thôi thúc, khát vọng và sự say mê trong hoạt động
sản xuất kinh doanh.

Lợi ích kinh tế đƣợc nhận thức và thực hiện đúng thì nó sẽ là động lực kinh
tế thúc đẩy con ngƣời hành động. Khi các lợi ích kinh tế đƣợc nhận thức và thực
hiện đúng sẽ làm nảy sinh hoạt động của các chủ thể, đồng thời tạo ra sự say mê,
kích thích hoạt động thực tiễn của con ngƣời.
Lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố khách quan và nhân
tố chủ quan cho nên nó trở thành động lực mạnh mẽ ở bên trong nền kinh tế, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Một mặt, thông qua lợi ích kinh tế, con ngƣời mƣu cầu
cuộc sống. Mặt khác, thông qua lợi ích kinh tế mà xu hƣớng phát triển khách quan
của nền sản xuất xã hội đƣợc thực hiện.
Nhƣ vậy, lợi ích kinh tế không chỉ phản ánh những quan hệ kinh tế và những
quy luật kinh tế, mà còn bao hàm trong nó mục đích và sự lựa chọn những phƣơng
thức hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu cầu khách quan của cuộc sống.
Ba là, lợi ích kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố, duy trì các
mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh.
Một khi con ngƣời (chủ thể) tham gia vào các hoạt động kinh tế đều nhằm
đạt tới các lợi ích nhất định. Đạt đƣợc những lợi ích tƣơng xứng với kết quả sản
xuất, kinh doanh thì mới đảm bảo nâng cao tính ổn định và sự phát triển của các chủ

17


×