LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ TÍNH TẤT YẾU
CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1.1. Một số lý luận chung về xuất khẩu lao động.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của xuất khẩu lao động
a) Khái niệm của xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một phạm trù có nội dung kinh tế xã hội sâu sắc liên
quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực, nó có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố kinh
tế xã hội khác. Để quá trình nghiên cứu được hệ thống và thống nhất, trước hết phải
định hình rõ một số khái niệm liên quan đến hoạt động XKLĐ, từ đó giúp chúng ta có
cái nhìn tổng thể, rõ ràng về vấn đề XKLĐ.
- Sức lao động:
Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình tạo ra của
cải xã hội, phản ánh khả năng lao động của con người, là điều kiện đầu tien cần thiết
trong quá trình lao động xã hội.
- Lao động
Lao động là hoạt động có mục đích và có ý thức của con người, nó diễn ra giữa con
người với tự nhiên nhằm cải tạo tự nhiên cho phù hợp với mục đích của con người. Lao
động là sự vận dụng của sức lao động, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu
sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Thành quả do con người tạo ra trong quá trình lao động để nuôi sống bản thân và gia
đình họ và đảm bảo sự tồn tại của xã hội. Lao động có năng suất, chấ lượng đem lại
hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Vì vậy, lao động có một
vị trí vô cùng quan trọng và không thể thiếu được trong bất kỳ một chế độ xã hội nào,
một quốc gia nào. Mỗi con người đến tuổi lao động, có khả năng lao động đều mong
muồn và có quyền được lao động để nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình và làm giàu
cho xã hội.
- Nguồn lao động
Nguồn lao động là một bộ phận của dân cư bao gồm những người trong đọ tuổi lao
động ( không kể số người mất khả năng lao động ) và những người ngoài độ tuổi lao
động ( trên hoặc dưới tuổi lao động ) nhưng thực tế có tham gia lao động.
Nước ta quy định độ tuổi lao động từ 15 – 55 đối với nữ và 15 – 60 đối với nam. Có
một sơ thực tế là ở nông thôn Việt Nam và cá biệt ở thành thị, trẻ em 10 tuổi ( thậm chí
dưới 10 tuổi ) đã tham gia lao động, đã đảm nhận một số những công việc có tính chất
sản xuất ở mức độ thời gian lao động khác nhau nên những người dưới độ tuổi lao động
thực tế có tham gia lao động hiệ nay khó xác định về phạm vi. Tuy nhiên để thống nhất
với các số liệu thống kê được công bố thì ở nhóm này chỉ tính những người có độ tuổi
13 – 15.
- Thị trường lao động
Thị trường lao động là một lĩnh vực riêng của nền kinh tế mà ở đó có diễn ra quá
trình mua bán, trao đổi, thuê mướn sức lao động. Ở nơi nào có nhu cầu sử dụng lao
động và có nguồn cung cấp lao động thì ở đó sẽ hình thành thị trường lao động.
Khi cung và cầu lao động xảy ra trong phạm vi biên giới một quốc gia thì gọi là thị
trường lao động nội địa. Khi cung và cầu lao động nảy sinh ngoài biên giới một quốc
gia thì có thị trường lao động quốc tế.
Thị trường lao động là một thị trường đặc biệt nó có những đặc điểm sau:
- Hàng hóa trên thị trường lao động là sức lao động (loại hàng hóa đặc biệt) vô
hình, khó cân đo đong đếm được và bị ảnh hưởng bởi yếu tố văn hóa, tâm lý, tình cảm
của con người trong quá trình lao động.
- Giá cả của sức lao động và tiền lương (V), là một phần giá trị trong giá trị của
hàng hóa ( C + V + M), là phần tiền mà người lao động nhận được nhằm tái tạo sức lao
động của chính họ và chu cấp cho gia đình họ.
- Hàng hóa sức lao động cũng tuân theo quy luật cung cầu, cạnh tranh trên thị
trường.
Thị trường lao động quốc tế có các đặc điểm của thị trường lao động nói chung trên,
tuy nhiên cũng có một số đặc điểm riêng biệt:
- Thị trường lao động quốc tế xuất hiện là do quá trình quốc tế hóa đời sống kinh
tế thế giới và nảy sinh cung cầu lao động vượt ra khỏi biên giới quốc gia
- Thị trường lao động quốc tế rất phức tạp: nó có sự tác động của các yếu tố văn
hóa, ngôn ngữ, tín ngưỡng, trình độ công nghệ, pháp luật của các quốc gia khác nhau.
Điều này đòi hỏi người lao động phải có một trình độ nhất định để có thể thích nghi,
tiếp thu được các đặc điểm văn hóa mới.
- Cung ứng lao động trên thị trường lao động quốc tế biến động mạnh mẽ do tình
hình kinh tế, chính trị thế giới biến động thường xuyên.
- Xuất khẩu sức lao động
Xuất khẩu lao động là một loại hình di chuyển quốc tế sức lao động. Di chuyển
quốc tế sức lao động là hiện tượng người lao động di chuyển ra nước ngoài nhằm mục
đích tìm việc làm để có thu nhập. Khi ra khỏi một nước, người đó được gọi là người
xuất cư, còn sức lao động của người đó được gọi là sức lao động xuất khẩu.
Xuất khẩu lao động trong thực tế thường được gọi là xuất khẩu lao động là một vấn
đề có nội dung kinh tế xã hội sâu sắc, có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố kinh tế xã
hội khác. ( Trong phạm vi của luận văn này cụm từ “xuất khẩu lao động” được hiểu
tương đương với cụm từ “ xuất khẩu sức lao động “).
Hay ta có thể hiểu XKLĐ là hoạt động trao đổi, mua bán hay thuê mướn hàng hóa
sức lao động giữa chính phủ một quốc gia hay tổ chức, cá nhân cung ứng sức lao động
của nước đó với Chính phủ, tổ chức, cá nhân sử dụng sức lao động nước ngoài trên cơ
sở Hiệp định hay hợp đồng cung ứng lao động.
Như vậy, khi hoạt động XKLĐ được thực hiện sẽ có sự di chuyển lao động có thời
hạn và có kế hoạch từ nước này sang một nước khác. Trong hành vi trao đổi, nước đưa
lao động đi được coi là nước XKLĐ, còn nước tiếp nhận lao động được coi là nước
nhập khẩu lao động (NKLĐ). Trên thực tế cũng có trường hợp xuất hiện vai trò của
nước thứ ba làm nhiệm vụ trung gian môi giới có tính chất kinh doanh. Vid dụ: Việt
Nam xuất khẩu lao động sang Libya xây dựng công trình “ Sông nhân tạo vĩ đại” thong
qua hợp đồng lao động với công ty Dong Ah – Hàn Quốc.
Trình độ lao động xuất khẩu ở các nước khác nhau thì khác nhau. Đối với những
nước phát triển, có xu hướng gửi lao động kỹ thuật cao sang các nước chậm phát triển
và đang phát triển để lấy thêm ngoại tê, tìm kiếm lợi nhuận ở nước ngoài. Đối với
những nước chậm phát triển và đang phát triển, XKLĐ có xu hướng gửi lao động phổ
thông, lao động tay nghề bậc trung để thu tiền công, tăng thu nhập, tích lũy ngoại tệ và
giảm bớt sức ép về nhu cầu việc làm trong nước.
b) Đặc điểm của xuất khẩu lao động
- Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đối ngoại
Đối với nhiều nước trên thế giới, hoạt động XKLĐ là một trong những giải pháp
quan trọng thu hút lực lượng lao động đang tăng hoặc dư thừa ra nước ngaoif làm việc
và thu ngoại tệ bằng cách chuyển tiền về nước của người lao động và các lợi ích khác.
Những lợi ích này buộ các nước xuất khẩu phải chiếm lĩnh ở mức cao nhất thị trường ở
nước ngoài, mà việc chiếm lĩnh thị trường này lại dựa trên cơ sở cung cầu sức lao động
và nó cũng chịu sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường.
Mặt khác, XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại đặc thù, XKLĐ là một hoạt động
tất yếu khách quan của quá trình chuyên môn hóa và hợp tác quốc tế giữa các nước
trong sản xuất, phù hợp với quy luậ phân công lao động quốc tế, góp phần đưa Việt
Nam hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
- Xuất khẩu lao động là sự kết hợp hài hòa giữa Nhà nước và các doanh nghiệp
xuất khẩu lao động
XKLĐ là sự kết hợp hài hòa giữa sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và sự chủ động và
tự chịu trách nhiệm của các tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động xuất khẩu lao động.
Ngày nay trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế thì hầu hết toàn bộ các hoạt động
XKLĐ từ khâu tổ chức đưa người đi đến khâu quản lý người lao động và thực chịu
trách nhiệm về hiệu quả trong toàn bộ hoạt động của mình trên cơ sở tuân thủ các quy
định của pháp luật. Do vây, các hiệp định, các thỏa thuận song phương giữa các quốc
gia chỉ có tính chất nguyên tắc, thể hiện vai trò và trách nhiệm của Nhà nước ở tầm vĩ
mô.
- Xuất khẩu lao động thể hiện rõ tính nhân văn
Đây là một đặc điểm có ý nghĩa lớn nhất của hoạt động XKLĐ. Vì XKLĐ thực chất
là xuất khẩu sức lao động trong khi đó sức lao động lại gắn có chặt chữ với người lao
động, không tách rời người lao động. Do vậy, mọi hoạt động của các doanh nghiệp
tham gia XKLĐ không phải chỉ là nhằm mục tiêu lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn
phải xuất phát từ con người, quan tâm tới lợi ích của người đi XKLĐ
- Hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp diễn ra trong điều kiện, môi
trường cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Sự cạnh tranh ở đây không chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp tham gia hoạt động
XKLĐ ở trong nước mà còn là cả sự cạnh tranh giữa các quốc gia cùng cung ứng lao
động xuất khẩu trên một thị trường, các thị trường khác nhau và giữa các doanh nghiệp
XKLĐ mạnh, có hệ thống ưu việt như Trung Quốc, Thái Lan, Philippin…
Lợi ích kinh tế của Nhà nước từ hoạt động XKLĐ là khoản ngoại tệ mà người lao động
gửi về và các khoản thế do các doanh nghiệp XKLĐ phải nộp. Lợi ích của các doanh
nghiệp chủ yếu là các khoản phí thu được từ hoạt động XKLĐ. Lợi ích của người lao
động là khoản thu nhập từ lương mà họ nhận được từ phía chủ sử dụng lao động ở nước
ngoài, khoản thu nhập này thường cao hơn rất nhiều lần so với lao động của họ ở trong
nước.
- Hoạt động xuất khẩu lao động phải đảm bảo lợi ích trong quan hệ ba bên
Lợi ích kinh tế của Nhà nước từ hoạt động XKLĐ là khoản ngoại tệ mà người lao
động gửi về và các khoản thuế do các doanh nghiệp XKLĐ phải nộp. Lợi ích của các
doanh nghiệp chủ yếu là các khoản phí thu được từ hoạt động XKLĐ. Lợi ích của các
doanh nghiệp chủ yếu là các khoản phí thu được từ hoạt động XKLĐ. Lợi ích của
người lao động là khoản thu nhập từ lương mà họ nhận được từ phía chủ sử dụng lao
động ở nước ngoài, khoản thu nhập này thường cao hơn rất nhiều lần so với lao động
của họ ở trong nước.
- Hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động chịu sự tác động mạnh mẽ
của các biến động của thị trường sử dụng lao động
Hiện nay, hầu như các doanh nghiệp XKLĐ ở các nước XKLĐ ở các nước NKLĐ về
mọi điều kiện. Trên thị trường lao động quốc tế, thường thì các nước XKLĐ phải chấp
nhận các điều kiện do các nước NKLĐ đưa ra như số lượng lao động, mức tiền công,
tiền lương, ngành nghề tuyển dụng, điều kiện làm việc…nước ta mới gia nhập thị
trường lao động quốc tế, do vậy hoạt động XKLĐ của Việt Nam cũng phải hoạt động
trong môi trường chịu sự tác động của cơ chế đó.
- Xuất khẩu lao động là một lĩnh vực xuất khẩu đặc biệt
Trước hết ta thấy thị trường lao động là một thị trường đặc biệt, đặc trưng cơ bản
của hoạt động xuất khẩu lao động khác so với xuất khẩu các loại hàng hóa khác xuất
phát từ tính đặc thù của loại hàng hóa này. Sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt
vì con người là chủ thể lao động, có tư duy và khả năng làm chủ bản thân. Cho nên,
trong Hiệp định hay hợp đồng ký kết, ngoài các điều khoản thông thường còn có các
điều khoản đề cập đến đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần, sinh hoạt của người lao
động. Những điều này bị chi phối bởi phong tục, tập quán, tôn giáo, văn hóa của các
quốc gia vào lĩnh vực này.
XKLĐ phù hợp với điều kiện kinh tế của mỗi nước, là hướng dẫn sử dụng lao động
có hiệu quả, tận dụng được lợi thế so sánh của cả nước xuất khẩu và nhập khẩu lao
động
XKLĐ ở Việt Nam là một hoạt động được sự chỉ đạo thống nhất của Nhà nước, Nhà
nước đã ban hành một hệ thống luật và các băn bản dưới luật để điều chỉnh các mối
quan hệ phát sinh xung quanh vấn đề XKLĐ, cho phép các tổ chức thực hiện XKLĐ
trên cơ sở tuân thủ hệ thống luật và các văn bản pháp quy đó.
Chính vì thế, XKLĐ là một hoạt động xuất khẩu đặc biệt.
1.1.2. Tính tất yếu của xuất khẩu lao động
Trong tác phẩm “Phép biện chứng tự nhiên” F. Ăng ghen viết: “Con người sống
lan rộng ra tất cả những nơi nào có thể được và người là một loại động vật duy nhất làm
được điều đó một cách độc lập, tự chủ”. Ngay từ buổi bình minh của loài người đã xuất
hiện sự di chuyển nguồn lao động đến những miền đất tốt đẹp hơn. Như vậy sự di cư
lao động quốc tế thể hiện tính tất yếu và tác dụng tiến bộ của lịch sử. Cuối thế kỷ 19 do
các mỏ khoáng sản ở Nam Phi thiếu nhiều lao động nên đã xuất hiện các luồng di dân
chuyển tới đó. Ngày nay, cũng chính sự phân bố không đều về dân cư, về điều kiện tự
nhiên (tài nguyên, khí hậu) với sự bùng nổ dân số trên thế giới đã hình thành luồng di
cư lao động ở những nước kinh tế chậm phát triển di cư đến những nước có đời sống
kinh tế khá hơn, lao động ở nước nghèo tài nguyên di chuyển đến những nước có điều
kiện thiên nhiên thuận lợi, dân cư ở nước có mật độ dân số cao di chuyển đến những
nước có mật độ dân cư thấp. Các hướng di chuyển rõ nét nhất hiện nay là từ Đông sang
Tây, từ Đông và Phi di chuyển sang vùng Trung cận đông. Như vậy việc di chuyển lao
động trước hết là một hiện tường khách quan trong quá trình hoạt động kinh tế của bản
thân người lao động.
Xuất khẩu lao động – sự di chuyển lao động có thời hạn và có kế hoạch có
nguyên nhân hình thành và phát triển không ngoài những yếu tố khách quan trên. Vì
đây là hoạt động hợp pháp, có tổ chức nên nó còn vị chi phối bởi các yếu tố chủ quan
như ý chí của các Nhà nước, của các tổ chức cung ứng và nhận lao động…Phân tích cụ
thể có thể chia thành các nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Do có sự mất cân đối về số lượng lao động, khi nguồn lao động nước đó
không đáp ứng đủ hoặc vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước.
Sự dư thừa lao động, vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước của một quốc gia có thể la
do quốc gia đó có tỷ lệ phát triển dân sơ cao, nền sản xuất trong nước lạc hậu, kém phát
triển nên nhu cầu sử dụng thấp hoặc do quốc gia đó có sự chuyển đổi cơ chế kinh tế mà
trong giai đoạn chuyển tiếp nền kinh tế chưa thể phù hợp ngày với cơ chế mới nên đã
giảm sút nghiêm trọng, sản xuất bấp bênh, số lao động dôi thừa tăng nhanh.
Trong khi đó nhiều nước có nền kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu sử dụng lao động lớn
nhưng tốc độ tăng dân số lại quá thấp nên đã xảy ra hiện tượng thiếu lao động.
Thứ hai: Do có sự mất cân đối về cơ cấu ngành nghề, thường xảy ra khi nhu cầu lao
động tạm thời yêu cầu một số ngành nghề nhất định mà trong nước không có hoặc
không đủ. Ví dụ: ở một số nước phát triển, rất thiếu lao động làm trong các ngành nặng
nhọc, độc hại hay ở nhiều nước chậm phát triển rất thiếu các chuyên gia, các cán bộ kỹ
thuật trình độ cao.
Trình độ phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật – công nghệ của mỗi quốc gia
không thể giải quyết hết sự mất cân bằng này, đòi hỏi phải có sự trao đổi lao động với
các quốc gia khác. Hành vi trao đổi này dẫn đến việc xuất khẩu lao động.
Thứ ba: Do có sự chênh lệch giá cả sức lao động trong nước và sức lao động nước
ngoài. Nhiều nước mặc dù không dư thừa lao động cũng tiến hành xuất khẩu lao động
vì có lợi cho cán cân thanh toán do họ có được những hợp đồng xuất khẩu lao động với
giá cao và bù lại học nhập khẩu sức lao động từ những nước có giá cả thấp hơn. Điều
này lý giải tại sao nhiều nước vừa nhập khẩu lại vừa xuất khẩu lao động như Cu Ba,
Malaysia, Bungari…( Thực chất là các nước tận dụng lợi thế so sánh của mình).
Thứ tư: do có sự chênh lệch về mức thu nhập và mức sống giữa người lao động
trong nước và người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Vì lý do này mà nhiều người
dù không thuộc đội quân thất nghiệp nhưng vẫn muốn đi xuất khẩu lao động để tăng
thêm thu nhập, cải thiện đời sống bản thân và gia đình.
Thứ năm: Do trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ giữa các quốc gia trên thế giới
không đồng đều, sự khác biệt về nguồn lực phát triển như vốn, công nghệ, sức lao
động…Từ đó đưa tới nhu cầu tất yếu về sự trao đổi ( sự di chuyển) các nguồn lực này.
Thứ sáu: Do sự chênh lệch về mức tăng dân số tự nhiên giữa các quốc gia và từ đó đưa
tới sự chênh lệch về mức tăng nguồn lao động.
Thứ bảy: Do xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế, lực lượng sản xuất phát triển, nền
sản xuất lớn không thể bó hẹp trong phạm vi biên giới quốc gia mà mở rộng ra nhiều
nước, việc sử dụng lao động mang tính quốc tế phù hợp với sự phân công lao động
quốc tế. Hơn nữa việc tăng cường xuất khẩu công nghệ, bao thầu công trình quốc tế sẽ
tất yếu kèm theo việc phát triển xuất khẩu lao động. Đồng thời việc ra đời các liên kết
kinh tế quốc tế cao cấp như EU, như cộng đồng kinh tế ở các châu lục khiến hoạt động
xuất nhập khẩu lao động trở nên dễ dàng hơn. Ví dụ lao động của Đức có thể sang nước
Bỉ, Pháp làm việc và được hưởng mọi quyền lợi như lao động của nước sở tại.
Ngoài ra, còn do có sự chênh lệch về mức tăng dân số tự nhiên giữa các quốc gia và từ
đó đưa tới sự chênh lệch vể mức tăng nguồn lao động; do trình độ khoa học kỹ thuật và
công nghệ giữa các quốc gia trên thế giới không đồng đều, sự khác biệt về nguồn lực
phát triển như vốn, công nghệ, sức lao động...Từ đó đưa tới nhu cầu tất yếu về sự trao
đổi, sự di chuyển các nguồn lực này.
1.1.3. Các hình thức xuất khẩu lao động
a) Phân loại theo cách thức tổ chức đưa người lao động ra nước ngoài
- Xuất khẩu lao động theo hiệp định giữa Chính phủ với Chính phủ
Hình thức này phổ biến ở giai đoạn 1980 – 1990 ở Việt Nam. Căn cứ vào Hiệp định đã
ký, Nhà nước phân các chỉ tiêu cho các Bộ, Ngành, địa phương tiến hành tuyển chọn và
đưa người lao động đi. Lao động của nước ta làm việc ở các nước được quản lý thống
nhất từ trên xuống dưới, sống và sinh hoạt theo đoàn đội, được làm việc xen ghép với
lao động các nước.
- XKLĐ trực tiếp theo các yêu cầu của công ty nước ngoài thông qua hợp đồng
lao động.
Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay, hình thức này đòi hỏi đối tượng lao động đa
dạng, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu khác nhau. Các chuyên gia, người lao động thường
được các công ty cung ứng dịch vụ lao động gửi ra nước ngoài lao động có thời hạn
theo hợp đồng cung ứng lao động.
- XKLĐ đi làm các công trình bao thầu ở nước ngoài, chủ yếu trong lĩnh vực xây
dựng. Các chuyên gia, lao động ra nước ngoài làm việc ở các dự án mà họ đã trúng
thầu.
- Các công ty gửi lao động, chuyên gia ra nước ngoài làm việc ở công ty mẹ hoặc
công ty con, hoặc các công ty khác trong cùng một tập đoàn đóng ở các nước khác
nhau, hoặc đến làm việc tại các văn phòng đại diện, chi nhánh công ty đặt tại các nước
khác.
- Lao động tự do: Tự tìm việc làm ở nước ngoài, sau một thời gian sẽ trở về đất
nước
b) Phân loại theo trình độ người lao động
- Xuất khẩu chuyên gia cao cấp: Những người này ra nước ngoài làm việc với vai
trò tư vấn, giám sát, giảng dạy, hướng dẫn kỹ thuật hay đào tạo nghề.
- Xuất khẩu thợ lành nghề: Đây là loại lao động đã được đào tạo một nghề nào đó
và khi ra nước ngoài làm việc họ có thể bắt tay ngay vào công việc mà không phải tiến
hành đào tạo nữa.
- Xuất khẩu lao động giản đơn: Là loại lao động chưa được đào tạo một loại nghề
nào cả nên không có nghề hoặc có nghề ở mức thấp.
c) Phân loại theo địa điểm xuất khẩu lao động
- XKLĐ ra nước ngoài làm việc: có nghĩa là lao động được di chuyển ra khỏi biên
giới quốc gia và trực tiếp làm việc tại nước ngoài.
- XKLĐ tại chỗ: Là hình thức cung ứng sức lao động cho các tổ chức kinh tế nước
ngoài hoạt động ở Việt Nam (bao gồm: các xí nghiệp có vồn đầu tư nước ngoài; các
khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao; các tổ chức cơ quan ngoại giao của
nước ngoài tại Việt Nam)
(Trong phạm vi nghiên cứu chuyên đề tốt nghiệp này không đề cập đến hình thức xuất
khẩu lao động tại chỗ)
1.1.4. Vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển kinh tế xã hội
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt đối
với các nước đang phát triển, kém phát triển. Hoạt động này đem lại lợi ích cho tất cả
các bên tham gia: bên xuất khẩu lao động, bên nhập khẩu lao động và bản thân người
lao động.
Xét trên góc độ vĩ mô:
• Với nước xuất khẩu lao động:
Nước xuất khẩu lao động có lợi về nhiều mặt trong đó đặc biệt là các lĩnh vực: Kinh
tế, xã hội, quan hệ đối ngoại.
-
Về kinh tế: Xuất khẩu lao động có vai trò đặc biệt trong hoạt động kinh tế. Trước
hết, nó góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Có thể
nói, xuất khẩu lao động giữ một vị trí rất quan trọng trong chương trình việc làm
quốc gia, nếu không nói là chủ yếu trong chiến lược giải quyết việc làm, đây là một
công cụ hữu hiệu để thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta đặt ra năm 2010
sẽ xoá hết đói nghèo. Kinh nghiệm từ một số nước cho thấy, xuất khẩu lao động là
một giải pháp khắc phục tình trạng thất nghiệp có hiệu quả cao. Theo ILO, số người
thất nghiệp trên thế giới đã đạt kỷ lục 212 triệu người trong năm 2009. Vì vậy, giải
quyết tình trạng thất nghiệp hiện nay cần phải là ưu tiên chính trị khẩn cấp và cần được
thực hiện thông qua một đường lối chung thống nhất giữa chính sách công và đầu tư tư
nhân. Để khắc phục tình trạng này, các nước đã thành
công
bằng
sử dụng
giải pháp
xuất khẩu lao động.
Bên cạnh những đóng góp trên, xuất khẩu lao động còn đem lại nguồn thu ngoại tệ
đáng kể cho đất nước, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế do vậy rút ngắn
khoảng cách giàu- nghèo giữa nước phát triển và nước đang phát
triển.
Xuất khẩu lao động cũng là một kênh đem lại một nguồn thu nhập quan trọng cho
đất nước. Theo ước tính, số lao động xuất khẩu năm 2004 đã gửi về cho gia đình
khoảng 1,5 tỷ USD, bình quân mỗi lao động khoảng 3.750 USD hay 302,5 USD
một tháng, cao gấp nhiều lần phần dôi ra sau khi trừ đi chi tiêu cho ăn uống của lao
động trong nước. Một tỷ rưỡi USD tuy chưa thấm tháp gì so với Philippines (số tiền
gửi qua kênh chuyển tiền chính thức là trên 7 tỷ USD, còn theo ước tính của ADB
tính thêm cả kênh chuyển tiền không chính thức thì tổng số lên đến 14 – 21 tỷ USD,
chiếm 32%GDP của nước này), nhưng đã chiếm khoảng 3,3% GDP của cả nước và
tương đương với nguồn vốn ODA giải ngân trong năm.
- Về xã hội: Đối với một nước hơn 82 triệu dân, với trên một nửa là số người trong
độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp ở thành thị lên đến 5,6% và số thời
gian chưa được sử dụng ở nông thôn lên đến trên 20%, thì xuất khẩu lao động là một
kênh giải quyết việc làm cho người lao động rất có ý nghĩa. Trong mấy năm gần
đây, số lao động đi xuất
khẩu
c
ủ
a nước ta mỗi năm đã lên đến trên dưới 70 nghìn
người và đến nay đã có khoảng 400 nghìn người Việt Nam đang làm việc ở khoảng
trên 40 nước và vùng lãnh thổ. Song nếu so với Philippines có cùng số dân và số
người trong tuổi lao động như Việt Nam thì kết quả trên còn thấp hơn rất nhiều. Năm
2004, nước này đã có 1 triệu lao động đi làm việc ở nước ngoài, đưa Philippines vượt
qua Mexico trở thành nước xuất khẩu lao động lớn nhất thế giới. Cho đến nay, nước
này có khoảng 8 triệu lao động làm việc ở 56 nước, đông nhất là tại Mỹ, ả Rập
Saudi, Malayxia, Canada,
Nhật Bản…
Thực hiện tốt công tác xuất khẩu lao động sẽ giảm được tệ nạn xã hội do thất nghiệp
gây ra, tạo một hướng lao động tích cực cho người lao động, học tập được phong cách
lao động mới do tổ chức lao động ở nước ngoài trang bị...
- Về quan hệ đối ngoại: Mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác trong lĩnh vực xuất
khẩu lao động là vô cùng quan trọng, từ đó quan hệ giữa nước cung ứng lao động
và nước tiếp nhận lao động trở nên gắn bó hơn, hiểu nhau hơn, tao ra mối quan hệ tốt
đẹp giữa hai nước. Cung cấp cho nhau những thông tin quan trọng
về
những vấn đề
hai nước cùng quan tâm và thống nhất quan điểm hai bên cùng có lợi. Sự đa dạng hoá
các quan hệ hợp tác quốc tế được mở rộng thông qua hợp tác về lao động sẽ tạo
điêù kiện mở rộng hơn nữa các quan hệ hợp tác khác.
• Với nước nhập khẩu lao động:
Nước nhập khẩu lao động thu được những lợi ích đáng kể như: cung cấp đủ số lao
động bù đắp vào các ngành thiếu hụt, khai thác có hiệu qủa tiềm năng của đất nước.
Đồng thời, mở rộng quan hệ và uy tín với nước có lao động, khai thác kinh nghiệm,
kiến thức, tác phong lao động và cung ccáh quản lý của nước khác, mở rộng nhu cầu
thị trường trong nước...
Ngoài ra xuất khẩu lao động cũng góp phần giả quyết nhu cầu lao động đặc biệt là
trong các lĩnh vực mà lao động địa phương ít tham gia tại nước tiếp nhận lao động.
Xét trên góc độ vi mô:
• Với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu lao động:
- Xuất khẩu lao động là một bộ phận của xuất khẩu do vậy các doanh nghiệp tham
gia trong l
ĩnh
vự
c này phải tìm hiểu kỹ về nền văn hoá, phong tục tập quán của nước
nhập khẩu, đây là tiền đề tốt trong quá trình hội nhập quốc tế.
-
Doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động là đã tham gia hiệu quả vào chương
trình quốc gia giải quyết việc làm đồng thời thực hiện một phần thoả
thuận hợp tác
giữa hai chính phủ.
- Doanh nghiệp xuất khẩu lao động làm ăn có hiệu quả sẽ thực hiện nghĩa vụ với ngân
sách Nhà nước.
Tuy nhiên một vấn đề bức xúc đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay đó là tình trạng
ngày càng có nhiều lao động không thực hiện hợp đồng đã ký.Việc này có thể gây
ảnh hưởng lớn đối với uy tín c
ủ
a
doanh
nghiệp cũng như sự ổn định trên thị trường
hiện tại và tiềm năng.
• Với bản thân người lao động:
- Người đi xuất khẩu lao động có điều kiện giúp gia đình thoát khỏi đói nghèo cải
thiện mức sống của bản thân và gia đình.
- Người lao động có thể tiếp thu kỹ năng làm việc, quản lý, tích luỹ trình độ tay nghề
và kinh nghiệm thực tiễn để tự tạo việc làm sau khi về nước.
1.1.5.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động:
Hiệu quả là chỉ tiêu so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được
hiệu quả đó ( Hiệu quả = kết quả - chi phí ). Có hai loại hiệu quả là hiệu quả kinh tế
và hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế là hiệu quả đạt được về mặt kinh tế, còn hiệu
quả xã hội là hiệu quả đạt được về mặt xã hội. Đây là khái niệm chung để đánh giá
hiệu quả, tuy nhiên khi đi vào từng lĩnh vực cụ thể thì việc đánh giá hiệu quả không
đơn giản chút nào, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu lao động này. Bởi vì để có thể
đánh giá chính xác,
đầy
đủ
và đúng hiệu quả kinh tế xã hội ở từng thị trường cụ thể
thì chúng ta cần phải đánh giá toàn bộ, toàn diện một cách tổng hợp những kết quả
đạt được và chi phí bỏ ra trong quá trình hoạt động đó, đồng thời, phải xem xét hiệu
quả của nó trên cơ sở lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân của nước ta. Qua
đó một lần nữa thấy rõ hơn việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài trong mối liên
hệ chung của nền kinh tế đất nước quan trọng như thế nào bởi lẽ kết quả cuối cùng
của lĩnh vực này được chuyển từ chu trình này sang một
chu
trình
khác, từ ngành
này sang ngành khác, từ nước này sang nước khác...Với quan điểm như vậy, đánh
giá hiệu quả của lĩnh vực này không thể giống như việc đánh giá hiệu quả của một
quá trình kinh doanh cụ thể trong nước mà không có phần phức tạp hơn nhiều.
• Một số chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của xuất khẩu lao động
Lợi ích kinh tế đạt được
a) Số lượng lao động được giải quyết việc làm trong năm:
Công thức tính:
L = Lc + Lx -
Ln
Trong đó:
L: Số lao dộng kết thúc hợp đồng trở về nước trong năm
Ý nghĩ a củ a ch ỉ
tiêu :
Chỉ tiêu này nêu ra được chi tiết kết quả đạt được trong một năm qua của công tác xuất
khẩu llao động được giải quyết việc làm trong năm
Lc: Số lao động từ năm trước vẫn còn đang tiếp tục
Lx
: Số lao động được đưa sang hoạt động trong năm
Ln: Số lao lao động. Nó chỉ ra được những đóng góp của lĩnh vực này đối với việc
tạo công ăn việc làm cho xã hội mà nhà nước ta đã không phải bỏ vốn đầu tư để tạo
việc làm mới, giải quyết một phần tình trạng ứ đọng lao động của đất nước ( mặc dù
trước khi đi xuất khẩu lao động những người lao động này không phải tất cả đều
thuộc diện thất nghiệp).
b) Thu nhập quốc dân về ngoại tệ thông qua hoạt động xuất khẩu lao động:
Công thức tính:
P = ∑ Yj ( j = 1 đến n )
Yj = Xij .
Kj
Trong đó:
P : Mức thu của nhà nước
Y: Mức thu của nhà nước ở mỗi thị trường
n : Số thị trường đưa lao động sang
j : Nước đưa lao động sang
K : Tỷ số hối đoái quy đổi ra ngoại tệ quy ước
X : Thuế thu nhập mỗi người phải đóng
Ý ng hĩ a c h ỉ
tiêu:
Chỉ tiêu này cho biết số tiền nhà nước thu được thông qua xuất khẩu lao động. Vấn
đề ngoại t
ệ
(nhấ
t là ngoại tệ mạnh) đối với Việt Nam có ý nghĩa to lớn. Tất cả các
hoạt động có thể đem về ngoại tệ cho đất nước cần được khuyến khích. “ Cùng với
việc xuất khẩu hàng hoá cần hết sức coi trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt
động thu ngoại tệ như phát triển du lịch, cung ứng tàu biển, dịch vụ hàng không, tổ
chức gia công hàng xuất khẩu và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là những
hình thức thích hợp với hàng triệu người lao động dư thừa hiện nay. Khả năng hợp
tác lao động với nước ngoài của nước ta là
rất lớn, nếu chúng ta biết tổ chức và khai thác hết những tiềm năng đó trong
quan hệ kinh tế đối ngoại thì sẽ thu đựơc nguồn ngoại tệ đáng kể thúc đẩy sản xuất
phát triển.”
c) Mức tiết kiệm đầu tư vào việc làm của chính phủ:
Công thức tính:
Mtk = m
dt
.
L
Trong đó:
Mtk : Mức tiết kiệm vốn đầu tư tạo ra việc làm
m
dt
: Mức đầu tư trung bình tạo ra một chỗ làm việc mới L : Số
người có việc làm thường xuyên ở nước ngoài
Ý ng hĩ a c h ỉ
tiêu:
Cho biết mức độ tiết kiệm không phải bỏ vốn đầu tư tạo ra chỗ làm việc mới ở trong
nước và đồng nghĩa với việc tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho giải quyết việc làm.
d) Giá trị hàng hoá do người lao động đưa về:
Công thức tính:
G = ∑ Hj ( j = 1 đến n )
Hj = ∑ h
ij
. N
j