Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM NHẬP KHẨU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA THUẾ NHẬP KHẨU ĐẾN MẶT HÀNG NÀY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.25 KB, 22 trang )

MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM NHẬP KHẨU VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA THUẾ NHẬP KHẨU ĐẾN MẶT HÀNG NÀY
2.1 ĐẶC ĐIỂM MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM
2.1.1 Khái niệm
Dược phẩm là thuốc và các hoạt động liên quan đến thuốc. Thuốc là chất
hoá học là thay đổi chức năng của một hay nhiều cơ quan trong cơ thể và làm
thay đổi tiến trình của một bệnh. Dược phẩm được phân chia thành nhiều loại
theo nhiều phương thức khác nhau, trong đó theo cách phân chia để tính thuế
của cơ quan hải quan thì dược phẩm được chia thành hai dạng chính là thuốc và
thực phẩm thuốc.
2.1.2. Dược phẩm là hàng hóa đặc biệt, khó bảo quản
Dược phẩm là một loại hàng hóa đặc biệt, có ảnh hưởng trực tiếp tới sức
khỏe của người tiêu dùng. Các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm không chỉ
đáp ứng mục tiêu lợi nhuận mà phải đáp ứng cả mục tiêu y tế và xã hội. Do đặc
thù của sản phẩm dược là các sản phẩm khó bảo quản, bắt buộc phải có những
biện pháp kiểm nghiệm chất lượng ngay cả trong và sau quá trình sản xuất. Các
doanh nghiệp nhập khẩu dược phẩm hiện nay đều phải bắt buộc có xưởng đạt
tiêu chuẩn gồm các điều kiện bảo quản thuốc tốt.
Bên cạnh đó, thuốc cũng là một loại hàng hóa, đã là hàng hóa thì cũng
giống như các loại hàng hóa tiêu dùng khác, giá thuốc cũng được điều tiết theo
quy luật cung – cầu trên thị trường và chịu sự quản lý của nhà nước về giá như
niêm yết giá, bán theo giá niêm yếu, chống gian lận thương mại. Nhưng vì
thuốc là hàng hóa đặc biệt có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người nên
cần phải có các cơ chế quản lý giá đặc biệt: như giá thuốc nhập khẩu không
được cao hơn giá CIF thực tế trung bình của các nước, nếu kê khai không đúng,
bán không đúng thì cơ quan nhà nước sẽ tạm dừng việc cấp số đăng ký, tạm
từng việc cấp đơn hàng nhập khẩu thuốc…
2.1.3.Giá cả cao không đồng nghĩa với chất lượng tốt
Việc tăng giá thuốc là một xu thế chung trên toàn thế giới. Tại Việt Nam,
hiện tượng này càng phổ biến, nhà thuốc này tăng giá thì nhà thuốc khác cũng
tăng giá theo. Tuy nhiên, tăng cao nhất vẫn là những mặt hàng thuốc ngoại.


Điều này có nguyên nhân từ tâm lý sính ngoại của nhiều người bệnh, họ cho
rằng cứ những loại thuốc đắt tiền là tốt nhất. Tuy nhiên, chúng ta lại không thể
biết được chất lượng thực tế của thuốc. Chẳng hạn, một bệnh nhân tiểu đường
điều trị với một đơn thuốc ngoại nhưng bệnh không giảm, thậm chí càng ngày
càng tăng với một đơn thuốc tốn kém hơn. Vậy đó là do chất lượng thuốc hay
do sự phát triển của tiến trình bệnh lý? Rõ ràng giá thuốc tăng không phản ánh
chất lượng thuốc tăng.
2.1.4.Dược phẩm liên quan trực tiếp đến sức khỏe của con người
Việc sử dụng các mặt hàng dược phẩm hiện nay không thể tránh khỏi gặp
các tác dụng phụ không mong muốn. Các tác dụng phụ của dược phẩm được
chia làm 3 cấp độ
Cấp độ I: Thuốc có khả năng rất lớn gây tử vong hay các vấn đề tác dụng
phụ trầm trọng cho sức khỏe.
Cấp độ II: Dược phẩm có chứa các chất có thể gây rắc rối cho sức khỏe
tạm thời trong quá trình dùng thuốc nhưng tác hại có thể khắc phục được.
Cấp độ III: Thuốc có tác dụng phụ gây hại cho sức khỏe nhưng khả năng
xảy ra tác dụng phụ thì không cao.
Như vậy, rõ ràng việc sử dụng các mặt hàng dược phẩm sẽ giảm được
bệnh tật này nhưng nó cũng có thể dẫn đến việc mắc một số bệnh khác, chính vì
thế việc sử dụng thuốc phải luôn luôn kèm theo sự hướng dẫn của bác sĩ.
2.2. ĐẶC ĐIỂM KINH DOANH MẶT HÀNG DƯỢC PHẨM
2.2.1. Sức cầu về mặt hàng dược phẩm phụ thuộc phần lớn vào bác sĩ kê
đơn
Thuốc là nhu cầu tất yếu nhằm bảo vệ sức khỏe, nâng cao chất lượng
cuộc sống và kéo dài tuổi thọ cho con người. Nhưng việc sử dụng thuốc có nét
đặc thù: người tiêu dùng không có quyền quyết định mua loại nào, số lượng bao
nhiêu, dùng như thế nào, … mà là do thầy thuốc. Vì vậy, sử dụng thuốc hợp lý,
phù hợp với mức chi trả của người dân là rất quan trọng – nhất là trong điều
kiện mức sống của người dân còn thấp, tiền thuốc bình quân đầu người là 7,6
USD/năm ( so với 40 – 60USD/năm của các nước trên thế giới) thì càng cần

phải có định hướng sử dụng thuốc. Hiện nay, tỷ lệ sử dụng thuốc ngoại còn cao,
ngay cả thuốc của các nước trong khu vực có trình độ công nghệ tương đương
với thuốc đã sản xuất trong nước. Không chỉ lạm dụng thuốc kháng sinh, biệt
dược đắt tiền, mà thuốc bổ sung vitamin, thuốc hỗ trợ điều trị cũng chiếm tỷ lệ
cao trong đơn thuốc. Các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu, phân phối
thuốc vẫn ưu tiên hướng tới mục tiêu kinh tế chứ chưa quan tâm đến quyền lợi
người tiêu dùng. Bên cạnh đó, một số hành vi tiêu cực trong quảng cáo, tiếp thị,
chi hoa hồng cho người kê đơn đã làm cho người bệnh thiệt thòi...
2.2.2. Sức cầu hiện nay chủ yếu đối với các mặt hàng ngoại
Hiện nay, Việt Nam chưa sản xuất được các dạng bào chế hiện đại với
những sản phẩm công nghệ cao như thuốc giải phóng theo chương trình, thuốc
tác dụng kéo dài, thuốc tác dụng đích ... Một số doanh nghiệp chỉ đơn thuần bắt
chước mẫu mã của nước ngoài, còn việc xây dựng chiến lược mặt hàng, tiếp thị
sản phẩm và quảng bá thương hiệu chưa được các doanh nghiệp dược Việt Nam
chú trọng. Chính vì thế mà theo thống kê hiện nay, lượng thuốc nhập ngoại tiêu
thụ trong các bệnh viện luôn chiếm tỷ lệ cao là 65%, thuốc sản xuất trong nước
chỉ chiếm 35%.
2.2.3. Doanh nghiệp Dược chịu sự quản lý chặt chẽ của Bộ Y Tế
Dược phẩm là loại hàng hóa kinh doanh có điều kiện. Để được nhập khẩu
các mặt hàng dược phẩm thì các doanh nghiệp phải được sự cấp phép của cơ
quan Nhà nước. Khi hàng về đến các cửa khẩu hải quan, các doanh nghiệp phải
xuất trình phiếu kiểm nghiệm gốc của nhà sản xuất, chỉ khi các thông số trên
phiếu kiểm nghiệm gốc đạt tiêu chuẩn quy định thì hàng hóa mới được thông
quan. Với mỗi lần nhập hàng về, doanh nghiệp đều phải có đơn gửi lên Bộ Y Tế
và nếu được phê duyệt thì mới tiến hành nhập hàng. Tất cả các mặt hàng thuốc
tân dược muốn lưu thông trên thị trường đều phải có giấy phép đăng ký và
những mặt hàng nhập khẩu phải đảm bảo chất lượng theo quy định tại chỉ thị số
03/1998/CT – BYT ngày 17/02/1998 của Bộ Trưởng Bộ Y Tế và Quy chế Quản
lý chất lượng thuốc ban hành kèm theo Quyết định của Bộ Trưởng Bộ Y Tế số
2412/1998/QĐ – BYT ngày 15/9/1998.

2.3. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẢU CỦA
THỊ TRƯỜNG DƯỢC PHẨM TRONG NƯỚC THỜI GIAN GẦN ĐÂY
2.4.1. Nhóm các nước cạnh tranh về giá cả
Các quốc gia này chủ yếu đến từ các nước như Thái Lan, Đài Loan, Ấn
Độ, Banglades, Trung Quốc…Sức cạnh tranh của nhóm sản phẩm này cũng là
khá mạnh. Hầu hết các sản phẩm từ các quốc gia trên đều là các dạng thuốc
thông thường. Các công ty đến từ nhóm các quốc gia này gây ra một áp lực
cạnh tranh tương đối lớn bởi chúng ta phải chia sẻ thị phần các loại thuốc
Generic vốn đã rất nhỏ.
Thông qua một số những loại thuốc do Ấn Độ, Đài Loan, Indonesia sản
xuất, chúng ta có thể thấy được giá của các loại thuốc trên khá thấp. Điều này
chứng tỏ sức cạnh tranh của các sản phẩm đến từ các nước trên là tương đối lớn.
Trong khi các loại thuốc do Việt Nam sản xuất cũng ở mức giá thấp, nhưng
trình độ sản xuất của chúng ta chưa thực sự đủ mạnh nên đây là một nguy cơ
lớn gây sức ép lên các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm trong nước. Nói cách
khác khi vẫn còn các hàng rào thuế quan, chúng ta đã phải chịu sức ép cạnh
tranh không nhỏ, vậy khi gia nhập WTO chúng ta sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh khốc liệt hơn nhất là từ phía các nước sản xuất dược phẩm giá rẻ, chất
lượng trung bình. (Xem bảng 2.1)
2.4.2. Nhóm các nước cạnh tranh chủ yếu về chất lượng.
Các quốc gia thuộc nhóm này bao gồm: Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ,
Anh,… chủ yếu là các thành phẩm từ các nước Châu Âu.
Sức cạnh tranh của nhóm sản phẩm này là khá lớn, đặc biệt là đối với các loại
thuốc chuyên khoa, đặc trị, các dạng bào chế đặc biệt mà các công ty dược trong
nước không sản xuất được, hoặc sản xuất được nhưng còn hạn chế như các loại
kháng sinh liều cao, thuốc tiêu hoá, hạ nhiệt, giảm đau…
Tên nhà sx Nước sx Tên thuốc
Thành
phần
Dạng bào

chế
Giá bán lẻ
tại VN
Synmedic
Laboratories
India Cimetidine200mg Viên nén
1,82 USD /
100 viên
210đ/viên
Panion &
BF Biotech
INC.
Taiwan
Circulon
F.C.
Tablets
40mg
Viên nén
bao phim
55.000 đ
/hộp
100viên
550đ/viên
PT Dexa
Medica
Indonesia Glucodex 80mg Viên nén
70520 đ
/hộp 100
viên
705đ/viên

Bảng 2.1- Giá của một số thuốc tân dược trên thị trường
(Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam. )
Có thể nói, nhu cầu chữa bệnh của nhân dân là rất lớn trong khi các nhà
sản xuất dược phẩm trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu cấp thiết này, và đó
là một thị trường mở cho các công ty dược nước ngoài. Trong tổng số 59 nhà
máy đạt tiêu chuẩn GMP của cả nước thì 17 nhà máy là có vốn đầu tư nước
ngoài. Điều này chứng tỏ chất lượng của các loại thuốc ngoại được đảm bảo với
độ tin cậy cao. Hơn nữa, về pháp lý, “sản phẩm thuốc chữa bệnh cho người đạt
tiêu chuẩn GMP quốc tế” thuộc danh mục khuyến khích đầu tư, theo đó các nhà
đầu tư sẽ được hưởng mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% áp dụng 15 năm
và được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm kể từ khi kinh doanh có
lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo. Tận dụng được điều này, các công ty
dược nước ngoài sẽ có được lợi thế, tăng sức ép cạnh tranh đối với các công ty
dược trong nước.
2.4.3. Về số lượng
Trước hết chúng ta cần phải biết đối thủ cạnh tranh trực diện của các
doanh nghiệp sản xuất dược phẩm trực tiếp của chúng ta hiện nay là ai và lợi thế
cạnh tranh của họ là gì. Hiện nay, các mặt hàng cạnh tranh trực tiếp với các loại
dược phẩm trong nước đó là các sản phẩm thuốc được nhập khẩu từ nước ngoài
hoặc của các doanh nghiệp nước ngoài đặt trụ sở hoạt động tại Việt Nam.
Nhìn chung với chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước ta,
các doanh nghiệp dược nước ngoài đã tham gia vào thị trường dược phẩm Việt
Nam với số lượng ngày càng tăng. Các doanh nghiệp nước ngoài đăng kí hoạt
động nhiều nhất tại Việt Nam tính đến tháng 9 năm 2008 là Ấn Độ (63 doanh
nghiệp), Hàn Quốc (40 doanh nghiệp), Pháp (30 doanh nghiệp). Về số đăng kí
thuốc nước ngoài thì các quốc gia này cũng chiếm một số lượng không nhỏ.
Theo bảng số liệu trên, ta có thể thấy rằng số lượng số đăng ký của các
loại thành phẩm tân dược từ nước ngoài có số lượng tương đối lớn. Trong đó
Ấn Độ luôn là nước có số lượng nhóm thuốc đăng ký cao nhất (đạt 28.60%
trong tổng số đăng ký thuốc nước ngoài năm 2009 ). Với những con số về số

lượng các loại thuốc đăng kí như vậy ta có thể thấy việc các loại thuốc thành
phẩm nước ngoài thâm nhập vào Việt Nam là tương đối lớn và với số lượng
ngày càng tăng cả về qui mô và chủng loại.
Không chỉ về số lượng, doanh số nhập khẩu dược phẩm của các nước vào Việt
Nam cũng ở mức tương đối lớn. Đây là một điều tất yếu vì Việt Nam là một thị
trường giàu tiềm năng và vẫn có thể tiếp tục khai thác, trong khi các doanh
nghiệp trong nước còn chưa có đủ khả năng cung ứng thuốc đặc trị. Doanh số
các loại dược phẩm cho chúng ta thấy khả năng cũng như sức mạnh của các
doanh nghiệp dược phẩm nước ngoài đối với thị trường dược phẩm trong nước.
Theo như biểu đồ 2.1, thì các quốc gia chiếm số lượng doanh số nhập
khẩu vào Việt Nam đó là Pháp, Thuỵ Sĩ, Hàn Quốc. Đây chủ yếu là các quốc
gia có nền công nghiệp dược tương đối phát triển và cũng là những quốc gia chủ
yếu xuất khẩu thuốc đặc trị sang Việt Nam
ST
T
Thời điểm
Nước
sản xuất
31/3/2007 31/3/2008 31/3/2009
SĐK % SĐK % SĐK %
1 Ấn Độ 1244 26.62 1411 28.76 1546 28.60
2 Hàn Quốc 906 19.02 1000 20.38 1071 19.81
3 Pháp 436 9.15 382 7.78 439 8.12
4 Đức 277 4.91 248 5.05 283 5.24
5 Đài Loan 145 3.04 149 3.04 153 2.83
6 Thuỵ Sỹ 135 2.83 112 2.28 126 2.33
7 Italia 130 2.72 110 2.24 127 2.35
8 Hungary 126 2.64 120 2.44 132 2.44
9 Malaysia 121 2.54 160 3.26 163 3.02
10 Thái Lan 117 2.45 93 1.89 114 2.11

11
Các nước
khác
662 13.90 1120 22.83 1251 23.15
Tổng Số 4762 100 4905 100 5405 100
Bảng 2.2- Số đăng ký thuốc nước ngoài tính theo nước sản xuất
(Nguồn: Cục Quản lý dược Việt Nam)
2.4.4.Tình hình thị trường dược phẩm trong nước những năm gần đây
Báo cáo thị trường của công ty Business Monitor International Ltd(BMI)
cho biết, thị trường dược phẩm Việt nam sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh với tốc
độ tăng trưởng 25% mỗi năm và đạt giá trị gần 2 tỷ USD vào năm 2013. Trong
thị trường dược phẩm Việt Nam, phân chia làm hai thị trường là thị trường
thuốc ngoại và thị trường thuốc nội( thuốc sản xuất trong nước), tỷ lệ thuốc
ngoại luôn chiếm tỷ lệ cao hơn thuốc sản xuất trong nước.
• Thị trường thuốc ngoại
Theo thống kê của Cục quản lý dược, Bộ Y tế, tính đến hết năm trước, cả
nước có 20.165 số đăng ký thuốc còn hiệu lực, trong đó khoảng một nửa là
thuốc xuất xứ nước ngoài. Như vậy, vẫn còn một khoản "sân" khá rộng cho khối
doanh nghiệp sản xuất dược phẩm trong nước. Tuy nhiên, theo nhận định của
nhiều chuyên gia liên quan trực tiếp đến lĩnh vực dược phẩm thì trên thực tế,
thuốc ngoại nhập thường xuyên chiếm từ 60-70% thị phần tại Việt Nam và có
khuynh hướng tăng mạnh. Tại rất nhiều nhà thuốc, các loại thuốc mang mác

×