Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

CHƯƠNG BA MƯƠI BỐN CHUẨN BỊ THÀNH LẬP HÀNG GIÁO PHẨM TẠI VIỆT NAM 1933-1960

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (976.46 KB, 13 trang )


CHƯƠNG BA MƯƠI BỐN

CHUẨN BỊ THÀNH LẬP HÀNG GIÁO PHẨM
TẠI VIỆT NAM 1933-1960

I. CHUẨN BỊ THÀNH LẬP HÀNG GIÁO PHẨM TẠI VIỆT NAM

Nhờ ý thức được tình hình chính trị rối ren trong vài năm qua, và những hoạt
động tôn phong phẩm chức khác với hệ thống tổ chức Công giáo, nên người ta có khả
năng tìm hiểu đúng thiên chức rao giảng Tin Mừng đã được Giáo hội minh định.
Qua sự minh xác và quyết định của các Tông Thư Maxi-mum Illud của Đức Giáo
Hoàng Bênêđictô XV
1
, Rerum Eclesiae của Đức Giáo Hoàng Piô XI
2
, và Evangelii
Praecones của Đức Giáo Hoàng Piô XII
3
, các nhà truyền giáo tại Việt Nam, đặc biệt là
các nhà Truyền giáo Pháp và các cha Đa Minh thuộc Tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi đã
có dịp kiểm điểm lại hoạt động mục vụ trong thời gian qua để chuẩn bị phương thức
thành lập hàng giáo phẩm tại Việt Nam.

1. Bước Đầu Thành Lập Hàng Giáo Phẩm

A. Bổ Nhiệm Cha Nguyễn Bá Tòng làm Giám Mục Phó tại Giáo Phận Phát Diệm
Sự bổ nhiệm này là bước đầu m
ở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo Hội Việt Nam,
và cũng là bước khởi đầu việc rao giảng Tin Mừng do chính các đấng trong hàng giáo sĩ
Việt Nam thực hiện. Thực vậy, ngay từ thế kỷ thứ 17 đã có nhiều vị Linh mục Việt Nam


phụ trách làm cha sở tại nhiều xứ khác nhau. Hai vị Giám mục đầu tiên được bổ nhiệm
qua quyết định của Đức Thánh Cha Alexandre VII là Đức Cha Lambert de la Motte và
Đức Cha Francois Pallu
4
. Sau đó một số các Đức Giám Mục liên tiếp được chỉ định qua
Việt Nam.
Các Đức Giám Mục đó được bổ nhiệm phụ trách chăn dắt con chiên trong một
miền, hoặc một địa hạt được mang danh là địa hạt truyền giáo, nơi mà đa số người dân
không phải là tín hữu Công giáo,
5
những người dân đó là người ngoại đạo, và các vị
Giám Mục coi sóc các địa hạt đó là vị đại diện Tông Tòa.
6
Vào thời điểm đó Tòa Thánh
Vatican chưa cho phép thành lập hàng giáo phẩm địa phương bởi vì Giáo Hội không chấp
nhận thẩm quyền đời chen vào công tác mục vụ.
Vào thế kỷ thứ 16, khi mà phương tiện hàng hải thuận lợi, nhiều nhà thám hiểm
Âu Châu muốn đi kiếm tìm chân trời mới. Tháp tùng theo đoàn người này là các vị
truyền giáo thuộc nhiều quốc tịch khác nhau muốn thành lập các họ đạo mới tại nhữ
ng
nơi mà họ đặt chân tới. Công tác rao giảng Tin Mừng đặc biệt phải được các vị vua quan
có hảo tâm cho phép và hỗ trợ. Hai quốc gia có nhà vua hảo tâm đó là Tây Ban Nha và
Bồ Đào Nha. Hai quốc gia này được quyền đề nghị bổ nhiệm các cha sở và các vị tân


1
Tông Thư Maximum Illud, ĐGH Benedicto XV, 30-11-1919.
2
Tông Thư Rerum Ecclesiae, ĐGH Piô XI, 28-2-1926.
3

Tông Thư Evangelii Praecones, ĐGH Piô XII, 2-6-1951.
4
Xem Super Cathedram of Alexander VII, 9-9-1659.
5
Trong Partibus Infidelium.
6
Vicarius Apostolicus, Chương VI, câu 1.

Hình 63: Đức cha Nguyễn Bá Tòng, vị Giám mục tiên khởi Việt Nam.


Giám Mục. Đặc ân này dần dần về sau bị các nhà vua lạm dụng vì lợi ích riêng của mình.
Dù rằng sự lạm dụng đó có trầm trọng thật, nhưng không lộ diện công khai, nên các Đức
Giáo Hoàng không muốn giới hạn những đặc ân đã ban cho, tuy nhiên các Ngài bắt đầu
chỉ định một vị Đại Diện Tông Tòa với nhiệm vụ là người thay mặt chính thức của Đức
Thánh Cha tại một vùng hay địa hạt nào đó.
Ngoài ra, địa vị của một Đại Diện Tông Tòa có thể tùy nghi thay đổi dựa trên
hoàn cảnh hành giáo tại miền hoặc địa hạt mà hệ thống tổ chức công giáo đã ổn định.
Việc này vị đại diện có quyền tự quyết định lấy.
Qua dòng thời gian, hệ thống tổ chức Công giáo tại các vùng đất xa xôi được phát
triển tốt đẹp và nhu cầu hàng giáo sĩ bản xứ cần mở rộng hơn nữa. Toà Thánh Vatican
nhận định cần phải “bình thường hóa mối quan hệ” với các miền hoặc địa hạt nói trên, và
sự thành lập hệ thống mục vụ phải được thực hiện.
Việc tấn phong Cha Nguyễn Bá Tòng coi sóc một giáo phận vào năm 1933 là một
biến cố đặc biệt của lịch sửũ Hội Thánh Công Giáo Việt Nam, và cũng là bước khởi đầu
trong việc thành lập hàng giáo phẩm. Ngoài ra, đây cũng là chiều hướng mới trong công
tác rao giảng Tin Mừng được mở ra do Hội Đồng Giám Mục họp tại Hà Nội vào năm
1934. Kể từ đó cho đến nay Giáo Hội Công Giáo Việt Nam có khả năng pháp lý đẻ trở
nên một Giáo Hội có hàng giáo phẩm riêng.
Từ nơi giáo phận đến các họ đạo nhỏ bé tại các vùng đất xa xôi ven biển đến vùng

núi cao nguyên, có hàng ngàn tổ chức hăng say hỗ trợ các vị Giám Mục trong công tác
rao giảng nước Chúa. Những tổ chức gọi là “Công Giáo Tiến Hành.”
Trước khi tiến tới thời kỳ thăng hoa này, Giáo Hội đã chịu nhiều trở ngại và thử
thách, tuy nhiên Giáo Hội vẫn luôn luôn chuẩn bị hội nhập vào mọi hoàn cảnh.
Nên nhớ rằng tại thành phố Joppé, Thánh Phêrô sắp sửa làm phép rửa tội cho một
người Rô Ma là Cornelius, nhưng Thánh Phêrô và các người Do Thái hiện diện cần tĩnh
tâm suy xét để cử hành Thánh tẩy, và cuối cùng Thánh Phaolô đã nhập cuộc với một
quyết định vững chắc mà Thánh Luca đã chép:
7
“Và ngài
8
không còn phân biệt giữa
chúng ta
9
và họ nữa,
10
nhưng hãy thanh tẩy trái tim họ bằng đức tin.” Lời tuyên bố này đã
trở thành chìa khóa nòng cốt của Giáo Hội nguyên thủy, và nhờ vào nguyên tắc đó, Giáo
Hội đã trở thành Giáo Hội Hoàn Vũ, Giáo Hội Công Giáo.
Khi loan báo Tin Mừng tại Âu Châu và đặt trụ sở tại Rôma, Giáo Hội đã làm cho
các cư dân trở lại đạo Chúa nhờ vào nguyên tắc đó và giáo huấn của Chúa được thể hiện
trong cuộc sống hàng ngày. Người ta hiểu rằng có sự kết hợp chặt chẽ giữa Giáo Hội và
họ. Khi đế quốc Rôma sụp đổ và bị những người dân quê mùa Barbara xâm chiếm, thì
cũng là thời điểm Giáo Hội đã thực hiện được việc làm cho các người dân này trở thành
tín hữu của Chúa. Giáo Hội đã thực hiện được công tác tuyệt vời và xây dựng sự hài hoà
giữa các dân tộc khác nhau, điều đó đã biến đổi người của Giáo Hội thành người dân
Barbara giữa người Barbara, và người Rôma giữa người Rôma.
Lịch sử đã chứng kiến sự thăng tiến của Giáo Hội, không ai còn một ý thức hẹp
hòi ích kỷ nhưng đã biến đổi: từ ý thức người Tây Phương thành ý thức rộng lớn hoàn vũ,
đó là ý thức Công Giáo. Theo lịch sử viết, đã có người cho rằng sự gắn bó chặt chẽ giữa

Giáo Hội và Tây Phương làm cho ngườ
i ta hiểu lầm rằng Giáo Hội Công Giáo là người
Tây Phương. Sự nhiệt tâm cố gắng truyền bá Tin Mừng đã thực sự lan truyền khắp các
nước Tây Phương.
Thời xa xưa, không cần phải việc Do Thái hóa hoặc Rôma hóa để trở thành tín
hữu Công Giáo, mà ngày nay Hệ Thống Tổ Chức Công Giáo thực sự không cần việc Tây
Phương hóa để tạo nên tình người nữa, mà chỉ cần tình người. Giáo Hội Công Giáo, từ
trước đến nay và còn mãi trong tương lai, sẽ không bao giờ tự giới hạn trong phạm vi các
sắc dân như là người Do Thái, người Rôma hay là người Tây Phương. Giáo Hội là cho tất

7
Công Vụ Tông Đồ 15:9.
8
Thánh Phêrô.
9
Người Do Thái.
10
Người vô thần, những người này không phải là dân Do Thái.
cả nhân loại! Các dân tộc ngoài Do Thái, Rôma và Âu Châu không phải là hạng người
thứ hai bị dưới quyền điều khiển của người Tây Phương.
Một trong số các biểu tượng cụ thể nhất trong thời gian đó là Giám Mục Celso
Costantini. Ngài nói:
“Sau đây là yếu tố then chốt của việc biến đổi công tác truyền giáo:
Thứ nhất là Miền Truyền giáo phải được tách rời khỏi quyền lực bao dung và hỗ
trợ. Dù rằng việc đó có thể thu lượm một số lợi tức
11
cho Giáo Hội, nhưng sự bao dung
hỗ trợ đó có thể làm giới hạn việc truyền giáo chu toàn công tác rao giảng Tin Mừng.
Thứ hai là cần có một tổ chức giáo sĩ bản xứ để phục vụ dân chúng trong miền
hoặc tại các địa hạt của dân bản xứ.

Thứ ba là tôn trọng các phong tục truyền thống địa phương, và không được coi đó
là trái với bản chất và nguyên tắc của Giáo Hội.”
Cả ba yếu tố đó phản ảnh truyền thống của Giáo Hội. Và việc lạm dụng sự bao
dung hỗ trợ đó đã bị các nhà vua Bồ Đào Nha và Espanha nắm trong tay trong các thế kỷ
thứ 15 và 16, và sau là đến các nhà vua Anh Quốc và Pháp Quốc. Thực sự hành động hỗ
trợ đó do các nhà vua thực hiện đã đem lại hiệu quả tốt đẹp tại miền Nam Mỹ Châu,
Philippines và Phi Châu, nhưng lại gây nên hậu quả xấu tại miền Đông Á Châu.
Theo thiển ý cá nhân, những nhà truyền giáo cũng như các tín hữu bình thường
cũng là con người, có chiều hướng dấn thân theo con đường riêng theo thói quen cá nhân,
hoặc với tính cách riêng tư và môi trường xã hội. Nhưng một nhà truyền giáo phải thực
sự tuân theo các chỉ thị và sự hướng dẫn của Tòa Thánh Vatican hoặc của ngôn sứ mà
Thiên Chúa đã gửi đến cho thế gian.
Các ngôn sứ ấy là các vị tiên tri đã bị bắt giữ và tử đạo vì người ta hiểu lầm hay
hiểu sai lời của các Ngài rao giảng. Lời đến từ Chúa chứ không phải từụ tư tưởng của con
người. Cha Lebbe là một trong các vị tiên tri đó. Ngài rao giảng nhân danh Thiên Chúa
để hướng dẫn các nhà truyền giáo.
12

Các vị Giáo Hoàng thực sự có bổn phận và nhiệm vụ của các nhà truyền giáo của
Hội Thánh. Vào ngày 2-6-1951, trong tông thư Evangelii Praecones, Đức Giáo Hoàng
Piô XII đã minh định rất rõ:
“Giáo Hội được phép thành lập hệ thống giáo sĩ tại các địa phương nếu cần thiết.
Đây là một phương thức được chấp thuận trong hiện tại, nhưng thời xưa thì chưa, khi mà
các nguyên tắc của Giáo Hội chưa được hiểu rõ, và khi mà Giáo Hộ
i có quan niệm rằng
việc cứu rỗi các linh hồn của các tín hữu quan trọng hơn việc thành lập hàng giáo phẩm ở
bất cứ nơi nào.”
Các vị Giáo Hoàng kế vị sau này nhấn mạnh rằng việc thành lập hệ thống giáo
phẩm nên được thực hiện trong các xứ truyền giáo.


B. Hàng Giáo Sĩ
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV, trong Tông Thư Maximum Illud,
13
đề cập đến
hoạt động phong trào truyền giáo. Ngài nói việc đó minh định rõ ràng là Giáo Hội muốn


11
Lm. Phan Phát Huồn, C.Ss.R., Việt Nam Giáo Sử I (Sài Gòn 1958), trg 15.
12
Trong Kinh Thánh, một vị tiên tri rao giảng nhân danh Thiên Chúa để mở một lối đi mới cho cuộc sống
hoặc để báo trước một điều gì sẽ xẩy ra. Xem:
- Chanoine J. Leclercq, Vie du Père Lebbe (Casterman, 1954).
- Chanoine J. Leclercq, Lettres du Père Lebbe (Casterman, 1960).

13
Sylloge Preacicpiorum Documentorum Recentium Summorum Pontificum et S.C. de Prop. Fide,
Urbianiana I, Rôma, trg 118, Typis Polyglottis Vaticanis, 1939.
trở thành một cơ quan của bản thân con người, chứ không phải thực thể bị cắt xén đối với
con người. Để thực hiện được việc đó, Giáo Hội phải cứu xét việc cho phép các dân bản
xứ có hàng giáo sĩ riêng.
14

Mục đích việc thành lập hàng giáo sĩ cho dân bản xứ và việc rao giảng Tin Mừng
được kể là một phương cách đo lường được sự thành công của Giáo Hội. Đức Giáo
Hoàng Bênêđictô XV còn nhấn mạnh dựa theo văn kiện lâu đời nhất của Giáo Hội. Có
một lần kia, một vị giáo sĩ đã thành lập được một giáo phận. Ngài luôn luôn muốn có một
vị giáo sĩ người bản xứ quản trị thay vì một vị khác từ nước ngoài tới.
Vào năm 1919, bức Tông Thư Maximum Illud, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV
viết: “Nhiều người trước đây là dân chưa khai hoá nay trở thành những người có trình độ

văn minh, và trong số người đó đã có những khuôn mặt sáng giá trong nhiều lãnh vực
khác nhau. Họ không có các vị Giám Mục sáng suốt để dẫn dắt Giáo Hội của họ hay
sao?”
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV nhận thấy tình trạng đáng tiếc
đó và Ngài biết chỉ
có 3600 vị linh mục bản xứ tại vùng đất Truyền giáo với 2000 chủng sinh mà thôi. Vì sao
hàng giáo sĩ bản xứ không phát triển được hơn? Đức Giáo Hoàng cho biết các lý do và
phương pháp để sửa chữa tình trạng đó. Ngài viết: “Rõ ràng là có một số lầm lẫn trong
việc huấn luyện người dân bản xứ để họ trở nên những người điều khiển hàng giáo sĩ tại
các vùng đất c
ủa họ nơi mà các nhà truyền giáo đang rao giảng Tin Mừng.” Đức Giáo
Hoàng tổ chức một Hội Nghị Truyền Thông và Loan Báo Tin Mừng cho các liên chủng
sinh đang phục vụ tại nhiều giáo phận.
Trong Tông Thư Rerum Eclesiae,
15
Đức Giáo Hoàng Piô XI diễn tả mối quan tâm
của Ngài về các vấn đề Truyền Giáo như sau:
“Các nhà truyền giáo không biết ngôn ngữ của các dân bản xứ, nên các lời giảng
dậy của họ không được dân bản xứ tiếp thu đầy đủ. Ngoài ra còn có các lý do khác nữa
dù không quan trọng lắm nhưng vẫn đóng một vai trò cần thiết trong việc rao giảng Tin
Mừng: Các nhà truyền giáo ngoại quốc có thể bị trục xuất nếu đất nước đó có chiến tranh,
hoặc họ giành được độc lập khỏi tay ngoại bang. Vì thế những tín hữu của xứ sở đó có
thể bị mất các linh mục cần thiết cho hoạt động mục vụ của xứ sở họ. Hàng giáo sĩ bản
xứ vẫn đứng vững được bất kể trường hợp nào xẩy ra.”
16

Vì khả năng tài chánh của người dân không đủ, nên việc xây dựng một chủng
viện đúng cách lúc đó không thể thực hiện được. Bởi thế, một hệ thống liên chủng viện là
phương pháp tốt nhất. Vào năm 1926, Đức Giáo Hoàng Piô XI trong Tông Thư Rerum
Eclesiae đã nhắc lại đề nghị của Ngài là xây dựng một chủng viện cho liên chủng sinh.

Ngài cũng nhắc đến việc tăng trưởng số liên chủ
ng viện trên khắp thế giới.
Để giúp đỡ các chủng sinh bản xứ có một khả năng hiểu biết đầy đủ, Đức Giáo
Hoàng thành lập một số trường đại học khác nhau như trường Đại Học Truyền Thông ở
Rôma.
17
Vào năm 1933 có nhiều trường đại học tương tự cũng được xây cất lên để cung
ứng việc huấn luyện cùng một mục đích giáo dục.
Sự quan tâm của Đức Giáo Hoàng Piô XII được ghi trong Tông Thư Evangelii
Praecones
18
đã minh chứng đúng sự thật trong các thập niên vừa qua. Những cuộc chiến

14
Ibid, trg 250.
15
Sắc Lệnh của ĐGH Piô XI về các Sứ Mệnh 1926.
16
Sylloge, op. cit., trg 251.
17
Collegium Urbanum de Propaganda Fide.
18
Những nhà thuyết giáo của Phúc Âm.

×