Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy công nghệ 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.43 KB, 22 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TAM DƯƠNG
TRƯỜNG THCS VÂN HỘI

Mã sáng kiến: ………………

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Tên sáng kiến: PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC
QUAN TRONG GIẢNG DẠY MÔN CÔNG NGHỆ 7
Tác giả sáng kiến: Bùi Thị Duyên
Địa chỉ tác sáng kiến: Trường THCS Vân Hội
Số điện thoại: 0969009120.
Email:

Vĩnh phúc, Năm học 2016- 2017

0


Mã sáng kiến: ………………

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Tên sáng kiến: PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC
QUAN TRONG GIẢNG DẠY MÔN CÔNG NGHỆ 7
Tác giả sáng kiến: Bùi Thị Duyên

1



BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

1. Lời giới thiệu:
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cuộc cách mạng khoa học
công nghệ như một luồng gió mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực
trong cuộc sống. Hơn bao giờ hết con người đang đứng trước những diễn
biến thay đổi to lớn, phức tạp về lịch sử xã hội và khoa học - kỹ thuật.
Nhiều mối quan hệ mâu thuẫn của thời đại cần được giải quyết trong đó có
mâu thuẫn yêu cầu ngành GD - ĐT nói chung và người thầy chúng ta nói
riêng phải giải quyết ngay, đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sức ép của khối
lượng tri thức ngày càng tăng và sự tiếp nhận của con người có giới hạn, bởi
vì sự nhận thức của con người nói chung là tuyệt đối và không có giới hạn
song sự thu nhận, hiểu biết kiến thức của mỗi con người đều hữu hạn và
tương đối.
Như chúng ta thấy, con đường nhận thức ngắn nhất sẽ là con đường “Đi
từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” và phương tiện hết sức cần
thiết để đi được trên “Con đường” nhận thức này chính là các “Dụng cụ
trực quan”.
Đặc biệt trong hướng dạy học mới hiện nay, “Hướng tích cực hoá hoạt
động học tập của học sinh”, yêu cầu người giáo viên phải biết tạo điều kiện
cho học sinh tự tìm tòi, khai thác kiến thức, biết điều khiển hoạt động nhận
thức của mình bằng các “Đồ dùng trực quan”, chính vì thế mà “Đồ dùng
trực quan” trở thành một nhân tố quan trọng trong hoạt động dạy học, vì nó
vừa là phương tiện giúp học sinh khai thác kiến thức, vừa là nguồn tri thức
đa dạng, phong phú mà học sinh rất dễ nắm bắt.
Qua giảng dạy môn Công nghệ ở trường THCS đặc biệt là từ khi thực
hiện thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học tôi nhận thấy đây
là một vấn đề bổ ích về lí luận cũng như thực tiễn. Nó có ý nghĩa rất lớn đối

với việc nâng cao chất lượng bộ môn bởi vì đối tượng là học sinh THCS thì
2


về mặt thể chất cũng như tinh thần, sự nhận thức, năng lực tư duy …của các
em đã phát triển ở mức độ cao hơn các em ở bậc tiểu học và các em ở lớp
trên thì cao hơn các em ở lớp dưới. Nếu được khơi dậy đúng mức tính tích
cực, sự chủ động trong học tập cũng như các hoạt động khác không những
làm cho các em thu nhận được một lượng tri thức tốt nhất cho bản thân mà
cùng là cơ sở vững chắc để các em bước vào bậc THPT – nơi mà các em sẽ
phải có năng lực tư duy và ý thức tự học cao hơn.
Vì vậy, việc cho các em quan sát “đồ dùng trực quan” rồi từ đó các em
rút ra những nhận xét, tiếp thu tri thức, bồi dưỡng, rèn luyện về học tập là
con đường phát triển tối ưu của giáo dục - đó chính là con đường lấy học
sinh làm trung tâm, làm chủ thể của việc nhận thức với sự hướng dẫn, giáo
dục tích cực có hiệu quả của giáo viên, điều này được thực hiện trên cơ sở
hoạt động tích cực, tự giác của học sinh. Đây là tính ưu việt của phương
pháp phát huy tính tích cực của học sinh được gọi là phương pháp dạy học
mới để phân biệt với phương pháp dạy học cũ hay còn gọi là kiểu dạy học
truyền thống.
Xuất phát từ tình hình thực tế đất nước, đặc biệt là trước công cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển như vũ bão, việc chỉnh lý
chương trình giáo dục và thay đổi nội dung sách giáo khoa là một vấn đề
rất cấp thiết và vô cùng quan trọng. Chính vì lẽ đó mà “Giáo dục là quốc
sách hàng đầu”.
Nhằm để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và chương trình giáo dục đổi
mới hiện nay, người giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học cho
phù hợp với hướng dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm”. Một trong những
phương pháp đặc trưng bộ môn Công nghệ là phương pháp “Sử dụng dụng
cụ trực quan” trong giảng dạy.

Từ thực tế cho thấy chuẩn bị “Đồ dùng trực quan”, “ Làm dụng cụ trực
quan” là công tác rất khó khăn, rất công phu và rất tốn kém. Nhưng sử dụng
“Đồ dùng trực quan” như thế nào để đảm bảo tính trực quan, để đạt hiệu quả
3


cao trong giảng dạy Công nghệ lại là một vấn đề càng khó khăn hơn. Đó
cũng chính là vấn đề của mỗi người giáo viên Công nghệ đã và đang quan
tâm hiện nay, với hy vọng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn
Công nghệ. Vì vậy mà trong bài viết này tôi xin trình bày: “Phương pháp
sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Công nghệ 7 ” sẽ giúp cho
việc dạy học theo phương pháp mới và việc thực hiện chương trình giáo dục
mới sẽ đạt hiệu quả cao hơn như mong muốn.
2. Tên sáng kiến:
“Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Công
nghệ 7”
3. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Bùi Thị Duyên
4. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên dạy môn công nghệ 7 - THCS Vân Hội – huyện Tam Dương
– tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
- Từ tháng 9 năm 2015 đến nay.
6. Mô tả bản chất của sáng kiến:
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh. Các em phải được rèn
luyện ở mức độ cao hơn, khả năng tự học, tự nhận thức và hành động vì thế
ngày càng được coi trọng.
Muốn đạt được điều đó GV cần áp dụng nhiều phương pháp dạy - học
trong đó có phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan. Cần phải tiếp thu
những điểm cơ bản có tính nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải
luôn luôn đổi mới, làm một cuộc cách mạng trong người dạy và người học

để khắc phục sự bảo thủ, thụ động như: Giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những
điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng ghi lời giảng của giáo viên và
kiến thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra.

4


Trong vài năm gần đây, bộ môn Công nghệ trong trường THCS đó
được chú trọng hơn trước. Đã được cung cấp thêm các trang thiết bị và tài
liệu tham khảo phục vụ cho việc dạy và học.
Tuy nhiên qua vài năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy
học môn Công nghệ hiện nay vẫn còn giặp rất nhiều khó khăn, nhưng trở
ngại nhất là việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc quan sát, sử
dụng đồ dùng trực quan. Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở
những nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất là vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng môn Công
nghệ là những môn phụ.
Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được
đầu tư nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay. Tình trạng dạy
chay vẫn còn khá phổ biến. Trong suốt quá trình học bộ môn Công nghệ
lớp7 và cả thầy và trò chưa bao giờ có điều kiện tham quan mô hình trồng
cây ăn quả điển hình, hoặc vườn cây nhân giống vì không có kinh phí. Điều
đó làm cho vốn kiến thức kiến thức của các em chỉ bó gọn trong sách vở và
bài giảng.
Nguyên nhân thứ ba là việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh
trong học tập bộ môn Công nghệ còn nhiều hạn chế một phần là do chính
những cơ chế, những quy định từ cấp trên. Môn Công nghệ chưa bao giờ
được chọn là môn dự thi các cấp.
Ngoài ra cách tổ chức một số cuộc thi cử cũng còn nhiều hạn chế, chỉ
chú trọng về mặt kiểm tra lí thuyết mà coi nhẹ thực hành, ít chú ý đến việc

phát triển năng lực sáng tạo của học sinh.
Cuối cùng điều quan trọng là ý thức trách nhiệm của mỗi giáo viên
trong việc thực hiện các phương pháp dạy học phù hợp, trong đó phải nói
đến phương pháp “sử dụng đồ dùng trực quan” để đem lại hiệu quả cho tiết
dạy cũng như chất lượng bộ môn ngày một nâng cao. Mỗi một giáo viên –
5


học sinh phải hiểu ra sự nguy hại của việc thi gì học nấy sẽ làm cho học vấn
của học sinh bị què quặt, thiếu toàn diện.....
6.1. Tình hình sử dụng các dụng cụ trực quan đối với việc dạy học
trước đây:
- Trước đây, đa số các trường đều thiếu thốn về cơ sở vật chất, nghèo
nàn về các thiết bị dạy học đối với bộ môn.
- Theo quan niệm giáo dục lạc hậu trước đây cho rằng dụng cụ trực
quan là phương tiện cần thiết để giáo viên truyền thụ kiến thức mới, dụng cụ
minh họa cho các kiến thức khó truyền đạt, còn đối với học sinh chỉ có tác
dụng chấp nhận và ghi nhớ.
- Theo phương pháp sử dụng này thì dụng cụ trực quan chưa phát huy
hết vai trò của mình, đôi khi chưa thể hiện được tính trực quan và tính khoa
học của nó, giờ dạy Công nghệ sẽ rơi vào những hạn chế sau:
+ Giáo viên chưa phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh
trong việc lĩnh hội kiến thức.
+ Các kiến thức trồng trọt do giáo viên cung cấp học sinh sẽ không
hiểu sâu, nhớ kỹ bằng chính các em tự nhận thức.
+ Các nguồn trí thức từ dụng cụ trực quan chưa thực sự hấp dẫn đối với
các em. Do đó không gây hứng thú học tập, không có khả năng phát triển tư
duy.
+ Chưa tạo cho học sinh các kỹ năng quan trọng như: biết chăm sóc
cây trồng, nhân giống cây ăn quả, bón phân thúc, làm xiro…

6.2. Những biện pháp để thực hiện:
Để giúp học sinh khắc sâu được kiến thức, đồng thời tạo hứng thú trong
học tập, giúp các em chủ động tìm tòi kiến thức mới. Là một giáo viên ngoài
đổi mới phương pháp dạy học còn phải biết kết hợp linh hoạt, sáng tạo các
“đồ dùng trực quan”. Ngoài những đồ dùng sẵn có trong nhà trường phải
6


thường xuyên sưu tầm, mày mò tự làm. Những đồ dùng trực quan cần thiết
và không thể thiếu trong từng tiết học đó là:
- Hình vẽ, tranh, ảnh.
- Mô hình.
- Sơ đồ
- Mẫu vật
- Máy tính ( công nghệ thông tin )
Đối với mỗi loại phương tiện thì người giáo viên Công nghệ cần có
phương pháp sử dụng sao cho phù hợp.
* Đối với hình vẽ, tranh, ảnh:
Học sinh lớp 7 cũng như các khối lớp khác các em rất thích xem các
hình vẽ, tranh, ảnh. Vì vậy giáo viên phải làm nổi bật nội dung các hình vẽ,
tranh ảnh để gây hứng thú cho học sinh, kích thích trí tò mò, phát triển năng
lực nhận thức. Từ đó làm cho các em tự khám phá được kiến thức của bài
học.Tuy nhiên phải chọn thời gian phù hợp để đưa các hình vẽ, tranh ảnh ấy.
Giáo viên phải lựa chọn được những hình vẽ, tranh ảnh phù hợp nhất, đặc
trưng nhất cho nội dung định trình bày, sao cho khi học sinh quan sát có thể
trình bày được ý mà giáo viên muốn truyền đạt. Khi đưa ra những hình vẽ,
tranh ảnh này giáo viên phải phân tích, định hướng trước cho học sinh cách
để tự mình nhận ra kiến thức thông qua tranh ảnh đó.
Sau đây tôi xin đưa ra những ví dụ cụ thể để thấy được tác dụng của
việc sử tranh ảnh, hình vẽ - dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy.

Ví dụ1:
Bài 1: Vai trò, nhiệm vụ của trồng trọt.
Bài 22: Vai trò của rừng và nhiệm vụ của trồng rừng.
Bài 30: Vai trò, nhiệm vụ của phát triển chăn nuôi.
Bài 49: Vai trò, nhiệm vụ của nuôi thủy sản.
7


Bốn bài học ở trên đều nói về “vai trò” vì thế khi giáo viên dạy mục I
“Vai trò của trồng trọt, vai trò của rừng, vai trò của chăn nuôi, vai trò của
nuôi thủy sản”. Nên đưa ra bốn hình vẽ tương ứng với bốn vai trò của từng
ngành để học sinh quan sát. Từ tranh ảnh, hình vẽ ấy học sinh sẽ tư duy,
nhận thức được vai trò cụ thể của từng ngành. Cuối cùng giáo viên khái
quát, chốt lại phần kiến thức trọng tâm nhất.
Ví dụ 2:
Bài 6: Các biện pháp sử dụng và cải tạo đất.
Bài 9: Cách sử dụng và bảo quản các loại phân bón thông thường.
Bài 19: Các biện pháp chăm sóc cây trồng.
Bài 20: Thu hoạch, bảo quản và chế biến nông sản.
Với nội dung của các bài học trên việc giáo viên đưa ra hình vẽ,
tranh ảnh là vô cùng quan trọng. Nhìn vào các tranh ảnh, hình vẽ “ Các biện
pháp cải tạo và bảo vệ đất” học sinh có thể kể tên chính xác từng biện pháp
và hiểu được thế nào là “ làm ruộng bậc thang”, thế nào là trồng xen cây
nông nghiệp với cây phân xanh”. Tương tự như vậy với nội dung các bài “
Cách sử dụng các loại phân bón”: tương ứng với bốn bức tranh với hình
ảnh: bón theo hàng, bón theo hốc, bón vãi, phun trên lá. Bài “Các biện
pháp chăm sóc cây trồng”: tương ứng với tranh: tỉa, dặm, làm cỏ, vun xới,
tưới tiêu nước, bón phân thúc. Bài “Thu hoạch bảo quản và chế biến nông
sản”: tương ứng hình ảnh : cắt, nhổ, đào, hái…. Giáo viên hướng dẫn học
sinh cách để tìm ra ý nghĩa, mục đích của từng tranh ảnh bằng quan sát, thảo

luận nhóm. Với những hình ảnh thực tế, sinh động đó học sinh sẽ học tập
đầy hứng thú, chủ động, tích cực, tự giác từ đó giúp học sinh khắc sâu nhớ
lâu kiến thức.
Để thấy được vai trò quan trọng của tranh ảnh, hình vẽ trong dạy học
tôi xin đưa ra thêm một vài ví dụ minh họa nữa: Khi giảng bài “Giống vật
nuôi” dạy đến mục I. “Khái niệm về giống vật nuôi” giáo viên cho học sinh
8


quan sát tranh ảnh các giống vật nuôi có ở địa phương (Giáo viên sưu tầm)
và các hình vẽ SGK phóng to sẽ kích thích sự tư duy, tìm tòi của học sinh từ
đó giúp học sinh tìm ra khái niệm giống vật nuôi là gì?
Với những tranh ảnh không có trong sách giáo khoa để giúp học sinh
nhận biết được kiến thức và vận dụng chúng trong đời sống thì giáo viên
phải là người tìm tòi, sáng tạo, tích cực trong việc thu thập, sưu tầm thêm
nhiều các loại tranh ảnh phục vụ cho bài dạy như:
- Sưu tầm thêm một số tranh ảnh về các giống trâu, bò, lợn, gà, vịt,
cá…. đang được nuôi phổ biến ở nước ta.
- Sưu tầm tranh ảnh, hình vẽ tên các loại nhãn hiệu thuốc trừ sâu,
phân bón đang được tin dùng, tốt cho môi trường, đang lưu thông trên thị
trường để giúp các em có thể áp dụng ngay trong trồng trọt ở gia đình và địa
phương.
- Sưu tầm một số nhãn hiệu thức ăn tổng hợp cho vật nuôi cùng với
các loại vacxin thông thường. Với những hình ảnh thực tế này không những
giúp các em nhớ lâu, khắc sâu kiến thúc mà còn giúp các em vận dụng được
ngay trong đời sống thực tế tại gia đình và địa phương.
Tranh ảnh trong SGK là một phần đồ dùng trực quan trong quá trình
dạy học. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu
tượng. Thông qua quan sát miêu tả tranh ảnh, học sinh được rèn luyện kỹ
năng diễn đạt, lựa chọn ngôn ngữ. Từ việc quan sát thường xuyên các tranh

ảnh, giáo viên luyện cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát
vật thể một cách khoa học, có xem xét, phân tích, giải thích, đánh giá để đi
đến những nét khái quát và rút ra những kết luận chủ động. Như vậy việc sử
dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung kiến thức bổ sung cho bài
giảng, vừa phát huy được năng lực tư duy cho học sinh, kích thích trí tưởng
tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho các em.
Để mang lại hiệu quả cao khi sử dụng tranh ảnh, hình vẽ yêu cầu với
giáo viên, học sinh như sau:
9


- Giáo viên:
+ Hiểu rõ nội dung của từng bức tranh, ảnh.
+ Sưu tầm thêm nhiều tranh ảnh liên quan đến từng bài học.
+ Định hướng cho học sinh biết cách khai thác nội dung của từng tranh ảnh,
hình vẽ.
+ Sau mỗi bức tranh ảnh đưa ra sau khi học sinh quan sát, tìm tòi kiến thức,
cuối cùng giáo viên phải chốt lại những kiến thức trọng tâm liên quan đến
tranh ảnh đó.
- Với học sinh
+ Đọc tên tranh ảnh, xác định xem bức tranh đó thể hiện gì?
+ Tường thuật lại nội dung bức tranh.
+ Rút ra được ý nghĩa và nội dung kiến thức thông qua tranh ảnh.
Ngoài tranh ảnh trong KGK giáo viên nên hướng dẫn học sinh phải
sưu tầm thêm những tranh ảnh, thường xuyên cập nhật những tin tức mới để
phục vụ cho bài học: vị dụ như báo nông nghiệp, báo khuyến nông, chương
trình nông thôn mới, chương trình bạn của nhà nông….
* Mô hình:
Mô hình là hình ảnh thu nhỏ tượng trưng cho vật thật. Môn công
nghệ 7 cũng được trang bị một số mô hình có sẵn như mô hình con lợn, mô

hình con gà. Để tăng hiệu quả của việc sử dụng mô hình trước tiên giáo viên
phải giới thiệu mô hình đang sử dụng, mô hình là vật tượng trưng cho phần
kiến thức nào? Sau đó dùng các câu hỏi dẫn dắt học sinh đến mục đích mà
giáo viên định truyền tải. Bằng việc trả lời được những câu hỏi giáo viên
nêu ra là học sinh đã tìm ra các kiến thức liên quan.
Ví dụ : Trong nội dung bài : “ Nhận biết một số giống lợn qua quan
sát và đo kích thước các chiều”.Với nội dung bài học này thì giáo viên
không thể đem vật mẫu thật lên lớp được mà chỉ có thể dùng mô hình lợn.
Từ con lợn bằng mô hình thì giáo viên giảng cho học sinh biết các bộ phận
10


trên con vật, chỉ cách đo kích thước các chiều, qua đó học sinh biết cách
tính trọng lượng thật của lợn…Cũng trong nội dung bài này với mô hình
con gà, giáo viên đưa ra mô hình con gà sau đó giới thiệu cho các em biết
thế nào thể hình dài? Thể hình dài đặc trưng cho loại hình sản xuất gi?
Tương tự với thể hình ngắn? Hay hướng dẫn học sinh cách đo các chiều con
gà để biết được gà nào đẻ trứng to và ngược lại. Nếu dùng các mô hình này
thì học sinh được thực hành trên mô hình, các em sẽ nắm chắc kiến thức
hơn, nhớ lâu hơn, thích thú trong việc học tập trên lớp hơn…Từ các mô
hình đó giáo viên giúp học sinh hiểu và nắm chắc các kiến thức bài học.
Ngoài mô hình có sẵn trong sách giáo khoa để tăng thêm hứng thú cũng
như ghi nhớ kiến thức thì giáo viên nên siêu tầm thêm nhiều mô hình khác
trong nội dung các bài học khác như: Mô hình con châu chấu trong bài “
Sâu bệnh hại cây trồng”; mô hình con cá, tôm trong bài “ Chăm sóc, quản lí
và phòng trị bệnh cho động vật thủy sản”.
Để sử dụng mô hình có hiệu quả giáo viên nên:
- Tên của mô hình.
- Mô hình đó dùng để làm gì.
- Mô hình phải đảm bảo tính thẩm mỹ.

- Có đủ số lượng mô hình cho quá trình hoạt động nhóm.
- Sau khi sử dụng mô hình phải rút ra được phần kiến thức có kiên
quan.
* Sơ đồ
Trong giảng dạy các môn học nói chung và môn Công nghệ nói riêng,
việc sử dụng sơ đồ cũng được coi là một “đồ dùng trực quan”. Với loại đồ
dùng này đòi hỏi giáo viên cũng phải tư duy, nghiên cứu kĩ nên đưa ra sơ đồ
sao cho phù hợp, vừa giúp các em khái quát được kiến thức, lại chủ động
trong quá trình học. Để phát huy được tính chủ động, khả năng tư duy, tính
tự giác của học sinh thì giáo viên nên sử dụng những sơ đồ câm. Sau đó cho
11


học sinh tự nghiên cứu, hoặc học sinh ghi nhớ từ SGK sau đó điền lên sơ
đồ. Như vậy các em sẽ tích cực trong học tập sẽ phần nào giảm đi tính chây
lười, ỷ lại ở một số học sinh yếu kém.
Ví dụ 1: Trong bài 2 : “Khái niệm về đất trồng và thành phần của đất
trồng”. Sau khi giáo viên hỏi các thành phần của đất rồi đưa ra sơ đồ câm về
thành phần của đất, chắc chắn học sinh sẽ hoàn thành được ngay sơ đồ.
Ví dụ 2: Bài 11: “Sản xuất và bảo quản giống cây trồng” giáo viên đưa
ra sơ đồ câm về quy trình sản xuất giống cây trồng bằng hạt thông qua việc
nghiên cứu SGK sau đó lên bảng hoàn thành sơ đồ.
Ví dụ 3: Bài 52: “Thức ăn của động vật thủy sản” sơ đồ 16 mối quan
hệ về thức ăn, đây là một mối quan hệ phức tạp nếu chỉ giải thích thì học
sinh rất khó hiểu song giáo viên treo sơ đồ, yêu cầu học sinh thảo luận
nhóm sau đó lên điền vào bảng . Như vậy sẽ giúp học sinh nhớ nhanh và
hiểu rõ vấn đề hơn. Vậy tùy nội dung từng bài học mà giáo viên nên đưa sơ
đồ sao cho phù hợp để tăng hiệu quả của tiết học đồng thời kích thích khả
năng ghi nhớ ngay tại lớp phần kiến thức trọng tâm.
Để tăng hiệu quả sử dụng sơ đồ giáo viên nên:

- Chuẩn bị sơ đồ phóng to, chữ viết rõ ràng.
- Lựa chọn những nội dung phù hợp cho từng loại sơ đồ.
- Động viên kịp thời những học sinh hoàn thành tốt phần nội dung mà
giáo viên yêu cầu.
* Mẫu vật
Kiến thức của môn công nghệ 7 gắn liền với kiến thức thực tế đời
sống. Vì vậy ngoài việc sử dụng tranh ảnh, hình vẽ, mô hình thì mẫu vật thật
cũng là một “đồ dung trực quan” không thể thiếu trong việc giúp học sinh
lĩnh hội, ghi nhớ kiến thức một cách nhanh nhất, chính xác nhất.
Ví dụ 1: Bài 8: “Nhận biết một số loại phân hóa học thông thường”.
Giáo viên cần chuẩn bị ít nhất các mẫu vật sau: Phân đạm, phân lân, phân
12


kali, phân NPK, vôi. Từ những mẫu vật trên giáo viên hướng dẫn các em
cách phân biệt được các loại phân bón bằng các cách thông thường như:
quan sát bằng mắt thường, hòa vào nước, đốt trên ngọn lửa. Sau khi được
tận mắt quan sát, tay được làm thí nghiệm học sinh không những hào hứng,
nhiệt tình, say mê mà kết quả thu được đúng như mong đợi của giáo viên.
Ví dụ 2: Bài 12: “ Sâu bệnh hại cây trồng”. Hình ảnh con bướm, con
châu chấu, cáo cào, con sâu không hề xa lạ với các em nhưng nếu được đưa
ra cho các em quan sát trên lớp học thì sẽ rất thú vị. Học sinh sôi nổi thảo
luận, hào hứng trong từng con vật mà cô giáo cho quan sát. Từ đó học sinh
có thể trả lời được ngay câu hỏi: Kể tên một số loại sâu hại cây trồng ; Thế
nào là côn trùng…
Ví dụ 3: Bài 17, 18: “ Thực hành : Xử lí hạt giống bằng nước ấm. Xác
định sức nảy mầm của hạt”. Để làm được bài thực hành này ngoài những
dụng cụ sẵn có tại phòng thí nghiệm thì giáo viên cần phải chuẩn bị mẫu vật
là hạt giống nông nghiệp cho học sinh thực hành. Sau khi đã có đầy đủ mọi
dụng cụ và vật liệu cần thiết với sự hướng dẫn của giáo viên học sinh có thế

biết cách xử lí hạt giống bằng nước ấm và hiểu được tại sao lại phải xử lí hạt
giống trước khi gieo trồng.
Ví dụ 4: Bài 51: “ Thực hành: “ Xác định nhiệt độ, độ trong và pH
của nước nuôi thủy sản”. Để học sinh có thế áp dụng ngay tại gia đình và
địa phương thì trước tiên các em phải được giáo viên hướng dẫn tại lớp các
xác định nhiệt độ, độ trong, pH của nước. Muốn làm được điều đó phải có
mẫu vật là “ nước” cùng với những dụng cụ cần thiết khác. Sau khi giáo
viên làm mẫu đồng thời hướng dẫn bằng lời, qua quan sát học sinh có thể
chắt chước, làm theo và lĩnh hội, ghi nhớ kiến thức.
Mẫu vật là một dụng cụ trực quan vô cùng sinh động. Nhưng để khai
thác hết mặt tích cực của nó không hề đơn giản đòi hỏi người giáo viên phải
hiểu thật sâu sắc về những mẫu vật mình đưa ra. Phải hướng dẫn học sinh
cách khai thác mẫu vật đó, tìm ra những kiến thức của bài học liên quan đến
13


mẫu vật. Có như thế các em sẽ khắc sâu kiến thức bài học đồng thời có thể
vận dụng được ngay vào đời sống. Để làm được như vậy giáo viên cần
chuẩn bị :
- Mẫu vật phải thật sự đặc trưng cho từng bài học.
- Mẫu vật sinh động, đảm bảo tính khoa học, chính xác.
- Có đủ mẫu vật cho hoạt động nhóm.
* Máy tính (công nghệ thông tin - CNTT)
Ngày nay CNTT đang được ứng dụng hết sức rộng rãi và hiệu quả
vào các lĩnh vực hoạt động của con người, tạo nên những thay đổi to lớn
trong xã hội, trong đó có nhà trường. Để đi đến việc ứng dụng CNTT vào
dạy học trước tiên cần tìm hiểu sơ bộ về CNTT.
“ Công nghệ” được hiểu tổng quát là sự áp dụng của khoa học vào

các hoạt động thực tiễn của con người trong đời sống xã hội.

Do sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông mà mọi
người đều có trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học nói
chung và phần mềm dạy học nói riêng. Nhờ có sử dụng các phần mềm dạy
học này mà học sinh trung bình, thậm chí học sinh trung bình yếu cũng có
thể hoạt động tốt trong môi trường học tập. Nhờ có máy tính điện tử mà việc
thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh động hơn, tiết kiệm
được nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo phương pháp truyền thống,
chỉ cần “bấm chuột”, vài giây sau trên màn hình hiện ra ngay nội dung của
bài giảng với những hình ảnh, âm thanh sống động thu hút được sự chú ý và
tạo hứng thú nơi học sinh. Thông qua giáo án điện tử, giáo viên cũng có
nhiều thời gian đặt các câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động
nhiều hơn trong giờ học. Những khả năng mới mẻ và ưu việt này của công
nghệ thông tin và truyền thông đã nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách
làm việc, cách học tập, cách tư duy và quan trọng hơn cả là cách ra quyết
định của con người.
14


Với môn công nghệ 7 thì tất cả các bài học đều có thể sử dụng CNTT
trong dạy học, sau đây tôi xin đưa ra một vài ví dụ điển hình.
Ví dụ 1: Bài 12: “ Sâu, bệnh hại cây trồng”. bằng các hình ảnh đã
chuẩn bị như các loại sâu, bệnh, vòng đời của một số loại sâu hại điển hình
(hình ảnh thật – video) cho học sinh quan sát. Qua những hình ảnh thực tế
đó cùng với những hiệu ứng mà giáo viên tạo ra khi xuất hiện những hình
ảnh ấy chắc chắn sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh. Từ sự thích thú đó
học sinh nhanh chóng tìm ra kiến thức bài học.
Ví dụ 2: Bài 29: “ Bảo vệ và khoanh nuôi rừng”. Giáo viên đưa ra
hình ảnh thực tế về sự tàn phá rừng của con người, hậu quả của việc tàn phá
đó bằng những hình ảnh: hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm không khí, đất bị xói mòn,
rửa trôi…Không chỉ những học vốn chăm chú nghe giảng trong lớp mà cả

những học sinh lười, học sinh yếu kém cũng sẽ hào hứng phát biểu theo
những câu hỏi mà giáo viên đưa ra. Sau bài học này ngoài kiến thức thu thập
được các em sẽ nâng cao hơn nữa trách nhiệm chung tay bảo vệ rừng. Đồng
thời còn biết tuyên truyền cho mọi người phải tích cực trồng rừng, phủ xanh
đất trống, đồi núi trọc.
Ví dụ 3: Bài 31: “ Giống vật nuôi”. Để hình thành được khái niệm thế
nào là giống vật nuôi, giáo viên cho các em quan sát hình ảnh từng giống
vật nuôi điển hình ở địa phương ( hình ảnh thật- giáo viên tự quay). Từ đó
các em tự hình thành nên khái niệm.
Để ứng dụng CNTT trong giảng dạy đạt hiệu quả cao đòi hỏi mỗi
người giáo viên không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học của mình,
tự học tự tìm tòi soạn bài giảng điện tử. Bản thân tôi chỉ được học khóa học
ngắn hạn tin học văn học văn phòng nhưng vì tôi thường xuyên tham gia
hội giảng ở trường nên khả năng soạn bài giảng điện tử của tôi được nâng
lên rõ rệt. Hơn thế nữa mỗi người giáo viên cần thường xuyên truy cập chia
sẻ các thông tin giáo dục trên Internet. Đó chính là kho tư liệu rất hữu ích
đối với giáo viên.
15


Như các bạn đã biết mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học là nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho
học sinh, tạo ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao, học sinh
được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp
hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình. Vì vây mỗi giáo
viên cần mạnh dạn, không ngại khó, tự thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử
của mình sẽ giúp cho giáo viên rèn luyện được nhiều kỹ năng và phối hợp
tốt các phương pháp dạy học tích cực khác.
Khi thiết kế bài giảng điện tử cần giáo viên cần chú ý:
- Chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu (Video, hình ảnh, bảng đồ, ….),

chọn giải pháp cho sử dụng công nghệ, sau đó mới bắt tay vào soạn giảng.
Nếu sử dụng MS PowerPiont làm công cụ chính cần lưu ý về Font chữ, màu
chữ và hiệu ứng thích hợp ( hiệu ứng đơn giản, nhẹ nhàng tránh gây mất tập
trung vào nội dung bài giảng).
- Nội dung bài giảng điện tử cần cô đọng, súc tích, các mô phỏng
cần sát chủ đề.
- Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến
quá trình dạy học và sự phát triển của học sinh.
- Nhà trường có đủ máy chiếu cho các lớp học.
Như vậy “phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy
học Công nghệ” ở trường THCS là một việc làm rất quan trọng, rất phong
phú và có ý nghĩa lớn cần được mỗi thầy giáo, cô giáo quán triệt một cách
sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình, trong hoạt
động nội khoá cũng như hoạt động ngoại khoá. Tuy nhiên để làm tốt việc
này cần có sự chuyển biến mạnh mẽ mang tính cách mạng trong phương
pháp dạy – học Công nghệ và phải có thời gian kiểm nghiệm sự đúng đắn
của nó so với kiểu dạy truyền thống. Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các
phương pháp dạy học này vào từng bài phải có sự nhận xét, đánh giá, rút
kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp để khẳng định những
biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn. Cần trách
16


khuynh hướng “tách lí thuyết với thực tế”...đáp ứng được những yêu cầu
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp hoá hiện đại hoá .
6.3. Các nguyên tắc cơ bản khi sử dụng cụ trực quan
Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của
nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ cho được hai hệ thống tín hiệu với
nhau: tai nghe, mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, phát
triển năng lực chú ý quan sát, hứng thú của học sinh. Tuy nhiên nếu không

sử dụng tốt, đúng mức và bị lạm dụng thì dễ làm học sinh phân tán sự chỳ ý,
không tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu. Đồ dùng trực quan có
nhiều loại. Mỗi loại lại có cách sử dụng riêng, nhưng phải chú ý các nguyên
tắc cơ bản sau:
- Phải căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ, nội dung và hình thức của các
loại bài học để lựa chọn dụng cụ trực quan cho thích hợp, không nên dùng
quá nhiều dụng cụ trực quan cho một tiết dạy.
- Phải có phương phương pháp thích hợp đối với mỗi loại dụng cụ trực
quan.
- Trước khi sử dụng cần phải giải thích: Dụng cụ trực quan này nhằm
mục đích gì? Giải quyết vấn đề gì? Nội dung gì? trong bài học.
- Đảm bảo tính trực quan, rõ ràng, thẩm mỹ, cần chỳ ý tới quy luật
nhận thức, giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Không nên sử dụng dụng cụ trực
quan quá cũ nát, các hình vẽ cẩu thả...
- Biết vận dụng, sử dụng dụng cụ trực quan với các phương pháp dạy
học khác: như nêu vấn đề, mô tả, diễn giải...cho nhuần nhuyễn, đạt hiệu quả
cao.
7. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có)
Không

17


8. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
*Cơ sở vật chất:
- Sách giáo khoa, SGV, sách tham khảo.
- Tranh ảnh, hình vẽ phù hợp cho nội dung từng bài
- Mô hình
- Một số sơ đồ câm giáo viên tự chuẩn bị
- Mẫu vật thật : hạt nông nghiệp, phân hóa học....

- Máy tính, tài liệu trên Internet.
* Giáo viên : Các giáo viên dạy công nghệ
* Học sinh: Học sinh khối 7
9. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã
tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo
các nội dung sau:
9.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Qua việc áp dụng “phương pháp sử dụng dụng cụ trực quan ở
chương trình Công nghệ lớp 7” mới tôi nhận thấy kết quả khả quan như
sau. Phần lớn các em đều hứng thú, tích cực, chủ động trong quá trình học
tập. Đa số các em đều nắm vững những khái niệm, giải thích được một số
kiến thức liên quan đến thực tế và quan trọng hơn là các em đã biết vận
dụng được một số kiến thức trong bài học vào thực tế sản xuất tại gia đình
và địa phương.
Trong quá trình áp dụng sáng kiến tôi đã thực hiện cuộc khảo sát với
42 học sinh ( lớp 7A) đại trà và thu được kết quả cụ thể:

18


* Kết quả khảo sát khi chưa áp dụng sáng kiến.
Sĩ số
42

Điểm giỏi

Điểm khá


SL

%

SL

3

7

16

%
38

Trung bình

Yếu - kém

SL

%

SL

%

18

43


5

12

* Kết quả khảo sát sau khi áp dụng sáng kiến.
Sĩ số
42

Điểm giỏi

Điểm khá

SL

%

SL

12

29

19

%
45

Trung bình


Yếu - kém

SL

%

SL

%

10

24

1

2

9.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Với chuyên đề “ Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong
giảng dạy công nghệ” tôi đã nêu ra được các loại đồ dùng trực quan có thế
sử dụng trong giảng dạy. Và cách sử dụng từng loại đồ dùng trực quan thông
qua các ví dụ minh họa. Sáng kiến kinh nghiêm này khi triển khai ở tổ bộ
môn cấp trường được các giáo viên đón nhận hưởng ứng nhiệt tình, đánh giá
cao.
Sau khi dự buổi tập huấn triển khai sáng kiến các giáo viên trong tổ
bộ môn đều nhận thấy đây là một sáng kiến có ích trong việc nâng cao trình
độ chuyên môn cho giáo viên và thuận lợi trong công tác giảng dạy cũng
như việc học tập của học sinh.

Khi áp dụng sáng kiến này trong giảng dạy được các em học sinh tiếp
thu một cách hào hứng, tích cực, sôi nổi.Các em hiểu bài, nhớ được ngay
kiến thức bài học trên lớpvà đặc biệt còn có thể vận dụng ngay vào đời
sống.
Qua sáng kiến này, kiến thức, kỹ năng của học sinh được củng cố một
cách vững chắc, sâu sắc; kết quả học tập của học sinh luôn được nâng cao.
Từ chỗ rất lúng túng khi giải thích, phân tích, một hiện tượng hoặc làm
thực hành thì nay phần lớn các em đã tự tin hơn, biết vận dụng những kỹ
19


năng được bồi dưỡng để giải thích, chứng minh và làm các bài thực hành
một cách thành thạo.
Tuy chưa thật đầy đủ và sâu sắc về nội dung từng bài song cũng giúp
người đọc phần nào hiểu được về tác dụng rất lớn của việc “sử dụng đồ
dùng trực quan trong giảng dạy”.
Với kinh nghiệm cá nhân chưa nhiều, tôi rất mong nhận được sự quan
tâm , giúp đỡ, xây dựng của các đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để sáng
kiến thêm hoàn thiện, có hiệu quả, nâng cao chất lượng bộ môn Công nghệ
và góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới PPDH và thực hiện đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý và dạy học; Hưởng ứng
phong trào “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.

20


10. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử
hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu.

Tên tổ chức/cá

STT
nhân

1

Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến

Trường THCS Vân
Áp dụng giảng dạy
Bùi Thị Duyên Hội – Tam dương –
môn công nghệ 7.
Vĩnh Phúc.

Vân Hội, ngày 24 tháng 2 năm 2017

Vân Hội, ngày 23 tháng 2 năm 2017

Thủ trưởng đơn vị

Tác giả sáng kiến

Đào Thị Hồng Nhung

Bùi Thị Duyên

21




×