Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Kỹ năng tham gia giải quyết vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.28 KB, 11 trang )

Đề 13: Phân tích kỹ năng tham gia phiên tòa sơ thẩm của người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.
Bài làm
I. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi có yêu cầu của
đương sự và được Tòa án đồng ý. Người đó có thể là luật sư, trợ giúp viên pháp
lý, đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động, công dân Việt Nam….Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự giúp đương sự nhận thức đúng
quyền, nghĩa vụ của mình và bảo vệ các quyền lợi đó trước Tòa án kho có sự vi
phạm thông qua việc xác minh, thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ, tham gia
tại phiên tòa…Do đó, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trước hết phải là người am hiểu pháp luật và đáp ứng đủ các điều kiện tham gia
tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 75 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“ Điều 75. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
2. Những người sau đây được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự khi có yêu cầu của đương sự và được Tòa án làm thủ tục đăng ký
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:
a) Luật sư tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật về luật sư;
b) Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định
của pháp luật về trợ giúp pháp lý;
c) Đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động là người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người lao động trong vụ việc lao động theo quy định của pháp
luật về lao động, công đoàn;
d) Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không có án tích
hoặc đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp



xử lý hành chính; không phải là cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án,
Viện kiểm sát và công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an.
3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích
hợp pháp của những người đó không đối lập nhau. Nhiều người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể cùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của một đương sự trong vụ án.
…………..”
II. Kỹ năng tham gia phiên tòa sơ thẩm của người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn.
1. Xác định đúng tầm quan trọng của phiên tòa sơ thẩm
Việc đầu tiên mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp sẽ trợ giúp cho
nguyên đơn là thống nhất mục đích của phiên tòa sơ thẩm là gì, đây cũng chính
là nhận thức đúng về tầm quan trọng cũng như vai trò của phiên tòa sơ thẩm.
Phiên tòa sơ thẩm là một phiên họp do Tòa án điều khiển nhằm xét xử công khai
lần đầu về các vấn đề mà đương sự tranh chấp đối với một vụ việc phát sinh tại
Tòa. Một phiên tòa sơ thẩm xét xử do Tòa án điều khiển đương nhiên sẽ nhân
danh Nhà nước nên phải được giải quyết một cách khách quan và công khai.
Trong một vài vụ việc, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có thể khai thác
dư luận xã hội, khai thác tính công khai của phiên tòa để gây bất lợi cho bị đơn,
tăng khả năng thắng kiện của nguyên đơn. Và một trong những nguyên tắc khi
tham gia phiên tòa sơ thẩm mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phải nắm
chắc là mọi lập luận, mọi lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn đều phải dựa trên chứng cứ, tránh đi lạc vào những vấn đề không liên quan
đến việc giải quyết tranh chấp, không sử dụng một cách vô lối những lập luận
mang tính chất suy đoán.
Ngoài ra, trước khi tham gia vào phiên tòa sơ thẩm, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phải loại bỏ được các căn cứ để xác định xem
liệu phiên tòa diễn ra có đúng trình tự tố tụng hay không, đúng căn cứ pháp lý
hay không, phải kiểm tra được vụ án không có căn cứ để tạm đình chỉ, không có



căn cứ để đình chỉ hay ra quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự.
Việc xác định chắc chắn các vấn đề trên sẽ tạo cho người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nguyên đơn một tâm lý vững vàng để tham gia vào phiên tòa
sơ thẩm, trong quá trình diễn ra phiên tòa cũng không nơm nớp lo sợ phiên tòa
sẽ bị hoãn.
Khi bước vào một phiên tòa sơ thẩm thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn cũng phải nắm được diễn biến của phiên tòa phụ thuộc vào
quyền tự định đoạt của các đương sự. Ví dụ như đang tham gia phiên tòa nhưng
bị đơn chủ động đề nghị về việc thỏa thuận với nhau tại phiên tòa thì phải xem
xét xem đề nghị của họ có mang lại lợi ích cho mình hay không. Nếu chứng cứ
của mình yếu, mong chờ cơ hội được thỏa thuận, vì kết quả của phiên tòa như
thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào chứng cứ do các bên đưa ra thì thỏa thuận là
phương án tốt nhất.
Như vậy, xác định được tầm quan trọng của phiên tòa sơ thẩm là một trong
những kỹ năng cần thiết đầu tiên của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của nguyên đơn.
2. Những công việc cần chuẩn bị trước khi diễn ra phiên tòa
Trước khi diễn ra phiên tòa sơ thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp phải tiến hành trao đổi với nguyên đơn để đi đến thống nhất một số vấn đề
như sau:
Thứ nhất, về sự có mặt của nguyên đơn trong phiên tòa sơ thẩm. Theo
Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định như sau:
“ Điều 227. Sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự
1. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa;
nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp
người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.



Tòa án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự về việc hoãn phiên tòa.”
Như vậy, theo bộ luật tố tụng dân sự quy định thì nguyên đơn có quyền
định đoạt việc có tham gia phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất hay không. Theo đó
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cần thống nhất với nguyên đơn để
chuẩn bị các phương án khác nhau. Ví dụ trong những vụ việc liên quan đến bí
mật đời tư cá nhân, nguyên đơn không muốn có mặt thì có thể làm đơn xin xét
xử vắng mặt ( theo khoản 1 điều 227 bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Nếu có
đơn xin xét xử vắng mặt thì hội đồng sẽ xét xử vắng mặt, không có đơn thì hội
đồng xét xử sẽ hoãn phiên tòa lần thứ nhất. Trong trường hợp nguyên đơn không
muốn tham gia phiên tòa thì về mặt chứng cứ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp phải thay nguyên đơn trình cho tòa, nên phải trao đổi với nguyên đơn để
thu thập hết các chứng cứ mà nguyên đơn đang có. Khi nguyên đơn vắng mặt thì
nghĩa vụ chứng minh của nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
sẽ làm thay, vì trong phần tranh tụng, trong phiên tòa sơ thẩm thì người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp có quyền hỏi, có quyền đưa ra chứng cứ tài liệu….
nên phải sử dụng các quyền đấy một cách hợp lý. Còn trường hợp nguyên đơn
muốn hoãn phiên tòa sơ thẩm để thu thập thêm chứng cứ, kéo dài thời gian thì
không cần làm đơn và chỉ cần không có mặt tại phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất.
Tuy nhiên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cần trao đổi để nguyên đơn
nắm rõ được về việc vắng mặt không có lí do tại phiên tòa. Lần thứ nhất nguyên
đơn vắng mặt thì phiên tòa sẽ được hoãn, lần thứ hai diễn ra phiên tòa mà
nguyên đơn vẫn vắng mặt và không có đơn xin xét xử vắng mặt thì hậu quả pháp
lý mà nguyên đơn phải nhận có thể là vụ án bị đình chỉ ( Điều 227 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015).
Thứ hai, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phải trao đổi với nguyên
đơn những tài liệu khi có mặt tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn phải mang theo,
ngoài chứng cứ tài liệu thì phải mang theo cả giấy tờ tùy thân. Việc kiểm tra căn

cước lúc bắt đầu phiên tòa là thủ tục mang tính máy móc rất cao, không mang
giấy tờ thì không được công nhận tham gia phiên tòa với tư cách tố tụng. Người


bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng cần nói cho nguyên đơn biết trước các
thủ tục sẽ diễn ra tại phiên tòa để nguyên đơn nắm được và có sự chuẩn bị.
Thứ ba, trong giấy triệu tập bao giờ cũng có thời gian địa điểm diễn ra
phiên tòa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cần đến sớm để chuẩn bị tâm
lý tốt hơn, nhặt nhạnh những thông tin có ích ngoài phiên tòa. Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp khi đến sớm có thể quan sát sự có mặt của những
đương sự đối lập để chuẩn bị trước phương án, ví dụ biết luật quy định nếu
đương sự vắng mặt lần thứ nhất sẽ hoãn phiên tòa thì phải xem những đương sự
liên quan đã đến chưa, nếu chưa đến có khả năng diễn ra hoãn phiên tòa thì có
lợi hay bất lợi cho nguyên đơn.
3. Trợ giúp nguyên đơn tham gia thủ tục bắt đầu phiên tòa sơ thẩm
Một là, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phải giúp đương sự yêu
cầu hoặc phản đối yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng vì người tiến hành tố
tụng đại diện cho Nhà nước, nguyên tắc giải quyết phải khách quan, nếu người
tiến hành tố tụng có biểu hiện không khách quan thì có quyền yêu cầu thay đổi
( Điều 76 bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
“ Điều 76. Quyền, nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự
4. Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.”
Ví dụ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phát hiện thẩm phán là thân
thích của bị đơn thì phải yêu cầu thay đổi. Nếu bên bị đơn yêu cầu thay đổi
người tiến hành tố tụng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp xem xét, trong
trường cho rằng bị đơn làm vậy là để kéo dài thời hạn tố tụng thì phải phản đối
yêu cầu, cho rằng không có căn cứ để thay đổi. Yêu cầu thay đổi hay phản đối
thay đổi phải nhận diện được có căn cứ thay đổi hay không nên đòi hỏi người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phải nắm rõ các quy định của pháp luật và sử
dụng một cách linh hoạt ( các trường hợp thay đổi người tiến hành tố tụng, thay


đổi thẩm phán, hội đồng nhân dân hay thư ký được quy định tại Điều 52, Điều
53, Điều 54 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
Hai là, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cần chuẩn bị rất kỹ các
phương án, xem xét phiên tòa có bị hoãn hay không và đôi khi giải pháp tìm
kiếm căn cứ để hoãn phiên tòa lại mang lại lợi thế cho nguyên đơn. Ví dụ phía
nguyên đơn chưa chuẩn bị tốt về chứng cứ, hoặc có chứng cứ nhưng phải một
thời gian nữa mới thu thập được thì cần phiên tòa hoãn lại ( các trường hợp dùng
để hoãn phiên toãn được quy định tại Điều 227, Điều 229, Điều 230 bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015).
“ Điều 229. Sự có mặt của người làm chứng
1. Người làm chứng có nghĩa vụ tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa
án.
2. Trường hợp người làm chứng vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định vẫn
tiến hành xét xử hoặc hoãn phiên tòa.
Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử trong trường hợp người làm chứng vắng
mặt nhưng trước đó họ đã có lời khai trực tiếp với Tòa án hoặc gửi lời khai cho
Tòa án. Chủ toạ phiên tòa công bố lời khai đó.
Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa nếu việc vắng mặt của người làm
chứng tại phiên tòa gây khó khăn, ảnh hưởng đến việc giải quyết khách quan,
toàn diện vụ án.
3. Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do chính đáng và việc
vắng mặt của họ gây cản trở cho việc xét xử thì có thể bị dẫn giải đến phiên tòa
theo quyết định của Hội đồng xét xử, trừ trường hợp người làm chứng là người
chưa thành niên.
Điều 230. Sự có mặt của người giám định
1. Người giám định có nghĩa vụ tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa

án để giải thích, trả lời những vấn đề liên quan đến việc giám định và kết luận
giám định.
2. Trường hợp người giám định vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định vẫn
tiến hành xét xử hoặc hoãn phiên tòa.”
Ba là, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cần lưu ý ba trường hợp tại
phiên tòa với nhau là hoãn phiên tòa, tạm ngừng phiên tòa vàtạm đình chỉ giải


quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm. Cả ba trường hợp này đều dẫn đến phiên tòa
không tiếp tục diễn ra, nhưng khác nhau về hậu quả.
+ Hậu quả của tạm ngừng phiên tòa được quy định tại khoản 2 Điều 259 bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015.
“ Điều 259. Tạm ngừng phiên tòa
2. Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Thời hạn
tạm ngừng phiên tòa là không quá 01 tháng, kể từ ngày Hội đồng xét xử quyết
định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn này, nếu lý do để ngừng phiên tòa
không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành phiên tòa; nếu lý do để ngừng
phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự. Hội đồng xét xử phải thông báo bằng văn bản cho
những người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp tục
phiên tòa.”
+ Hậu quả của việc hoãn phiên tòa có thể kéo dài 1 tháng theo khoản 1
Điều 233 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
“ Điều 233. Thời hạn hoãn phiên tòa và quyết định hoãn phiên tòa
1. ……. Thời hạn hoãn phiên tòa là không quá 01 tháng, đối với phiên tòa xét
xử vụ án theo thủ tục rút”
+ Hậu quả của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án được quy định tại
Điều 215 bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Trong luật không quy định về thời
hạn tạm đình chỉ giải quyết vụ án cho nên khi sử dụng các căn cứ để dừng phiên
tòa trong trường hợp hoãn hay tạm ngừng hay tạm đình chỉ đòi hỏi người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp phải có sự cân nhắc một cách cẩn thận. Nếu cảm thấy
chưa thực sự muốn phiên tòa diễn ra thì phải khai thác khả năng yêu cầu hoãn
phiên tòa, lần thứ nhất cứ vắng mặt là hoãn, không cần căn cứ, lần thứ hai thì
phải có căn cứ, nếu là nguyên đơn vắng mặt thì hội đồng xét xử sẽ xem xét đình
chỉ giải quyết vụ án.
Bốn là, tư vấn cho nguyên đơn sử dụng hiệu quả nhất quyền yêu cầu thay
đổi hoặc rút yêu cầu được quy định tại Điều 243, Điều 244, Điều 245 Bộ luật tố


tụng dân sự năm 2015. Theo đó, nguyên đơn có quyền thay đổi bổ sung yêu cầu
nhưng chỉ trong phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu, bổ sung chỉ là làm rõ yêu
cầu ban đầu, thay đổi thì sẽ theo hướng giảm đi yêu cầu, chứ không được phát
sinh vấn đề mới. Ngoài ra, nếu nguyên đơn rút đơn tại phiên tòa, thì theo khoản
1 Điều 245 bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trường hợp bị đơn vẫn giữ nguyên
yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn sẽ trở thành nguyên đơn, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cần xác định tư tưởng cho nguyên đơn về trường hợp
này.
Năm là, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cần cung cấp cho nguyên
đơn thông tin về việc phiên tòa sơ thẩm vẫn có thể đi theo hướng hai bên đương
sự thỏa thuận với nhau tại phiên tòa theo quy định tại Điều 246 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015. Tuy nhiên, thủ tục hòa giải tại phiên tòa rất nhanh nên phải
suy nghĩ kĩ vì quyết định công nhận được đưa ra sẽ có hiệu lực pháp luật luôn.
Sáu là, nếu thấy cần đưa thêm tài liệu, chứng cứ ra xem xét tại phiên toà
mà trước đó người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chưa có hoặc chưa muốn
cung cấp cho Toà án, hoặc thấy cần đề nghị triệu tập thêm người làm chứng
quan trọng của vụ án thì phải đề nghị với Hội đồng xét xử những vấn đề đó. Khi
thấy sự có mặt của người làm chứng là cần thiết cho việc xét xử. Người làm
chứng này biết được nhiều tình tiết của vụ án và có khả năng cung cấp cho Toà
án những tình tiết đó nhưng họ lại không được Toà án triệu tập thì người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp phải đề nghị Hội đồng xét xử triệu tập thêm người

làm chứng, cần nói rõ lý do đề nghị triệu tập người làm chứng để Toà án biết.
Trước khi kết thúc phần thủ tục bắt đầu phiên toà, Chủ tọa phiên toà thường
hỏi các người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có ý kiến gì không. Nếu đồng ý
thì trả lời không có ý kiến gì, nếu thấy cần bổ sung thêm thủ tục nào để bảo đảm
quyền lợi của người mình bảo vệ thì đề nghị với Hội đồng xét xử xem xét.
4. Trợ giúp nguyên đơn tham gia thủ tục tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm


- Về thủ tục hỏi: người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cần lưu ý xác định
đúng thứ tự hỏi của mình, nếu chen ngang sẽ bị hội đồng xét xử yêu cầu dừng
lại ngay. Khi đặt câu hỏi phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác và không làm cho
người được hỏi hiểu theo nhiều nghĩa. Tránh việc đặt câu hỏi quá chung chung,
dài dòng hoặc không rõ đó là câu hỏi hay câu giải thích, vì hỏi như thế sẽ làm
cho người bị hỏi không biết phải trả lời như thế nào. Khi hỏi người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cần chú ý đừng để lộ mục đích để câu hỏi có giá trị, tránh
đặt những câu hỏi trùng lặp, bị tước đi quyền đặt câu hỏi, hướng tới trọng tâm
đặt những câu hỏi làm rõ các tình tiết vụ án. Đối tượng đặt câu hỏi rất phong
phú nên cần tận dụng tối đa, nên hỏi những đối tượng có thể cung cấp thông tin
có lợi cho mình. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có thể đề nghị tạm
ngừng phiên tòa để có thêm thời gian và sự chuẩn bị nếu đang rơi vào thế yếu.
- Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm:
Trong phần tranh luận, khi trình bày quan điểm của mình, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cần nhận định về các tình tiết quan
trọng của vụ án, trình bày quá trình đánh giá chứng cứ và khẳng định giá trị
chứng minh của các chứng cứ mà mình đã đánh giá. Người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp phải luôn luôn dùng các văn bản pháp luật làm căn cứ cho những
nhận định và kết luận của mình. Trong quá trình tranh luận, thông thường người
tham gia tranh luận chỉ có quyền đáp lại ý kiến của người khác một lần đối với
mỗi ý kiến mà mình không đồng ý. Khi đáp lại ý kiến mà mình không đồng ý
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nên trình bày ngắn gọn và đi thẳng vào

vấn đề đồng thời nếu cần thiết dùng ngay lập luận của họ để phán bác lại. Trong
bất kỳ trường hợp nào thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng phải tôn
trọng sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa, tránh tình trạng tranh cãi đối với
những người tham gia tranh luận. Và mục đích của việc tranh luận là để làm
sáng tỏ những tình tiết cần chứng minh của vụ án trên cơ sở đó bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp


pháp không được lồng các ý tưởng mang tính chủ quan hoặc cá nhân để trình
bày trong phần tranh luận.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cần sử dụng thật tốt yêu cầu đối
đáp khi cần thiết, qua mình tranh luận rồi nhưng được tranh luận bổ sung, đương
sự đối lập vắng mặt thì yêu cầu hội đồng xét xử công bố lời khai của đương sự
vắng mặt. Khi tranh luận nếu thấy cần phải quay lại thủ tục hỏi cho rõ thêm thì
yêu cầu hội đồng cho quay lại thủ tục hỏi.
Trong phiên tòa sơ thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp không
cần tranh luận với viện kiểm sát mà viện kiểm sát có quyền là người cuối cùng
trình bày quan điểm của mình và đề xuất hướng giải quyết vụ án để hội đồng xét
xử xem xét và quyết định. Sauk hi đại diện viện kiểm sát trình bày kết luận của
mình thì những người tham gia tranh luận không phát biểu gì thêm.
5. Trợ giúp nguyên đơn ở thủ tục tuyên án, sau tuyên án
Tại thủ tục tuyên án, sau khi nghe xong và cảm thấy bản án không phù hợp
với yêu cầu nguyên đơn đã đề ra thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cần
hướng dẫn cho nguyên đơn hoặc tự mình soạn thảo đơn kháng cáo để yêu cầu
Tòa án cấp trên xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.

2.

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
/>


×