Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

tiểu luận HCM phân tích sự vận dụng tư tưởng của hồ chí minh về những điều kiện thắng lợi của cách mạng việt nam trong thời đại ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.76 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lí do và tính cấp thiết của đề tài

Chủ nghĩa xã hội khoa học là môn khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân trong việc thực hiện việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học được coi là một trong ba bộ phận cấu thành của
chủ nghĩa Mác, nhưng nếu hiểu theo nghĩa rộng thì nó cũng chính là toàn bộ chủ
nghĩa Mác như V.I Lênin đã viết khi đánh giá tác phẩm “Tư Bản” của C. Mác: Tác
phẩm chủ yếu và cơ bản trình bày chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa xã hội
khoa học là chủ nghĩa Mác hay chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kế thừa sự nghiệp vĩ đại của các nhà kinh
điển C. Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin trong việc tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác
- Lênin trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới, trong thực tiễn của cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân
tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân,
vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát
triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm
lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung


thành của nhân dân... Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của


nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
2.

Giới hạn, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Tiểu luận tập trung phân tích tư tưởng của Hồ Chí Minh về điều kiện

thắng lợi của cách mang dân tộc dân chủ nhân dân ở các nước thuộc địa
- Tiểu luận phân tích sự vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về những
điều kiện thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay.
3.
-

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích
Trên cơ sở làm rõ bối cảnh, điều kiện, tiền đề cho sự ra đời các tác phẩm của
Hồ Chí Minh, tiểu luận đi vào phân tích những tư tưởng của Hồ Chí Minh về điều
kiện thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở các nước thuộc địa trong
các tác phẩm của Hồ Chí Minh từ đó chỉ ra những ý nghĩa của nó cũng như phân
tích sự vận dụng tư tưởng này đối với công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng ở
Việt Nam hiện nay.
-



Nhiệm vụ

Phân tích những điều kiện tháng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở các
nước thuộc địa




Phân tích ý nghĩa cũng như sự vận dụng lý luận của Hồ Chí Minh về điều kiện
thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay.
4.
-

Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp luận: để nghiên cứu đề tài này em dựa trên quan

điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử về chủ thể và
động lực của cách mạng Việt Nam theo tư tưởng của Hồ Chí Minh.


-

Phương pháp nghiên cứu chung: Trong quá trình nghiên cứu

em sử dụng phương pháp: phân tích – tổng hợp, khái quát hóa để hoàn thành
tốt tiểu luạn này.
Các phương pháp cụ thê: phương pháp logic – lịch sử, phương
pháp so sánh, thu thập tài liệu, lược thuật tài liệu,…
5.

Đóng góp mới của đề tài

- Tiểu luận góp phần vào việc nghiên cứu quan điểm của chủ tịch Hồ Chí
Minh về điều kiện thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
- Tiểu luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu liên
quan đến các vấn đề của chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là các vấn đề xoay quanh tư

tưởng về điều kiện thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
6.

Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm có 3 chương 7 tiết.


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ
NHÂN DÂN Ở CÁC NƯỚC THUỘC ĐỊA
1.1.

Khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam của Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội, tập 1, tr. 356 cũng định nghĩa : Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là một
loại hình đấu tranh dân tộc và giai cấp ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Nhiệm
vụ của nó là đánh đổ ách thống trị của thực dân để giành độc lập cho đất nước, xóa
bỏ mọi áp bức của chế độ phong kiến để đem lại quyền tự do dân chủ cho nhân
dân. Lực lượng cách mạng đó là nhân dân được tập hợp trong một mặt trận thống
nhất. Tương quan lực lượng của các giai cấp và đảng phái chính trị của từng nước
quy định cuộc cách mạng đó có thể do giai cấp tư sản hoặc do giai cấp công nhân,
thông qua các đảng chính trị của giai cấp đó, nắm quyền lãnh đạo. Điều này quyết
định mức độ triệt để cách mạng và xu thế phát triển tiếp theo sau khi cuộc cách
mạng đó đã thắng lợi. Các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp tư sản lãnh
đạo thắng lợi sẽ mở đường đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ
nghĩa; nó thuộc phạm trù cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ. Các cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm thực hiện triệt để các nhiệm

vụ dân tộc và dân chủ, dựa vào các lực lượng cách mạng của mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi, lấy liên minh công nhân, nông dân và tiểu tư sản làm động lực,
xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, mở đường đưa đất nước tiến dần
từng bước theo con đường xã hội chủ nghĩa – đó chính là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân.


Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là cuộc cách mạng mang tính chất
nhân dân sâu sắc, nhằm đánh đổ thực dân phong kiến, xây dựng chế độ cộng hòa
dân chủ rồi chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.2.

Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng dân tộc dân chủ nhân

dân
Ngay từ khi bắt đầu có những nhận thức cơ bản về cách mạng ở giai cấp
vô sản các nước trên thế giới, nhất là ở các thuộc địa – nó là khâu yếu nhất của chủ
nghĩa đế quốc và là nơi bùng nổ cách mạng mạnh mẽ nhất, Mác và Ăngghen trong
khi nghiên cứu thực tiễn cách mạng thế giới đã đề xuất ra lý thuyết ‘‘cách mạng
không ngừng’’ trong những năm 1849 – 1850, tiền đề của cách mạng dân tộc dân
chủ ở Việt Nam. Trong lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương gửi Liên đoàn
những người Cộng sản vào tháng 3/1850 , Mác viết : “Lợi ích của chúng ta là phải
làm cho cách mạng trở thành cách mạng không ngừng, cho đến khi tất cả các giai
cấp ít hay nhiều hữu sản đều bị gạt ra khỏi chính quyền nhà nước, cho đến khi
chúng những ở một nước mà ở tất cả mọi nước thống bị trên thế giới, các hội liên
hiệp những người vô sản do tiên bộ đến mức có thể chấm dứt sự cạnh tranh giữa
những người vô san ở các nước đỏ. và ít nhất là tập trung nhưng lực lượng san xuất
quyết định vào tay những người vô sản”. Vậy lý luận “cách mạng không ngừng”
theo Mác và Ăngghen là gì ? Theo hai ông, cách mạng không ngừng là một quá
trình đấu tranh giai cấp quyết liệt, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau nhưng phát

triển liên tục. Mỗi giai đoạn có những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể tạo tiền đề cho
giai đoạn phát triển tiếp theo để đi đến mục tiêu cuối cùng. Ở các quốc gia có chính
quyền thối nát của phong kiến – tư sản đang cầm quyền thì giai cấp vô sản chính là
giai cấp kiên quyết và có tinh thần cách mạng nhất. Họ có thể chuyển từ cách mạng
dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa một khi giai cấp đó giành được
chính quyền.


Về sau, Lênin trong quá trình hoạt động cách mạng của mình đã vận dụng
và phát triển thêm lý luận của Mác và Ăngghen về sự chuyển hóa không ngừng từ
cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lênin nhận định rằng,
‘‘sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa
tư bản’’ và ông nhận thấy rằng chủ nghĩa xã hội sẽ toàn thắng chỉ trong 1 nước hay
vài nước tư sản ; giai cấp vô sản sẽ là người lãnh đạo cách mạng vô sản, là giai cấp
chính quyết định tiến trình cách mạng từ giai đoạn cách mạng dân chủ tư sản sang
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình làm cách mạng vô sản thì họ sẽ thực
hiện liên tục – không có sự gián đoạn nào (từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Lênin cũng nói rõ rằng, sau khi tiến hành xong cách mạng
dân tộc dân chủ thì quá độ ngay sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.3.

Hoàn cảnh lịch sử hình thành đường lối cách mạng dân tộc

dân chủ nhân dân ở các nước thuộc địa
Sự hình thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ ở các nước thuộc
địa của Nguyễn Ái Quốc diễn ra trong một hoàn cảnh lịch sử phức tạp.
Về hoàn cảnh quốc tê :
- Vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản cạnh tranh
tự do ở các nước tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Cùng với những mâu
thuẫn vốn có giữa giai cấp vô sản và tư sản, trong lòng nước tư bản (và cả nước

thuộc địa, phụ thuộc) xuất hiện những mâu thuẫn mới, trong đó có những mâu
thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc đang diễn ra ngày càng
quyết liệt và mạnh mẽ. Sau khi cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã kết thúc, mặc
dù đã thống nhất lại thế giới theo một trật tự mới – nhưng nhìn chung vẫn còn bất
ổn do những xung đột và bất đồng về quyền lợi giữa các nước thắng trận cũng như
các nước bại trận, góp phần tạo mầm mống cho cuộc chiến tranh thế giới kế tiếp sẽ


bùng nổ vào 20 năm sau (theo lời tuyên bố của thủ tướng Anh Loyd George năm
1919). Về các nước thuộc địa, các đế quốc cũng thi hành chính sách thống trị khắc
nghiệt đã làm nhân dân thuộc địa bất bình sâu sắc, mâu thuẫn diễn ra giữa đế quốc
và thuộc địa là khó tránh khỏi.
- Giai cấp công nhân các nước phát triển mạnh mẽ về số lượng, chất
lượng, có thành lập các chính đảng và vẫn tiến hành đấu tranh chống lại quyền lực
của đế quốc. Do ảnh hưởng của phong trào công nhân thế giới, công nhân Nga đã
phối hợp với nhân dân trong nước làm cuộc cách mạng Tháng Mười Nga giành
thắng lợi, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người – thời đại xã hội chủ nghĩa.
- Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đóng vai trò to lớn đối với
phong trào cộng sản trên thế giới.
Về hoàn cảnh trong nước :
- Sau thất bại của phong trào yêu nước theo các khuynh hướng
chính trị khác nhau, cách mạng nước ta đang lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu
sắc về đường lối cứu nước.
- Nhu cầu bức thiết đặt ra lúc này là cần phải tìm ra một đường lối
cứu nước đúng đắn, đáp ứng được những nhu cầu của cách mạng Việt Nam và phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại. Nhiều chiến sĩ yêu nước vẫn tiếp tục đi tìm
đường cứu nước. Nguyễn ái Quốc là một trong những chiến sĩ đó.


CHƯƠNG II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐIỀU KIỆN THẮNG

LỢI CỦA CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở CÁC NƯỚC
THUỘC ĐỊA
Lý luận “Cách mạng không ngừng” của Mác-Lênin được Hồ Chí Minh
sau này áp dụng để hình thành tư tưởng về vấn đề dân tộc-dân chủ cho cách mạng
Việt Nam sau này. Nó được hình thành khi Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh)
đang ở Pháp (1917-1923). Người nhận thức được rằng ở Việt Nam lúc này, phong
kiến và thực dân áp buwscraats tàn bạo, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
đang phát triển mạnh mẽ nên nó là mảnh đất tốt cho một thứ chủ nghĩa mới mà
theo Người, đó là chủ nghĩa xã hội (hay chủ nghĩa cộng sản). Người nghĩ rằng, chủ
nghĩa xã hội sẽ xảy ra ở Việt Nam và đó là điều tất yếu và hợp với quy luật lịch sử.
Người viết: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội
chỉ còn làm cái việc gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi” [C.Mác và
Ph.Ăngghen tt, t7, tr346-347]. Để thực hiện được công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, Người sẽ phải suy nghĩ và tìm ra phương cách thích hợp-cuối cùng
Người cho rằng chỉ có cách mạng, và cách mạng mới giải quyết được vấn đề nan
giải này. Hình thức cách mạng sẽ là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là cuộc cách mạng
do nhân dân lãnh đạo, nhằm giải quyết hai vấn đề dân tộc; dân chủ để từ đó tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Cụ thể nhất là vấn đề “dân tộc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vậy một
vấn đề đặt ra là, trong hai nhiệm vụ “dân tộc” và “dân chủ” thì Hồ Chí Minh vì sao
lại đưa vấn đề “dân tộc” lên trước, rồi mới tới “dân chủ”. Vấn đề này Người đã đặt
ra từ lâu, từ khi Người còn bé và phải sống trong một đất nước nô lệ-người dân
Việt bị thực dân phong kiến Nguyễn bóc lột và đàn áp tàn bạo nên một ý nghĩ đã
lóe lên trong đầu Người là làm thế nào để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ?


Người có thm gia phong trào của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, nhưng không
tán thành con đường cứu nước của họ; thế là Người quyết định ra nước ngoài tìm
kiếm con đường giải phóng dân tộc. Ở Pháp khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc

và thuộc địa. Người đã ngộ ra và tìm thấy con đường cứu nước của mình-con
đường để giải phóng dân tộc. Tư tưởng của Người về điều kiện thắng lợi cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân được đúc kết thành các nội dung chính như sau:
Cách mạng dân tộc dan chủ nhân dân muốn thắng lợi thì không còn con đường nào
khác là cách mạng vô sản, cách mạng muốn thắng lợi thì phải có sự lãnh đạo của
Đảng, cách mạng là sự nghiệp của toàn dân và dựa trên cơ sở liên minh côngnông…
2.1. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân muốn giành thắng lợi phải có
Đảng lãnh đạo
Cách mạng muốn giành thắng lợi phải có Đảng lãnh đạo. Luận điểm này
không phải không có căn cứ. Thế kỷ XIX, Công xã Paris thất bại là do chưa có
chính đảng lãnh đạo nên trong lời kêu gọi công nhân thế giới, Mác kêu gọi cần
phải có một chính đảng để lãnh đạo, giai cấp công nhân lãnh đạo và tư tưởng được
lấy làm cốt trong Đảng. Hồ Chí Minh kế thừa quan điểm đó và làm rõ thêm: muốn
làm cách mạng thì “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh
mới thành công” [Hồ Chí Minh tt, t2, tr267-268].
Trong tác phẩm Ðường Kách mệnh Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò
quan trọng hàng đầu của Ðảng - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam và việc lựa chọn mô hình nhà nước trong tương lai: Nhận thức sâu sắc
nguyên nhân của cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước, Hồ Chí Minh đã luận giải
về bản chất của thời đại mới, về nhiệm vụ và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản,
về vai trò của những nhân tố đảm bảo cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo


quỹ đạo của cách mạng vô sản đi đến thắng lợi cuối cùng và nêu rõ trong Ðường
Kách mệnh: "Trước hết phải có Ðảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Ðảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy. Ðảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin". [Hồ Chí Minh tt, t2, tr289].

Đường Kách mệnh khẳng định rằng, muốn cách mệnh thành công thì
phải có Đảng Cách mạng lãnh đạo, phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc, phải
bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc
Tư và Lênin.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đây là luận điểm Người đã
phát triển học thuyết Mác – Lê-nin về Đảng Cộng sản, nhờ đó mà Đảng Cộng sản
Việt Nam có sự gắn bó chặt chẽ với nhân dân, với toàn dân tộc trong mọi thời kỳ
của cách mạng Việt Nam.Đồng thời HCM cũng khẳng định “. Đảng giải phóng
công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản.” [Hồ Chí Minh tt, t3, tr.4] để nhấn
mạnh vai trò của Đảng.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã qui tụ được lực
lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam. Đó là
một đặc điểm, đồng thời là ưu điểm của Đảng. Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời,
Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành
nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2.2. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là sự nghiệp của toàn dân,
phải dựa trên cơ sở liên minh công-nông


2.2.1. Liên minh công-nông
Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không
phải việc việc của một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn thể các tầng lớp nhân
dân trong nước Việt Nam là nông dân, công nhân; đồng thời “phải hết sức liên lạc
với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe
vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà
chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập
trung” [Hồ Chí Minh tt, t3, tr3]. Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người khẳng định
cái cốt của nó là công – nông, vì “công nông là người chủ cách mệnh... công nông
là gốc cách mệnh” [Hồ Chí Minh tt, t3, tr266]. Và trong khi thực hiện liên kết các

tầng lớp nhân dân thì phải “rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì
của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp” [Hồ Chí Minh tt, t3, tr3]. Về sau, để
thực hiện chiến lược đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận động, tập
hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ
trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn
dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.
Thứ nhất, Ở nông thôn, bần nông là lớp người đông nhất, và nghèo khổ
nhất. Họ là đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân. Trung nông là lớp
người mình cày ruộng của mình, không bóc lột ai, cũng không phải làm thuê cho
ai. Họ cũng bị bọn địa chủ, bọn cho vay nặng lãi, và bọn đế quốc áp bức bóc lột. Vì
vậy, họ là đồng minh chắc chắn của giai cấp công nhân.
Thứ hai, Đại đa số trí thức và học sinh thuộc giai cấp tiểu tư sản. Nói
chung, thì họ cũng bị đế quốc và phong kiến áp bức, thường bị thất nghiệp, thất
học. Họ có học thức, dễ có cảm giác chính trị. Họ không trực tiếp bóc lột lao động.
Vì vậy, họ dễ tiếp thụ sự giáo dục cách mạng và cùng đi với công nông. Những lớp


tiểu tư sản khác (những nhà công nghệ và thương nghiệp nhỏ, những người làm
nghề tự do, v.v.) cũng bị đế quốc và phong kiến bóc lột. Kinh tế của họ bấp bênh,
thường bị thất nghiệp, phá sản. Cho nên số đông cũng tham gia và ủng hộ kháng
chiến, cách mạng. Họ cũng là đồng minh quan trọng của giai cấp công nhân. Nói
chung là giai cấp tiểu tư sản có những nhược điểm: tự tư tự lợi, rời rạc, kém kiên
quyết... Cho nên đối với họ, giai cấp công nhân cần phải tuyên truyền, tổ chức họ,
giúp họ phát triển ưu điểm, sửa chữa nhược điểm, cần phải khôn khéo lãnh đạo họ,
làm cho họ quyết tâm phụng sự nhân dân, cải tạo tư tưởng, cùng với công nông kết
thành một khối, thì họ mới trở nên tác dụng to lớn trong công cuộc kháng chiến,
cách mạng.
Thứ ba, Liên minh công nông là nền tảng rộng rãi và chắc chắn nhất của
dân chủ chuyên chính. Trong cuộc kháng chiến cứu nước, hai giai cấp ấy cũng
đóng góp nhiều nhất, hy sinh to nhất, thành tích lớn nhất. Giai cấp công nông là lực

lượng chủ chốt để giữ gìn Tổ quốc, xây dựng nước nhà. Vì vậy công nông liên
minh là nền tảng tự nhiên của mặt trận dân tộc thống nhất.
Trong tác phẩm này, Hồ Chí Minh còn phân tích nội dung liên minh toàn
diện giữa giai cấp công nhân với nông dân và tiểu tư sản trong cách mạng dân chủ
mới: liên minh trong chính trị, trong quân sự, trong kinh tế và trong tổ chức đời
sống xã hội
Hồ Chí Minh cũng đã từng khẳng định: “Trong thời đại ngày nay, giai cấp
công nhân là độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến
thắng lợi cuối cùng, bằng cách liên minh với nông dân. Những trào lưu cơ hội chủ
nghĩa, mơn trớn nông dân, coi nông dân là một lực lượng chủ yếu, là động lực duy
nhất của cách mạng, là đội ngũ cách mạng nhất, đều chỉ đi tới chủ nghĩa phiêu lưu,
chủ nghĩa cực đoan, vô chính phủ và đi tới chỗ phản bội chủ nghĩa Lênin mà thôi”.


Hồ Chí Minh luôn lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh, coi sức mạnh vĩ đại
và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng nhân dân là then chốt bảo đảm thắng
lợi, Người nói: “Đối với tôi câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng,
thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự
do độc lập”[Hồ Chí Minh tt, t1, tr.209].Người luôn nhận thấy vai trò quan trọng
của quần chúng “nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có
Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”. [Hồ Chí
Minh tt, t15, tr.622]. Đồng thời HCM cũng khẳng định “cuộc cách mạng vô sản
không thể thắng lợi ở các nước nông nghiệp và nửa nông nghiệp nếu như giai cấp
vô sản cách mạng không được quần chúng nông dân ủng hộ tích cực”. [Hồ Chí
Minh tt, t2, tr.564]
Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là đánh đổ
đế quốc giành độc lập dân tộc. Cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân
dân để huy động sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân.Hồ Chí Minh phân tích: “Để
giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân,
tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”. [Hồ Chí

Minh tt, t15, tr.617]. Đồng thời HCM cũng nhấn mạnh: "Chúng ta đã hy sinh làm
cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao
cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh
nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc" [Hồ Chí Minh tt, t2, tr.292]
Sách lược vắn tắt chỉ rõ “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí
thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,..để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn
với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào ra mặt
phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì cần phải đánh đổ”[Hồ Chí Minh tt, t3,
tr.3].


2.2.2. Đoàn kêt quốc tê
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cần được tiến hành chủ động, sáng
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước chính quốc. Chúng ta xem xét quan điểm
này. Chúng ta biết rằng: Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã
từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp
vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã
làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát
biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã phân
tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp
vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp
bức ở các thuộc địa” [Hồ Chí Minh tt, t1, tr 273-274].
Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân
phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đi tới nhận định:
cách mạng thuộc địa có thể được thực hiện được bằng sự nỗ lực của chính bản thân
người dân thuộc địa. Trong “Đường kách mệnh”, Người nhận định: “Muốn người
ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã” [Hồ Chí Minh tt, t3,
tr293]. Ngoài ra, Người cũng đã khảo sát và đánh giá rất khách quan tình hình
chính quốc và thuộc địa. Nghiên cứu về đế quốc và thuộc địa, Người viết: “tất cả

sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ
nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng,
mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh
lính bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của nó” [Hồ Chí Minh tt, t1,
tr274] và “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở
các thuộc địa hơn là ở chính quốc”. Nếu muốn phá bỏ, xóa bỏ “nọc độc” này của
chủ nghĩa đế quốc thì nhiệm vụ đầu tiên của người cách mạng là phải thức tỉnh tư
tưởng của quần chúng, kêu gọi quần chúng ở nước thuộc địa phải liên kết với nhau


tạo thành một khối đoàn kết vững mạnh, dưới sự chỉ đạo của một Đảng Cộng sản
có tư tưởng, đường lối rõ ràng về vấn đề thuộc địa để tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc; đó là điều mà các Đảng ở chính quốc (đế quốc) không làm được. Ở
chính quốc vẫn có bóc lột, Đảng Cộng sản vẫn lãnh đạo nhân dân đấu tranh, thế
nhưng có lẽ do đường lối không đúng, đặc biệt có một số chính đảng coi nhẹ đấu
tranh giải phóng dân tộc, nên cách mạng ở chính quốc không thể thắng lợi. Một
cuộc cách mạng muốn thắng lợi phải hội đủ nhiều yếu tố, trong đó yếu tố đoàn kết
với các giai cấp trên thế giới để nhận được sự ủng hộ của nhân dân (các tầng lớp
khác) thì họ không làm được. Ở các nước thuộc địa, chính vì bị ách thống trị tàn
bạo của thực dân, nên họ được ý thức tư tưởng về giải phóng dân tộc (ở chính quốc
khá mơ hồ, không rõ ràng về vấn đề này), tạo thuận lợi cho Đảng tiến hành đường
lối cách mạng một cách chủ động, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn đất nước, kêu
gọi sự đồng lòng và nhất trí của nhân dân tạo nên sức mạnh để tiến hành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Do nhận thức được như thế, Hồ Chí Minh đã
khẳng định: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cần được tiến hành chủ động,
sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đó
là một khẳng định đúng, hiển nhiên đúng. Khi nhân dân thuộc địa tiến hành cách
mạng giành thắng lợi rồi, họ có thể “giúp đỡ những người anh em mình ở phương
Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn” [Hồ Chí Minh tt, t1, tr36].
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là một bộ phận của cách mạng thời

đại ( gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động).
Đồng thời, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở các nước thuộc địa và
cách mạng vô sản ở “chính quốc” có quan hệ khăng khít với nhau như hai cái cánh
của con chim cách mạng thời đại.


Phải thực hiện sự liên minh chiến đấu giữa các lực lượng cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở “chính quốc” theo khẩu hiệu của Lênin “Vô
sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”.
Mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của các dân tộc
thuộc địa với cách mạng vô sản chính quốc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu
trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” qua hình ảnh chủ nghĩa đế quốc là
con đỉa hai vòi, một vòi nó hút máu của giai cấp vô sản trong nước và một vòi hút
máu của nhân dân lao động các nước thuộc địa. Vì vậy, muốn giết con vật ấy,
Người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi còn lại
vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản hoặc nhân dân thuộc địa, con vật vẫn tiếp
tục sống và cái vòi bị cắt lại mọc ra.
Cùng với việc chỉ ra mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân của các dân tộc thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn đưa ra nhận định quan trọng: Cách mạng thuộc địa không hoàn toàn phụ
thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà nó có tính chủ động, độc lập. Cách
mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng ở “chính quốc” và góp phần
thúc đẩy cách mạng ở chính quốc tiến lên.
Tư tưởng này đã được Người rút ra ngay từ khi Bản yêu sách của nhân
dân An Nam không được Hội nghị Véc xay xem xét đến. Người khẳng định: “Các
dân tộc bị áp bức muốn được độc lập, tự do thực sự phải trông cậy trước hết vào
lực lượng của bản thân mình, phải tự mình giải phóng cho mình”. Và Người cho
rằng: Cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách
mạng cách mạng vô sản chính quốc và tác động trở lại, thúc đẩy cách mạng chính
quốc phát triển. Nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động đứng lên “đem sức

ta mà giải phóng cho ta” không ỉ lại, chờ đợi ở cách mạng chính quốc.


Tinh thần yêu nước của các dân tộc thuộc địa là một sức mạnh tiềm ẩn của
cách mạng giải phóng dân tộc, “tinh thần yêu nước là kiên quyết giữ gìn quyền độc
lập, tự do và đất đai toàm vẹn của mình” [Hồ Chí Minh tt, t8, tr 272]. Sức mạnh đó
nếu được chủ nghĩa Mác – Lê-nin giác ngộ và soi đường thì cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa sẽ có một sức bật rất lớn và có khả năng chủ động cao
so với cách mạng vô sản ở chính quốc. Cho nên, phải “Làm cho các dân tộc thuộc
địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt
cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một
trong những cái cánh của cách mạng vô sản.”[Hồ Chí Minh tt, t2, tr.134]; phải phát
động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh quốc tế Cộng sản.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế
quốc thực dân, Người nhấn mạnh “có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì
chết” [Hồ Chí Minh tt, t3, tr.21]; chủ trương phát huy nổ lực chủ quan của dân tộc,
tránh tư tưởng bị động, trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.
Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức
mạnh dân tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa
có thể giành thắng lợi trước và giúp đỡ cách mạng vô sản ở chính quốc. Người viết
“giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta” [Hồ Chí Minh tt, t8, tr
273]
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận thực tiễn và lý luận to
lớn; một cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã
được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới
trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận và



thực tiễn rất to lớn và đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
2.3. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân muốn thắng lợi thì không còn
con đường nào khác là cách mạng vô sản, phải được thực hiện bằng con
đường bạo lực
2.3.1. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải được thực hiện bằng con
đường cách mạng vô sản
Hồ Chí Minh nêu ra luận điểm này không phải là không có căn cứ. Trước Hồ
Chí Minh hơn 1 thế kỷ, Mác và Ăngghen có đề cập rất kỹ về cách mạng vô sản.
Hai ông nhìn thấy được những mâu thuẫn không thể giải quyết được giữa tư sản
sản và vô sản; cũng như chính quốc và thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa;
đông thời còn nhận thấy “đằng sau những cuộc xung đột chính trị mang tính dân
tộc, đằng sau khát vọng của những dân tộc muốn thống nhất dân tộc, đằng sau cuộc
chiến tranh giữa quốc gia dân tộc và quốc gia nô dịch là cuộc đấu tranh giữa giai
cấp tư sản và vô sản, quý tộc ruộng đất và các tầng lớp xã hội khác. Vì thế, Mác và
Ăngghen coi cách mạng xã hội chủ nghĩa là điều kiện để giải quyết vấn đề dân tộc”
. Lênin cũng nhận định rằng: “Mâu thuẫn cơ bản nhất của chủ nghĩa đế quốc là đấu
tranh giữa tư sản và vô sản đã đến thời kỳ hiện thực cách mạng. Mâu thuẫn giữa đế
quốc thuộc địa gắn liền với mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản cũng mang tính thời
sự nóng bỏng của cách mạng giải phóng” . Đến thời Hồ Chí Minh, Người đã tiếp
thu chủ nghĩa Mác – Lenin và có nhận thức đúng về chủ nghĩa đế quốc. Người chỉ
rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi
bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái
vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong


những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô
sản”.
2.3.2. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải được thực hiện bằng con

đường bạo lực cách mạng
Theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, có nhiều phương pháp giành chính quyền từ
tay giai cấp thống trị. Những kẻ thù không bao giờ tự nguyện giao chính quyền cho
nhân dân.Vì vậy, cách mạng muốn thắng lợi phải dùng bạo lực của quần chúng
nhân dân để giành chính quyền.Người viết: “Cách mạng tức là giai cấp tiến bộ
đánh đổ giai cấp phản tiến bộ.” [Hồ Chí Minh tt, t8, tr.255]Bạo lực cách mạng là
bạo lực của quần chúng gồm lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ
trang với hai hình thức đấu tranh chính trị và vũ trang kết hợp với nhau nhưng phải
tuỳ tình hình cụ thể mà quy định những hình thức cách mạng thích hợp.
Hình thái bạo lực cách mạng được HCM đưa ra đó là khởi nghĩa toàn dân,
Người viết:“Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải
động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của
toàn dân.” [Hồ Chí Minh tt, t15, tr.617] Đồng thời phải giác ngộ nhân dân không
để xảy ra tình trạng tự phát, dễ dẫn đến thất bại: “Dân khổ quá hay làm bạo động,
như dân An Nam ở Trung Kỳ kháng thuế, Hà Thành đầu độc, Nam Kỳ phá khám;
không có chủ nghĩa, không có kế hoạch, đến nỗi thất bại mãi.” [Hồ Chí Minh tt, t2,
tr.288] Đặc biệt HCM phê phán việc ám sát lẻ tẻ, không có kế hoạch, Người viết:
“Ám sát là làm liều, và kết quả ít, vì giết thằng này còn thằng khác, giết sao cho
hết? Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp
áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5, 7 người giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh quan
mà được.” [Hồ Chí Minh tt, t2, tr.299]


Khởi nghĩa vũ trang đương nhiên phải dùng vũ khí, phải chiến đấu bằng lực
lượng vũ trang, nhưng không phải chỉ là một cuộc đấu tranh quân sự, mà là nhân
dân vùng dậy, dùng vũ khí đuổi quân cướp nước.Đó là một cuộc đấu tranh to tát về
chính trị và quân sự, việc quan trọng làm đúng thì thành công, làm sai thì thất bại.
Thực hành con đường bạo lực của HCM là tiến hành đấu tranh chính trị,
đấu tranh vũ trang khi điều kiện cho phép, thực hành đấu tranh ngoại giao, đồng
thời phải biết kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh ngoại giao để giành và giữ

chính quyền.


CHƯƠNG III: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐIỀU
KIỆN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG DAN TỘC DAN CHỦ NHÂN DÂN
Ở CÁC NƯỚC THUỘC ĐỊA
3.1. Phát huy sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh, đẩy mạnh chống quan liêu tham nhũng
Trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành TW Đảng khóa X tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đưa ra mục tiêu phát triển đất nước chú
trọng: “Tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn
thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính
phủ, chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp;
thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân.
Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức;
thường xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch,
vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng.”
Để làm trong sạch Đảng và bộ máy công quyền cần tăng cường và nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát – chức năng và phương thức
lãnh đạo quan trọng của Đảng. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các nghị
quyết, quyết định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp
thời mọi sai phạm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát kết quả công tác, năng lực và


phẩm chất cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước

trong sạch, vững mạnh.
3.2. Xây dựng và củng cố khối liên minh công-nông-trí trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân
Là một nguyên tắc chiến lược của chủ nghĩa Mác-Lênin, một tấy yếu phổ
biến đối với tất cả các cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, và liên minh
công nông càng có tầm quan trọng đặc biệt đối với một nước như nước ta. Dưới
chế độ thuộc địa và nửa phong kiến, giai cấp vô sản nước ta vốn nhỏ bé, song sức
mạnh của nó sở dĩ vượt xa số lượng của nó là vì nguyên nhân có đường lối cách
mạng đúng đắn, còn có nguyên nhân giai cấp vô sản đã tranh thủ được người bạn
đồng minh tự nhiên, rất đáng tin cậy, có lực lượng hùng hậu, có tinh thần cách
mạng dồi dào, đó là nông dân. Đảng ta vừa mới ra đời đã nắm ngay quyền lãnh đạo
cách mạng, bởi vì Đảng ta sớm xây dựng được khối liên minh công nông. Uy tín
chính trị và quyền lãnh đạo cách mạng của Đảng ta sở dĩ tuyệt đối, không ai tranh
chấp nổi, bởi vì nớ bắt nguồn từ sức mạnh của quần chúng cơ bản của Đảng, quần
chúng công nông. Trong thời đại ngày nay, một phong trào giải phóng xã hội, giải
phóng dân tộc chỉ có thể thật sự mang tính chất cách mạng khi phong trào đó lấy
công nông làm lực lượng nòng cốt, khi phong trào đó diễn ra với sức mạnh của
khối liên minh công nông và dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Nếu cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng thì trong điều kiện một nước như nước ta,
phong trào. Cách mạng thật sự phải là một phong trào mà trong đó đội quân chủ
lực phải bao gồm hai lực lượng: công nhân và nông dân. Có thực hiện được liên
minh và công nông và có dựa trên lực lượng cơ bản đó, chính đảng của giai cấp
công nhân mới có khả năng mở rộng đội ngũ cách mạng tới các giai cấp và tầng
lớp khác có xu hướng dân tộc và dân chủ. Không thể có Mặt trận dân tộc thống
nhất nếu không có liên minh công nông. Nhà nước dân chủ nhân dân nước ta ra đời


từ Cách mạng tháng Tám phản ánh khối đoàn kết dân tộc rộng rãi, song trước hết
đó là chính quyền công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Chính điều
này giải thích vì sao Nhà nước dân chủ nhân dân đã có thể bắt tay làm nhiệm vụ

của chuyên chính vô sản ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ cơ bản hoàn thành ở
miền Bắc mà không cần phải trải qua một cuộc cách mạng chính trị nữa. Không
thể chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, nếu không có khối liên minh công
nông. Quân độ cách mạng, một công cụ bạo lực rất quan trọng trong cách mạng
dân tộc dân chủ ở nước ta, cũng chỉ có thể là đội quân công nông, là sản phẩm của
hai giai cấp công nhân và nông dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và tuyệt đối của
Đảng ta, đảng của giai cấp công nhân. Như vậy là có Đảng, đội tiên phong của giai
cấp công nhân, có khối liên minh công nông thì có tất cả. Trong một loạt những
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt-nam, trước hết phải nêu lên vai
trò lãnh đạo của đảng của giai cấp công nhân và vai trò của khối liên minh công
nông. Khác với nông dân nhiều nước, nông dân Việt-nam chưa hề đi theo giai cấp
tư sản dân tộc vốn nhỏ yếu về kinh tế, bạc nhược về chính trị. Đó là vì tinh thần
cách mạng của nông dân nước ta và những yêu cầu cách mạng của họ vượt xa
những giới hạn mà giai cấp tư sản có thể vươn tới. Nông dân rất cách mạng, song
không thể lãnh đạo cách mạng, bởi vì nông dân không đại biểu cho một phương
thức sản xuất riêng biệt, không có vị trí chính trị độc lập, không có hệ tư tưởng độc
lập. Trong cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta, giai cấp nông dân chỉ có thể đi
với giai cấp vô sản và chịu sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Ngay cách mạng ruộng
đất, nông dân cũng không thể tự mình làm được. Trong cách mạng dân chủ tư sản
kiển cũ, vấn đề ruộng đất chỉ có thể giải quyết theo đường lối và lợi ích của giai
cấp tư sản. Trong cách mạng dân chủ mới, cách mạng ruộng đất phải được thực
hiện dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, theo quan điểm và đường lối của giai
cấp vô sản. Chỉ trong trường hợp đó, lợi ích căn bản trước mắt và lâu dài của nông
dân mới được bảo đảm. Có đi với giai cấp công nhân thì nông dân mới trở thành


một lực lượng vĩ đại. Nếu nói rằng sức mạnh của nông dân chỉ có thể phát huy
trong sự liên minh với công nhân và dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Đảng ta là đảng của giai cấp công nhân; đường lối chính trị của đảng phản ánh lập
trường và quan điểm của giai cấp công nhân, đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết và

những quyền lợi sống còn của nông dân. Vì vậy, bốn mươi năm qua, quần chúng
nông dân một lòng một dạ đi theo đảng của giai cấp công nhân, làm cho khối liên
minh công nông ngày càng vững mạnh. Cách mạng Việt-nam chứng minh rằng
một phong trào cách mạng đi đúng đường lối của giai cấp công nhân, đường lối
của chủ nghĩa Mác-Lênin và có đạo quân chủ lực hùng mạnh là khối liên minh
công nông, dù gặp phải muôn trùng thử thách gian nguy, phong trào đó cũng nhất
định chiến thắng.
Trong tất cả các thời đại của cách mạng dân tộc dân chủ, dựa trên khối liên
minh công nông vững chắc, Đảng ta đã tập hợp được mọi tầng lớp nhân dân yêu
nước và tiến bộ, đoàn kết các dân tộc trong nước, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết
tất cả các lực lượng có thể đoàn kết được, tranh thủ được tất cả các lực lượng có
mâu thuẫn với kẻ thù chung của dân tộc, hình thành nên Mặt trận dân tộc thống
nhất rộng lớn, trung lập tất cả các lực lượng có thể trung lập được, tập trung mũi
nhọn của cách mạng vào đế quốc cùng bè lũ tay sai. Thắng lợi của cách mạng
không tách rời chính sách Mặt trận đúng đắn của Đảng ta. Kinh nghiệm cho thấy
trong việc thực hiện chính sách Mặt trận phải luôn luôn đề phòng và chống hai
khuynh hướng “hữu” và “tả”. Mặt trận là thể thống nhất mâu thuẫn bao gồm nhiều
giai cấp khác nhau, liên hiệp với nhau trên cơ sở một chương trình chiến đấu chung
nhất định. Vì vậy không thể quan niệm Mặt trận không có giai cấp. Một đường lối
có nguyên tắc đòi hỏi phải đứng trên quan điểm giai cấp để xem xét và giải quyết
mọi vấn đề thuộc chính sách Mặt trận. Có những giai cấp quyền lợi căn bản giống
nhau, cũng có những giai cấp mà quyền lợi chỉ dính liền với nhau trên một mức độ


nhất định. Mỗi giai cấp đều vì quyền lợi riêng và quyền lợi chung mà liên kết với
các giai cấp khác trong Mặt trận. Hơn nữa, bản thân lợi ích chung cũng được mỗi
giai cấp quan niệm trên lập trường riêng của mình. Đối với giai cấp vô sản, do vị
trí lịch sử của mình, cho nên lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc là hoàn toàn nhất trí,
song lại có mặt không nhất trí. Do đó, trong khi đoàn kết và để tăng cường đoàn
kết, tất yếu phải có đấu tranh giữa các quan điểm của các thành viên đại biểu cho

các giai cấp khác nhau trong Mặt trận. Đoàn kết một chiều, thiếu đấu tranh trong
thực tế dẫn đến phá vỡ đoàn kết, thủ tiêu Mặt trận. Biết tiến hành đấu tranh có
nguyên tắc, nghĩa là đấu tranh trên cơ sở chương trình chính trị chung và nhằm
mục đích thực hiện chương trình chính trị chung thì chẳng những không phá vỡ
đoàn kết, làm yếu Mặt trận, mà trái lại, chỉ có như thế mới tăng cường được đoàn
kết, củng cố được Mặt trận. Là người lãnh đạo cách mạng, có đường lối chính trị
đại biểu đầy đủ cho lợi ích chung của dân tộc, Đảng ta đương nhiên được thừa
nhận là người lãnh đạo Mặt trận. Lợi ích cách mạng và lợi ích dân tộc đòi hỏi phải
thường xuyên tăng cường và củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận,
phải giữ vững đường lối chính trị và tổ chức độc lập của Đảng, chống mọi khuynh
hướng hạ thấp vai trò của Đảng, hoà tan Đảng trong Mặt trận. Mấu chốt để giữ
vững quyền lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận và để tăng cường Mặt trận là không
ngừng củng cố khối liên minh công nông. Không có cơ sở vững chắc là khối liên
minh công nông thì không thể có Mặt trận dân tộc dân chủ chân chính, cũng không
thể mở rộng được Mặt trận. Giai cấp tiểu tư sản ở một nước vốn là thuộc địa như
nước ta rất hăng hái cách mạng. Đặc biệt là các tầng lớp trí thức, học snh, có tinh
thần yêu nước nồng nàn, thiết tha mong muốn bảo vệ truyền thống văn hoá đẹp đẽ
của dân tộc, khôi phục những giá trị tinh thần cao quý của con người Việt-nam bị
bọn đế quốc phong kiến chà đạp. Họ tỏ ra thức thời và rất nhạy cảm với thời cuộc.
Được phong trào cách mạng rầm rộ của công nông thức tỉnh và cổ vũ, họ bước vào
hàng ngũ cách mạng ngày càng đông và đóng vai trò quan trọng trong phong trào


×