Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Lý luận chung về bảo hộ lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.83 KB, 55 trang )

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ LAO ĐỘNG
I-Khái niệm bảo hộ lao động:
1-Một số khái niệm liên quan:
1.1-Khái niệm bảo hộ lao động:
Thuật ngữ “Bảo hộ lao động” dưới góc độ khoa học được hiểu là tổng thể
các biện pháp bảo đảm cho người lao động làm việc được an toàn, không nguy
hiểm đến tính mạng, sức khỏe, là yêu cầu đồng thời cũng là hướng chủ yếu nhằm
hoàn thiện việc tổ chức lao động khoa học, làm cho người lao động yên tâm, nâng
cao chất lượng và hiệu quả công tác.
Bảo hộ lao động còn được hiểu là hệ thống các giải pháp về pháp luật, khoa
học kỹ thuật, kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm an toàn và sức khỏe của con người
trong quá trình lao động sản xuất. Nội dung bao gồm 3 vấn đề:
Một là, xây dựng, ban hành và giảm sát việc thực hiện hệ thống pháp luật về
bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động, hệ thống các tiêu chuẩn giới hạn cho pháp luật
của các yếu tố điều kiện lao động, hệ thống các quy phạm an toàn trong lao động –
sản xuất và các chính sách chế độ bồi dưỡng sức khỏe, chăm sóc y tế cho những
người lao động phải làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, kém hấp
dẫn.
Hai là, bảo đảm tính đồng bộ và tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về An
toàn, vệ sinh lao động trong toàn bộ quá trình thiết kế, vận chuyển, lắp đặt, vận
hành và bảo quản nhà xưởng, quy trình công nghệ, máy móc thiết bị, vật tư, nhiên
liệu, năng lượng sử dụng trong quá trình lao động.
Ba là, không ngừng nâng cao hiểu biết và nhận thức của người sử dụng lao
động và người lao động về an toàn, vệ sinh lao động bằng cách tuyển chọn, tuyên
1
truyển giáo dục, hướng dấn, đào tạo thường xuyên, luyện tập các phương pháp
phòng chống các sự cố trong sản xuất.
Bên cạnh đó, dưới góc độ pháp lý, bảo hộ lao động được hiểu là chế định bao
gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác định các điều
kiện lao động an toàn và vệ sinh có tính chất bắt buộc, các biện pháp phòng ngừa,
ngăn chặn hoặc khắc phục những yếu tố nguy hiểm, độc hại trong môi trường lao


động nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân cách người lao động.
Theo nghĩa rộng, bảo hộ lao động được hiểu là tổng hợp các quy định về việc
bảo vệ (bảo hộ) người lao động khi tham gia quá trình lao động, nhằm đảm bảo tốt
nhất quyền và lợi ích của người lao động. Theo nghĩa này, các quy định về an toàn
lao động, vệ sinh lao động và bảo vệ tính mạng, sức khỏe người lao động trong
quan hệ lao động chỉ là bộ phận trong số các quy định về bảo hộ lao động.
Theo nghĩa hẹp, bảo hộ lao động được hiểu là những quy định của Nhà nước
liên quan đến việc đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động và các chế độ lao
động khác nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe và trong một số trường hợp nhằm bảo
vệ nhân cách của người lao động.
Trên cơ sở những vấn đề nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về chế độ bảo hộ
lao động như sau: chế độ bảo hộ lao động là tập hợp các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành, quy định các điều kiện an toàn, vệ sinh lao động có tính chất
bắt buộc; các biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân cách của người lao động
và giải quyết hậu quả do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp gây ra đối với người
lao động. Pháp luật bảo hộ lao động bao gồm các bộ phận cấu thành sau: những
quy định về việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động, những biện pháp hạn chế ảnh
hưởng của các yếu tố nguy hiểm, độc hại trong quá trình lao động, các quy định về
việc khắc phục hậu quả của tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, quyền và nghĩa vụ
của các bên trong lĩnh vực bảo hộ lao động, công tác thanh tra và xử lý vi phạm
pháp luật về bảo hộ lao động.
2
1.2-Khái niệm an toàn lao động:
An toàn lao động được hiểu là “Tình trạng điều kiện lao động không gây ra
sự nguy hiểm trong sản xuất”.
1
Dưới góc độ pháp lý “An toàn lao động” là tổng hợp những quy phạm của
Nhà nước quy định về các biện pháp bảo đảm an toàn lao động nhằm ngăn ngừa tai
nạn lao động và khắc phục những hậu quả của tai nạn lao động, cải thiện điều kiện
lao động cho người lao động”. Như là một chế định của Bộ luật Lao động, an toàn

lao động chủ yếu bao gồm bốn nhóm quy định sau:
Nhóm quy định về an toàn lao động.
Nhóm quy định về tai nạn lao động.
Nhóm quy định về các quyền và nghĩa vụ của các bên trong an toàn lao
động.
Nhóm quy định đối với một số loại lao động có đặc điểm riêng.
1.3-Khái niệm vệ sinh lao động:
Vệ sinh lao động được hiểu là “tổng thể các tiêu chuẩn môi trường lao động
(ánh sang, chống bụi, nóng lạnh, gió, tiếng ồn, độ ẩm…); bảo hộ an toàn lao dộng,
trang thiết bị bảo hộ lao động, máy móc, thiết bị sản xuất, chế độ ăn uống tối ưu
thích hợp lao động với mỗi loại lao động; vệ sinh cá nhân của người lao động; nhà
ở và các tiện nghi sinh hoạt; quản lý sức khỏe cho người lao động và gia đình,…”
2
Như là một chế định của Bộ luật Lao động, Vệ sinh lao động chủ yếu gồm
bốn nhóm quy định sau:
Nhóm quy định về Vệ sinh lao động.
Nhóm quy định về Bệnh nghề nghiệp.
Nhóm quy định về các quyền và nghĩa vụ của các bên trong an toàn-vệ sinh
lao động.
1
TCVN 3153-79, tr1/5
2
Từ điển bách khoa Việt Nam tập 4, NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội 2005, tr 850
3
Nhóm quy định đối với một số loại lao động có đặc điểm riêng.
II-Đặc điểm của bảo hộ lao động:
Thứ nhất, bảo hộ lao động là hoạt động mang tính chất kỹ thuật đặc thù do
sự phát triển của bảo hộ lao động luôn gắn liền với công nghệ sản xuất. Việc khắc
phục những yếu tố nguy hiểm, độc hại trong quá trình lao động phải gắn liền với
việc thực hiện các biện pháp mang tính khoa học – kỹ thuật. Vì vậy, các quy phạm

pháp luật về bảo hộ lao động không chỉ mang tính chất pháp lý thuần túy mà còn có
tính chất kỹ thuật. Các tiêu chuẩn an toàn lao động và vệ sinh lao động (như ánh
sáng, độ ẩm, tiếng ồn, nồng độ bụi…) được quy định trong các văn bản pháp luật
và bắt buộc thực hiện đối với các doanh nghiệp đều là kết quả nghiên cứu của
ngành khoa học bảo hộ lao động và của nhiều ngành khoa học khác, được thể chế
hóa thành các quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc.
Thứ hai, phần lớn các quy định về bảo hộ lao động hoặc liên quan tới hoạt
động bảo hộ lao động đều có tính chất “bắt buộc cứng” nhằm hạn chế những hậu
quả nghiêm trọng của việc không tuân thủ đúng các quy trình an toàn, vệ sinh lao
động. Trừ một số quy định có thể thỏa thuận nhưng không thấp hơn mức tối thiểu
do pháp luật quy định (như vấn đề bồi dưỡng bằng hiện vật hay phụ cấp nặng nhọc,
độc hai…). Đa số các quy định về bảo hộ lao động đều bắt buộc các chủ thể phải
thực hiện đúng các thông số kỹ thuật an toàn, vệ sinh lao động cho phép. Việc
không thực hiện đúng và đầy đủ các quy định bị coi là vi phạm pháp luật và phải
chịu các chế tài tương ứng.
Thứ ba, bảo hộ lao động là hoạt động được thực hiện bởi đông đảo người
lao động và người sử dụng lao động. Người lao động trực tiếp làm việc và tiếp xúc
với các máy móc, thiết bị trong quá trình lao động nên họ là người có khả năng
phát hiện các yếu tố nguy hiểm, độc hại, đề xuất hoặc tự mình giải quyết để phòng
ngừa các tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Do đó, cần vận động, tổ chức,
4
thu hút sự tham gia đông đải của người lao động và người sử dụng lao động trong
việc tiến hành các hoạt động bảo hộ lao động. Bên cạnh quy định quyền và nghĩa
vụ của người lao động và người sử dụng lao động, pháp luật cần xác định trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội nghề nghiệp có liên quan trong
lĩnh vực bảo hộ lao động.
III-Tính tất yếu khách quan của chế độ bảo hộ lao động:
1-Bảo hộ lao động là một nhiệm vụ chính trị quan trọng:
Bảo hộ lao động tốt là thiết thực bảo vệ giai cấp công nhân. Dưới chế độ cũ
giai cấp công nhân bị bóc lột, bị đối xử thậm tệ, bị coi rẻ. Ngày nay, dưới sự lãnh

đạo của Đảng, giai cấp công nhân được hoàn toàn giải phóng khỏi ách áp bức, bóc
lột, đã trở thành giai cấp lãnh đạo, thành những người chủ đất nước. Nếu để lực
lượng công nhân bị hao mòn, nhiều người lao động sớm bị loại, nằm ngoài sản xuất
thì việc xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, công nhân truyền thống sẽ khó
khăn.
Thể hiện quan điểm coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự
phát triển. Một đất nước có tỷ lệ tai nạn lao động thấp, người lao động khoẻ mạnh,
không mắc bệnh nghề nghiệp là một xã hội luôn coi con người là vốn quý nhất.
Ngược lại, nếu công tác bảo hộ lao động không được thực hiện tốt, điều kiện lao
động quá nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại, dễ xảy ra nhiều tai nạn lao động nghiêm
trọng thì uy tín của chế độ, của doanh nghiệp sẽ bị giảm sút.
2-Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động là yêu cầu thiết yếu của sản xuất:
Trong sản xuất nếu người lao động được làm việc trong điều kiện an toàn và
vệ sinh thì họ luôn an tâm, thoải mãi, phấn khởi sản xuất, do đó sẽ có ngày công,
giờ công cao dẫn đến năng suất lao động cao, kế hoạch sản xuất sẽ được hoàn
thành tốt. Vì vậy phúc lợi tập thể tăng lên, có thêm điều kiện để cải thiện đời sống
5
vật chất và tinh thần của cá nhân và đơn vị. Nó còn có tác dụng tích cực bảo đảm
đoàn kết nội bộ để đẩy mạnh sản xuất.
Ngược lại nếu môi trường làm việc có nhiều yếu tố độc hại, nguy hiểm, dễ
xảy ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì sẽ gây ra nhiều hiệu quả cho sản xuất.
Ví dụ giảm sút hoặc và suy yếu lực lượng lao động. Người bị tai nạn, ốm đau
sẽ phải nghỉ việc để cứu chữa, điều trị nên ngày công lao động giảm; nếu bị tàn
phế, mất sức thì khả năng lao dộng đã giảm, lại làm cho xã hội phải lo thêm gánh
nặng, nếu có tai nạn chết thì mất hẳn người lao động và những người có liên quan
cũng mất một số thời gian lao động. Bên cạnh đó chi phí về các thiệt hại do tai nạn,
ốm đau, điều trị, cứu chữa rất lớn. Ngoài ra sẽ kéo theo một số thiệt hại khác như
hư hỏng máy móc, nhà xưởng, nguyên liệu v.v…
Tóm lại, tai nạn bệnh tật xảy ra dù nhiều hay ít đều dẫn tới mất người, mất
của và gây trở ngại cho sản xuất, kinh doanh. Cho nên quan tâm, thực hiện tốt Bảo

hộ lao động là thể hiện quan điểm sản xuất đầy đủ, là điều kiện bảo đảm sản xuất
phát triển và đem lại hiệu quả kỹ thuật cao trong sản xuất.
3-Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động là biện pháp thiết thực chăm lo đến hạnh
phúc, đến đời sống của người lao động:
Đây là yêu cầu thiết thân của quần chúng lao động, bất kể người lao động
nào cũng vậy, trong quá trình lao động sản xuất, không ai muốn mình phải chịu rủi
ro, tai nạn, bệnh tật, tàn phế hay thiệt hại về tính mạng do tai nạn lao động gây nên.
Người lao động nào cũng muốn đời sống của mình, gia đình mình hạnh phúc, đó là
nhu cầu, ước vọng thuần túy, vốn có của con người, và đó cũng là một trong những
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Bằng cách nào đó để vừa động viên khuyến khích người lao động hăng say
sản xuất, làm ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, vừa bảo vệ sức khỏe, thân thể
lành mạnh, thể lực duy trì, tình cảm, hạnh phúc gia đình được đảm bảo tránh để xẩy
6
ra những tình cảnh đau thương tang tóc cho vợ, chồng, con cái người lao động do
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp gây nên.
4-Cải thiện điều kiện lao động có ý nghĩa và lợi ích to lớn:
Cả Việt Nam và Lào đều có xuất phát điểm từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc
hậu; sẽ không tránh khỏi có hàng triệu người lao động hiện nay phải lao động trong
điều kiện lao động khắc nghiệt, ở nhiều nơi tới mức báo động, đồng thời có những
nơi gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Hậu quả này tác động xấu tới con người
nói chung và người lao động nói riêng dưới nhiều góc độ khác nhau: không chỉ
riêng sức khỏe mà cả tinh thần, không chỉ trong lao động mà còn cả ngoài giờ lao
động, không chỉ riêng thế hệ đương thời mà còn ảnh hưởng tới thế hệ tương lai.
Điều kiện lao đôn có vai trò quan trọng trong nền sản xuất xã hội, sản xuất
vật chất và sản xuất con người.
Trong sản xuất vật chất, điều kiện lao động được hình thành phụ thuộc trực
tiếp vào mối quan hệ kinh tế và cơ sở kỹ thuật của sản xuất.
Cũng trong sản xuất vật chất, điều kiện lao động ảnh hưởng trực tiếp tới sức
khỏe, tinh thần, niềm tin của người lao động.

Đề nhìn nhận vị trí và tầm quan trọng của điều kiện trong sản xuất, trong
phát triển kinh tế xã hội phải xét nó trong qúa trình phát tiển bền vững-sự phát triển
cân đối giữa 3 yếu tố: Kinh tế-Xã hội-Môi trường.
Điều kiện lao động cùng một lúc tác động lên cả 3 yếu tố phát triển bền
vững.
IV-Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về bảo hộ lao động:
1-Nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lí các hoạt động bảo hộ lao động:
7
Xuất phát từ tầm quan trọng của Bảo hộ lao động, Nhà nước xác định việc
thống nhất quản lí các hoạt động bảo hộ lao động là nhiệm vụ chủ yếu của công tác
quản lí nhà nước trong lĩnh vực lao động. Sự tham gia quản lí thống nhất của nhà
nước từ Trung ương đến địa phương trong việc thực hiện bảo hộ lao động góp phần
bảo hộ khả năng thực thi của pháp luật và bảo vệ sức khoẻ người lao động.
Vai trò của Nhà nước trong việc thống nhất quản lí hoạt động bảo hộ lao
động thể hiện ở việc Nhà nước lập chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, ban
hành các văn bản pháp luật, đầu tư nghiên cứu khoa học về bảo hộ lao động, hỗ trợ
phát triển các cơ sở sản xuất trang thiết bị an toàn, vệ sinh lao động. Đặc biệt, vai
trò quản lí của Nhà nước thể hiện rõ trong việc ban hành các văn bản pháp luật về
bảo hộ lao động, hướng dẫn thực hiện, thanh tra và xử lí vi phạm pháp luật. Phần
lớn các qui định về an toàn, vệ sinh lao động và việc đảm bảo các tiêu chuẩn
nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động do Nhà nước ban hành đều là các qui định
cần được thực hiện nghiêm chỉnh tại các doanh nghiệp. Nhà nước cũng có kế hoạch
hỗ trợ các doanh nghiệp khi thực hiện các biện pháp bảo hộ lao động nhằm giảm
bớt chi phí tài chính cho doanh nghiệp và tăng tính chuyên nghiệp của các hoạt
động bảo hộ lao động. Sự hỗ trợ của Nhà nước chủ yếu là tổ chức nghiên cứu, ứng
dụng kĩ thuật bảo hộ lao động, sản xuất các trang thiết bị an toàn, vệ sinh lao động.
Trách nhiệm của các đơn vị là đầu tư kinh phí cho công tác đảm bảo an toàn, vệ
sinh lao động và thực hiện đúng các qui định pháp luật về bảo hộ lao động.
2- Nguyên tắc thực hiện BHLĐ là nghĩa vụ bắt buộc đối với các bên trong
quan hệ lao động :

Bảo hộ lao động là hoạt động mang tính xã hội. Thiếu sự tham gia của cá
nhân, đơn vị và tổ chức, công tác bảo hộ lao động không thể triển khai trong thực
tế. Đặc biệt, sự tham gia của các bên trong quan hệ lao động là điều kiện tiên quyết
đảm bảo hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hộ lao động. Vì vậy, nguyên tắc đảm
8
bảo nghĩa vụ bắt buộc của các bên trong việc thực hiện bảo hộ lao động là điều kiện
quan trọng để nâng cao tính khả thi của pháp luật.
Người sử dụng lao động là người đầu tư kinh phí và tổ chức các hoạt động
bảo hộ lao động tại cơ sở. Xét về lợi ích trước mắt, hoạt động này ảnh hưởng đến
lợi nhuận. Nhưng về lâu dài, bảo hộ lao động mang đến những lợi ích quan trọng
như ổn định sản xuất, tăng năng suất lao động, công nhân yên tâm làm việc, giảm
chi phí khắc phục tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Không phải mọi chủ sử
dụng lao động đều ý thức được vấn đề này. Do đó, Nhà nước nhấn mạnh tính chất
bắt buộc trong việc thực hiện các qui định về bảo hộ lao dodọng, coi đây là nghĩa
vụ của người sử dụng lao động và là một trong những điều kiện để họ được phép sử
dụng lao động.
Người lao động là một bên trong quan hệ lao động, là người hưởng lợi trực
tiếp từ việc thực hiện bảo hộ lao động. Nhưng do chưa nhận thức được vấn đề này
một cách nghiêm túc, đôi khi người lao động không tự giác tuân thủ các qui trình
an toàn, vệ sinh lao động; hoặc vì những lợi ích trước mắt (như lương cao, chế độ
phụ cấp kèm theo lương) mà bỏ qua việc thoả thuận “ điều kiện làm việc “ khi kí
kết hợp đồng lao động. Vì vậy, các qui định về bảo hộ lao động cũng đề cập trách
nhiệm của người lao động trong việc thực hiện các qui trình an toàn, vệ sinh lao
động, coi đây là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi người lao động khi tham gia quá
trình sản xuất.
3- Nguyên tắc thực hiện bảo hộ lao động toàn diện và đồng bộ:
Trong quá trình lao động thường tiềm ẩn các yếu tố nguy hiểm, nặng nhọc,
độc hại. Nếu không thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động, tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp có thể xảy ra bất kì lúc nào, tại bất cứ giai đoạn nào của quá trình
lao động. Vì thế, cần đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động từ khi thiết kế, lắp đặt, vận

hành, bảo quản cho đến khi thanh lí các trang thiết bị, máy móc, dây chuyền phục
9
vụ sản xuất. Các biện pháp đảm bảo an toàn, bảo vệ tính mạng, sức khỏe và nhân
cách của con người cần được thực hiện ở mọi nơi diễn ra hoạt động lao động. Thực
hiện bảo hộ lao động một cách đồng bộ và toàn diện vì thế được coi là nguyên tắc
cơ bản của pháp luật.
Nguyên tắc này đòi hỏi bảo hộ lao động phải được thực hiện đầy đủ, tuân thủ
đúng các tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động do Nhà nước qui định. Chỉ
cần thiếu đi một vài phương tiện đảm bảo an toàn, vệ sinh hay bỏ qua một số thao
tác đơn giản, những hậu qủa nghiêm trọng có thể xảy ra. Vì vậy, nguyên tắc thực
hiện bảo hộ lao động toàn diện và đồng bộ là vấn đề cần được đảm bảo trong suất
quá trình lao động.
10
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ LAO ĐỘNG – SO SÁNH GIỮA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT LÀO
I-Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bảo hộ lao động:
1-Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam:
1.1-Các văn bản luật:
+Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ban hành năm 1992 (đã được
sửa đổi bổ sung theo Nghị quyết số: 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001
của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10)
Trong đó, Điều 56 của Hiến pháp quy định: Nhà nước ban hành chính sách,
chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương,
chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nước và những
người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội
khác đối với người lao động.
Các Điều 39, 61, 63 quy định các nội dung khác về bảo hộ lao động.
+Bộ Luật lao động của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được
Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1995 quy định
quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn

lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động, góp phần thúc đẩy sản xuất.
Trong bộ Luật lao động Việt Nam có những chương liên quan đến an toàn, vệ
sinh lao động:
- Chương VII : Quy định thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi.
- Chương IX : Quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
- Chương X : Những quy định riêng đối với lao động nữ.
- Chương XI : Những quy định riêng đối với lao động chưa thành niên và một
số lao động khác.
- Chương XII : Những quy định về bảo hiểm xã hội.
11
- Chương XVI : Những quy định về thanh tra Nhà nước về lao động, xử phạt
vi phạm pháp luật lao động.
+Một số luật, có liên quan đến an toàn vệ sinh lao động
- Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, ban hành năm 1989:
Quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động phải chăm lo, bảo vệ và
tăng cường sức khỏe cho người lao động.
Phải tạo điều kiện cho người lao động được điều dưỡng, nghỉ ngơi, phục hồi
chức năng lao động.
Phải thực hiện đúng các tiêu chuẩn vệ sinh lao động, phải tổ chức khám sức
khỏe định kỳ cho người lao động
Nghiêm cấm việc làm ô nhiễm các nguồn nước sinh hoạt, tránh làm ô nhiễm
đất, nước và không khí...
- Luật bảo vệ môi trường, ban hành năm 2005:
Luật này quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; chính sách, biện pháp và
nguồn lực để bảo vệ môi trường, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân trong bảo vệ môi trường; trong đó có cả các vấn đề liên quan tới môi trường
lao động, an toàn lao động.
-Luật công đoàn ban hành năm 1990:
Trong luật công đoàn quy định trách nhiệm và quyền hạn của công đoàn
trong công tác bảo hộ lao động, từ việc phối hợp nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ

thuật bảo hộ lao động, xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy phạm an toàn lao động,
vệ sinh lao động đến trách nhiệm tuyên truyền giáo dục công tác bảo hộ lao động
cho người lao động, kiểm tra việc chấp hành luật pháp bảo hộ lao động, tham gia
điều tra tai nạn lao động...
1.2-Hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác bảo hộ lao
động:
12
Các văn bản hướng dẫn bao gồm: các nghị định của Chính phủ, các thông tư,
quyết định của các bộ, ngành chức năng, hệ thống các tiêu chuẩn, quy phạm về an
toàn lao động, vệ sinh lao động, các quy trình về an toàn bao gồm: Tiêu chuẩn, quy
phạm cấp Nhà nước, Tiêu chuẩn, quy phạm cấp ngành; Nội quy, quy định của đơn
vị sản xuất ban hành nhằm đảm bảo an toàn cho người lao động. Trong đó, có thể
kể tới:
-Nghị định 06/CP ngày 20/01/1995: Quy định chi tiết một số điều của Bộ
luật Lao động về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
-Nghị định 110/2002/NĐ-CP ngày 27/12/2002: Về việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 06/CP ngày 20/01/1995 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Bộ luật Lao động về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
-Nghị định 23/CP ngày 18/04/1996: Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Bộ Luật Lao động về những quy định riêng đối với lao động nữ.
-Nghị định 113/2004/NĐ-CP ngày 16/04/2004: Quy định xử phạt hành chính
về hành vi vi phạm pháp luật lao động.
-Danh mục tiêu chuẩn: Tiêu chuẩn Việt Nam về An toàn sản xuất; Tiêu
chuẩn Việt Nam về An toàn hóa chất; Tiêu chuẩn Việt Nam về An toàn máy cơ
khí; Tiêu chuẩn Việt Nam về vệ sinh lao động; Tiêu chuẩn Việt Nam về thiết bị bảo
hộ lao động, Tiêu chuẩn Việt Nam về An toàn điện, Tiêu chuẩn Việt Nam về An
toàn cháy nổ.
v…v…
2-Hệ thống văn bản pháp luật của Lào:
2.1-Các văn bản luật:

+Hiến pháp nước CHDCND Lào được ban hành ngày 14 / 08 / 1991 trong đó
có:
13
Điều 16, Điều 54 quy định “ Nhà nước ban hành chế độ chính sách về bảo hộ
lao động, Nhà nước quy định thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, Tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, chế độ bảo hiểm xã hội,..” cho người lao động.
+Bộ luật lao động nước CHDCND Lào ban hành ngày 14/03/1994 và được
sửa đổi, bổ sung ngày 27/12/2006.
-Chương III:Các quy tắc lao động trong đó quy định về thời gian làm
việc, thời gian nghỉ ngơi.
-Chương V: Những quy định riêng đối với lao động nữ và lao động
chưa thành niên.
-Chương VI: Quy định Bảo hộ lao động.
-Chương VIII: Quy định về Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
-Chương IX: Những quy định về An sinh xã hội.
-Chương XIII: Những quy định về quản lý và thanh tra Nhà nước về
lao động, xử phạt phạm vi pháp luật lao động và một số điều có liên
quan ở các chương khác.
+Luât đầu tư nước ngoài nước CHDCND Lào ban hành ngày 15 / 11 / 2004
có quy định tại Điều 13: Quy định nội dung về An toàn lao động, vệ sinh lao động
khi nước ngoài đầu tư vào Lào.
+Luật bảo vệ môi trường nước CHDCND Lào ban hành ngày 03 / 04 / 1999:
Điều 20: Quy định về vấn đề ảnh hưởng tới Sức khoẻ của người lao động.
+Pháp lệnh việc quản lý Nhà nước đối với công tác phòng cháy, chữa cháy
ban hành ngày 24/12/2007, căn cứ theo hiến pháp của nước CHDCND Lào tại mục
VI điều 67 khoản 1 về công nhận công tác phòng cháy chữa cháy.
Pháp lệnh trên quy định người sử dụng lao động trong các cơ sở sản xuất kinh
doanh phải thành lập các đội chữa cháy và trang bị dung cụ phương tiện PCCC
mang tính chất nghĩa vụ và các nhiệm vụ cụ thể
14

+Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân nước CHDCND Lào ban hành ngày
10/03/2001
+Một số điều quy định liên quan đến công tác bảo hộ lao động của pháp lệnh
chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Lào ban hành ngày 08/03/1995.
2.2-Các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác bảo hộ lao động:
2.2.1-Hệ thống các văn bản quy định của Chính phủ và các Bộ, Ngành
chức năng:
-Nghị định 05/QH của quốc hội nước CHDCND Lào, ngày 08/03/1995, quy
định chi tiết một số điều của Bộ lao động về ATVSLĐ.
-Nghị định 02/QH của quốc hội nước CHDCND Lào, ngày 14/12/1994, quy
định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều khoản trong Bộ luật lao động liên
quan tới việc đào tạo và phát triển tay nghề.
-Nghị định 06/QH của quốc hội nước CHDCND Lào, ngày 27/12/2006, quy
định chi tiết hướng dẫn thực hiện trong một số điều khoản trong Bộ luật lao động
liên quan tới thời gian làm việc và nghỉ ngơi.
-Nghị định 02/QH của quốc hội nước CHDCND Lào, ngày 06/05/2003,
hướng dẫn một số điều trong Bộ luật lao động về quy định đối với lao động nữ và
trẻ em.
-Quyết định 481/BTP, bộ tư pháp, ngày 29/11/1999, quy định và hướng dẫn
một số điều về việc chăm sóc sức khoẻ, khám định kỳ hàng năm và tiền bồi thường,
tiền hỗ trợ cho người lao động.
2.2.2-Hệ thống các tiêu chuẩn, quy phạm về ATVSLĐ, hệ thống các quy
trình ATLĐ theo nghề và công nghiệp:
-Tiêu chuẩn, quy phạm cấp Nhà nước, tiêu chuẩn, quy phạm cấp ngành, nội
quy, quy trình của đơn vị sản xuất ban hành trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng quy
định chung cho sát thực hơn, nhằm đảm bảo an toàn cho người lao động.
15
3-So sánh:
Từ những dữ kiện trên, ta có thể thấy điểm tương đồng về các quy định bảo
hộ lao động trong pháp luật Việt Nam và pháp luật Lào, đó là: chế độ bảo hộ lao

động theo pháp luật của cả hai nước đều được ghi nhận trong Hiến pháp – văn bản
pháp lý có giá trị cao nhất; đồng thời, chế độ bảo hộ lao động cũng được cụ thể hóa
thành một chương trong Bộ luật Lao động của Lào và Bộ luật lao động của Việt
Nam, và một số văn bản Luật có liên quan. Đồng thời, các chế độ cụ thể được
hướng dẫn trong các văn bản dưới luật nhằm tạo điều kiện áp dụng thống nhất các
quy định của pháp luật. Có thể nói, mô hình hệ thống văn bản pháp luật về bảo hộ
lao động của Việt Nam và Lào là tương đối giống nhau và có thể khái quát qua mô
hình sau:
Hệ thống Nghị định
hướng dẫn thi hành
Các
thông tư
Hệ thống tổ chức
hoạt động
- Bộ công thương
- Bộ LĐ & TBHX
- Tổng liên đoàn
lao động
Các Chỉ
thị
Luật BVMT
Luật
Công Đoàn
Luật BVSK
nhân dân
HIẾN PHÁP
Các Luật
liên quan
Bộ Luật Lao
Động


16
II-Nội dung pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bảo hộ lao động:
1-Quy định về an toàn lao động – vệ sinh lao động:
*Hệ thống tiêu chuẩn lao động: Theo quy định của pháp luật Việt Nam; có
hai loại tiêu chuẩn là tiêu chuẩn cấp nhà nước (áp dụng đối với mọi đơn vị sử dụng
lao động) và tiêu chuẩn cấp ngành (áp dụng trong phạm vi mỗi ngành kinh tế kĩ
thuật do đặc thù riêng của ngành đó chi phối). Tiêu chuẩn cấp nhà nước do Bộ khoa
học và công nghệ nghiên cứu, xây dựng và ban hành (có sự phối hợp tham gia của
các cơ quan chức năng như Bộ lao động - thương binh và xã hội, Bộ y tế, Tổng liên
đoàn lao động Việt Nam). Tính đến thời điểm hiện nay, Nhà nước Việt Nam đã
thông qua và ban hành hệ thống tiêu chuẩn về an toàn, vệ sinh lao động với trên
150 loại, được áp dụng trong nhiều ngành kinh tế kĩ thuật khác nhau. Trước đây,
các tiêu chuẩn này được gọi chung là các “qui phạm Nhà nước” như: qui phạm nhà
nước về thiết bị áp lực, qui phạm Nhà nước về thiết bị nâng…Hiện nay, các qui
phạm này được gọi chung là “tiêu chuẩn Việt Nam” (ví dụ tiêu chuẩn Việt Nam về
hệ thống lạnh, tiêu chuẩn Việt Nam về các thiết bị chịu áp lực…) và gần đây được
đổi tên thành “Quy chuẩn kỹ thuật”.
Tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh lao động cấp ngành do các bộ, cơ quan ngang bộ
có trách nhiệm xây dựng, ban hành, hướng dẫn áp dụng tại các đơn vị sử dụng lao
động trong phạm vi ngành đó. Thông thường, các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh lao
động do các bộ chuyên ngành ban hành tùy thuộc vào đặc thù nghề nghiệp và điều
kiện lao động của ngành đó. Mục đích của việc áp dụng các tiêu chuẩn an toàn lao
động là hạn chế khả năng phát sinh tai nạn lao động. Việc ban hành tiêu chuẩn lao
động phải có sự tham gia của Bộ lao động - thương binh và xã hội. Mục đích của
việc áp dụng các tiêu chuẩn vệ sinh lao động là hạn chế tỉ lệ người lao động mắc
17
bệnh nghề nghiệp. Việc ban hành các tiêu chuẩn vệ sinh lao động phải có sự tham
gia của Bộ y tế.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật Lào thì chỉ có một loại tiêu chuẩn

được gọi với thuật ngữ “tiêu chuẩn cho phép” do Nhà nước ban hành, với những
quy định chung về các tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động. Còn hệ thống
các tiêu chuẩn cấp ngành tại Lào hiện nay vẫn còn thiếu về số lượng và yếu về chất
lượng.
*Vấn đề trách nhiệm của người sử dụng lao động:
Theo pháp luật Việt Nam:
Bên cạnh việc tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh lao động có tính chất
bắt buộc nêu trên, để đảm bảo thiết lập môi trường lao động thuận lợi, các đơn vị
sử dụng lao động theo pháp luật Việt Nam phải thực hiện thêm những yêu cầu cụ
thể sau đây:
Người sử dụng lao động phải đảm bảo nơi làm việc đạt tiêu chuẩn về không
gian, độ sáng, độ thoáng, đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép về bụi, hơi, khí độc,
phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn, rung và các yếu tố có hại khác. Mục đích
của qui định này nhằm thiết lập nơi làm việc hợp lí, máy móc thiết bị được bố trí
khoa học, phù hợp với trình tự gia công, vận chuyển và đi lại trong quá trình sản
xuất; các chất thải ( gồm rác thải, nước thải, khí thải…) được xử lí đúng tiêu chuẩn
vệ sinh cho phép trước khi đưa ra môi trường bên ngoài…Người sử dụng lao động
phải định kỳ kiểm tra, duy tu bảo dưỡng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng
theo tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động. Người sử dụng lao động phải có
đủ các phương tiện che chắn các bộ phận dễ gây nguy hiểm của máy, thiết bị trong
doanh nghiệp; nơi làm việc, nơi đặt máy, thiết bị, nơi có yếu tố nguy hiểm, độc hại
trong doanh nghiệp, phải bố trí đề phòng sự cố, có bảng chỉ dẫn về an toàn lao
động, vệ sinh lao động đặt ở vị trí mà mọi người dễ thấy, dễ đọc. Bên cạnh việc
tuân thủ các tiêu chuẩn, qui phạm về an toàn lao động, vệ sinh lao động, chủ sử
18
dụng lao động còn phải xây dựng qui chế về bảo hộ lao động, hướng dẫn và áp
dụng thống nhất qui chế này trong toàn đơn vị. Đây được coi là những nghĩa vụ
quan trọng nhất của người sử dụng lao động trong lĩnh vực Bảo hộ lao động, là
biện pháp chủ động phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, bảo vệ sức
khoẻ người lao động và an toàn tài sản của chính người sử dụng lao động. (Điều

95, 97, 98 BLLĐ Việt Nam).
Khi xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo các công trình, cơ sở để sản xuất, sử
dụng, bảo quản, lưu giữ các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm
ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động, chủ đầu tư hoặc người sử dụng lao động
phải lập báo cáo khả thi về các biện pháp đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao
động. Trong báo cáo khả thi phải có những nội dung như: địa điểm, qui mô công
trình, những yếu tố nguy hiểm, có hại, sự cố có thể phát sinh trong quá trình hoạt
động, các giải pháp phòng ngừa, xử lí. Báo cáo phải được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt, được theo dõi và giám sát chặt chẽ trong quá trình thực hiện
(Điều 96 BLLĐ Việt Nam).
Trong trường hợp nơi làm việc, máy móc, thiết bị có nguy cơ gây tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, người sử dụng lao động phải thực hiện ngay những biện
pháp khắc phục hoặc phải ra lệnh ngừng hoạt động tại nơi làm việc và đối với máy,
thiết bị đó cho tới khi nguy cơ được khắc phục. Nơi làm việc có yếu tố nguy hiểm,
độc hại, dễ gây tai nạn lao động phải được người sử dụng lao động trang bị phương
tiện kỹ thuật, y tế và trang bị bảo hộ lao động thích hợp để bảo đảm ứng cứu kịp
thời khi xảy ra sự cố, tai nạn lao động. Người sử dụng lao động phải bảo đảm các
phương tiện bảo vệ cá nhân đạt tiêu chuẩn chất lượng và quy cách theo quy định
của pháp luật. (Điều 99, 100, 101 BLLĐ Việt Nam).
Khi tuyển dụng và sắp xếp lao động, người sử dụng lao động phải căn cứ vào
tiêu chuẩn sức khoẻ quy định cho từng loại việc, tổ chức huấn luyện, hướng dẫn,
thông báo cho người lao động về những quy định, biện pháp làm việc an toàn, vệ
19
sinh và những khả năng tai nạn cần đề phòng trong công việc của từng người lao
động. (Điều 102 BLLĐ Việt Nam).
Theo pháp luật Lào:
Trách nhiệm của người sử dụng lao động trong đảm bảo an toàn lao động –
vệ sinh lao động cũng được quy định trong Bộ luật Lao động của Lào: người sử
dụng lao động có trách nhiệm bảo đảm nơi làm việc, máy móc thiết bị, dụng cụ,
công đoạn sản xuất liên tục, kể cả việc sử dụng các loại hoá chất để đảm bảo an

toàn và không gây ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động.
Người sử dụng lao động phải xây dựng các quy định nội bộ liên quan đến lao
động và bảo vệ sức khỏa, bao gồm cả việc sử dụng các biện pháp cần thiết để bảo
vệ máy móc và cài đặt các thiết bị an toàn khác, với sự đóng góp ý kiến của công
đoàn hoặc người đại diện tập thể lao động trong đơn vị lao động của mình. Các quy
chế này phải được phổ biến cho người lao động biết và đăng tin tại bảng thông báo.
(Điều 42 BLLĐ Lào).
Những vấn đề liên quan đến sức khoẻ người lao động cần phải quản lý chặt
chẽ, điều khoản an toàn lao động và vệ sinh môi trường làm việc cần thiết. Người
sử dụng lao động phải đảm bảo cho người lao động được học hỏi đầy đủ về luật an
toàn lao động, sức khoẻ của họ và nên tổ chức khoá bồi dưỡng về công việc này.
Từ những phân tích trên ta có thể thấy: cả Luật Lao động của Việt Nam và
Luật Lao động của Lào đều có quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động
trong công tác đảm bảo an toàn lao động – vệ sinh lao động. Đặc biệt là trong việc
xây dựng quy chế sản xuất nội bộ và đảm bảo các tiêu chuẩn về không gian, máy
móc, thiết bị, nhà xưởng…Tuy nhiên, có thể thấy rõ là các quy định của Lào vẫn
chưa thật cụ thể, chi tiết về vấn đề này.
*Trách nhiệm của người sử dụng lao động trong trường hợp người lao
động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:
20
Pháp luật Việt Nam quy định rất rõ trường hợp nào là tai nạn lao động và các
loại bệnh nghề nghiệp. Bên cạnh đó, pháp luật lao động cũng quy định trách nhiệm
của người sử dụng lao động như sau:
Người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm về việc để xẩy ra tai nạn lao
động. Người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu
tới khi điều trị xong cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp
Người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 30 tháng tiền
lương và phụ cấp lương (nếu có) cho người lao động bị suy giảm khả năng lao
động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người chết do tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp mà không do lỗi của người lao động.

Ngoài ra người sử dụng lao động còn phải chấp hành nghiêm chỉnh chế độ
khai báo, điều tra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và định kỳ 6 tháng, hàng năm
báo cáo kết quả tình hình an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Còn theo quy định của pháp luật Lào; cụ thể là Bộ luật lao động, Điều 54 có
làm rõ khái niệm về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Trường hợp trong đơn vị lao động xảy ra tai nạn lao động, người sử dụng lao
động phải nhanh chóng giúp đỡ và phù hợp, tiếp theo đó cũng phải báo cáo cho
Công đoàn trong đơn vị lao động của mình biết và lập biên bản về tai nạn lao động
để làm chứng rồi báo cáo cho cơ quan quản lý lao động.
Trong trường hợp tại đơn vị lao động đó chưa có Công đoàn cơ sở ghi biên
bản về xảy ra tai nạn lao động đó thì người sử dụng lao động hoặc người được giao
trách nhiệm phải cử một người đã thấy xảy ra tai nạn lao động đó sẽ làm chứng khi
ghi biên bản.
Theo quy định của pháp luật lao động của Lào, người sử dụng lao động cũng
có trách nhiệm trợ giúp thích hợp cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp; chịu các chi phí thực tế của việc điều trị của người bị tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp.
21
Trường hợp người lao động bị tai nạn lao động nghiêm trọng, bệnh nghề
nghiệp hoặc chết, người sử dụng lao động phải báo cáo cơ quan quản lý lao động
gần nhất trong vòng bốn mươi tám giờ. Nếu người lao động chết, người sử dụng
lao động có trách nhiệm lo chi phí tang lễ cho phù hợp nhưng không thấp hơn mức
sáu tháng tiền lương, hoặc tiền công, tiền thù lao của người đã chết. Đây là quy
định của pháp luật Lào khác với pháp luật Việt Nam.
Ngoài ra, luật Lao động của Lào còn quy định thêm và đây cũng là một điểm
khác biệt với quy định của pháp luật Việt Nam, cụ thể là: trong trường hợp người
sử dụng lao động đã gửi người lao động đi làm việc ở nơi khác mà người lao động
bị chết thì việc chuyển xác hoặc phần còn lại của người chết cho gia đình họ thuộc
trách nhiệm của người sử dụng lao động.
Bên cạnh đó, pháp luật của Lào cũng quy định rõ mức hỗ trợ cho người bị tai

nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nhưng với mức khác so với quy định của pháp luật
Việt Nam.
Trong suốt thời gian điều trị y tế và phục hồi sức khỏe có xác nhận của bác
sỹ, người lao động có quyền được nhận tiền lương hoặc tiền thù lao của mình như
bình thường, nhưng không quá 6 tháng. Nếu thời gian điều trị vượt quá 6 tháng, thì
mỗi tháng vượt quá sẽ được nhận 50% tiền lương nhưng không quá 18 tháng.
Trường hợp người lao động bị tàn tật hoặc bị mất một phần nào đó của cơ
thể do bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp hay chết thì người sử dụng lao
động phải chịu trách nhiệm trả tiền phụ cấp cho người bị tai nạn hoặc người thừa
kế của họ theo quy định.
2-Các biện pháp bảo hộ lao động:
2.1-Trang thiết bị, phương tiện bảo hộ lao động:
Trang thiết bị, phương tiện bảo hộ lao động là một trong những yếu tố đóng
vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo hộ lao động. Trong điều kiện của Việt Nam và
22
cả của Lào, khi mà trang thiết bị còn lạc hậu, khả năng tài chính của doanh nghiệp
còn hạn chế, công tác đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động thường gặp nhiều
khó khăn. Do đó, các doanh nghiệp phải chấp nhận sự tồn tại của các yếu tố nguy
hiểm, độc hại ở mức độ nhất định và hạn chế ảnh hưởng của nó bằng một số biện
pháp khác, trong đó có việc trang bị phương tiện bảo hộ lao động.
*Theo quy định của pháp luật Việt Nam:
Hiện nay, qui định về việc trang bị phương tiện an toàn lao động, vệ sinh lao
động (gọi chung là phương tiện BHLĐ) theo pháp luật Việt Nam được qui định rải
rác ở một số văn bản như: Thông tư 10/1998/TT-BLĐTBXH về Hướng dẫn thực
hiện chế độ trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân; Quyết định 68/2008/QĐ-
BLĐTBXH về Ban hành danh mục trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân cho người
lao động làm nghề, công việc có yếu tố nguy hiểm, độc hại; Quyết định 2013 /
2005/QĐ-BLĐTBXH về Ban hành quy trình kiểm định kỹ thuật an toàn các loại
máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động…
Theo pháp luật hiện hành, có thể chia phương tiện bảo hộ lao động thành hai

loại:
-Các phương tiện kĩ thuật an toàn lao động, vệ sinh lao động chung: thường
được lắp đặt tại nơi sản xuất, có tác dụng hạn chế các yếu tố nguy hiểm, độc hại
trong môi trường lao động, bảo vệ sức khoẻ chung của mọi người lao động tại nơi
sản xuất. Ví dụ như: phanh hãm, máy hút bụi, quạt thông gió, thiết bị cứu hoả…
Nhìn chung, các thiết bị này được các đơn vị sử dụng lao động lắp đặt khá đầy đủ
tại nơi làm việc nhằm đáp ứng yêu cầu của sản xuất nhưng pháp luật lao động lại
chưa qui định chi tiết và cụ thể vấn đề này trong các văn bản pháp luật về BHLĐ.
-Các phương tiện bảo hộ lao động cá nhân: được trang bị cho từng người lao
động, bao gồm nhiều loại, tuỳ thuộc vào mục đích bảo vệ như: kính mắt, mũ bảo
hiểm, găng tay, quần áo bảo hộ, ủng…Người sử dụng lao động phải thực hiện đầy
đủ các qui định về trang thiết bị bảo vệ cá nhân khi không thể hạn chế hết các yếu
23
tố nguy hiểm, độc hại trong môi trường lao động. Nhà nước qui định khá cụ thể về
danh mục trang thiết bị phương tiện bảo vệ cá nhân tương ứng với những điều kiện
lao động cụ thể. Các trang thiết bị bảo vệ lao động cá nhân phải được cấp phát đầy
đủ, theo đúng định kì cho người lao động. Nghiêm cấm người sử dụng lao động cấp
phát tiền thay cho việc cấp phát phương tiện hay trả tiền để người lao động tự mua.
*Theo quy định của pháp luật Lào:
Có thể nói, quy định của pháp luật Lào về vấn đề này còn khá sơ sài, chưa
được cụ thể và chi tiết, cũng như chưa có nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể về trang
thiết bị, phương tiện bảo hộ lao động.
Theo quy định của pháp luật Lào:
Người sử dụng lao động phải cung cấp thiết bị an toàn lao động cho người
lao động , đảm bảo vệ sinh nơi làm việc phải có ánh sang và thông gió cho không
khí, có nhiệt động, có độ rung, có tiếng ổn, có mùi và bụi không quá mức đã được
quy đinh. (Điều 18 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân của Lào).
Những vấn đề liên quan đến trang thiết bị phương tiện bảo hộ lao động cho
người lao động cần phải quản lý chặt chẽ, bao gồm:
- Lắp đặt ánh sáng trung tâm hoặc tạo nguồn ánh sáng tự nhiên, giới hạn

tiếng ồn, thải khí bụi, điều chỉnh chất thải có mùi làm ánh hưởng tới sức khoẻ của
người lao động.
- Trang bị nước uống, nước máy, phòng tắm, phòng cầu, phòng ăn và
phòng thay đồ phải đảm bảo an toàn vệ sinh.
- Tổ chức nơi lưu giữ, tảng giữ nghiên liệu chất độc đảm bảo không bị rò
rỉ.
- Cung cấp thiết bị bảo hộ cá nhân trong ngành làm việc cần thiết phải sử
dụng và quần áo làm việc miễn phí.
-
2.2-Các biện pháp bảo vệ sức khỏe người lao động:
24
2.2.1-Chế độ khám sức khỏe:
Công tác khám sức khoẻ không chỉ nhằm bảo vệ sức khoẻ người lao động,
kịp thời phát hiện và xử lí các trường hợp mắc bệnh nghề nghiệp mà còn giúp
người sử dụng lao động sắp xếp lao động phù hợp, phát huy khả năng làm việc của
người lao động, tăng hiệu quả sử dụng sức lao động.
*Theo quy định của pháp luật Việt Nam:
Theo qui định của pháp luật, khi tuyển dụng lao động, người sử dụng lao
động căn cứ vào tiêu chuẩn sức khoẻ qui định cho từng loại công việc để tổ chức
khám sức khoẻ cho người lao động và bố trí công việc hợp lí. Ngoài ra, trong quá
trình lao động, người lao động còn được khám sức khoẻ định kì theo chế độ qui
định
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc khám sức khoẻ cho người lao động, các
văn bản pháp luật về bảo hộ lao động của Việt Nam đã qui định cụ thể trách nhiệm
của người sử dụng lao động về vấn đề này như sau:
-Người sử dụng lao động phải tổ chức khám sức khoẻ người lao động khi
tuyển dụng lao động hoặc phải yêu cầu người lao động nộp giấy chứng nhận sức
khoẻ của cơ sở y tế nhà nước khi làm thủ tục tuyển dụng. Căn cứ vào kết quả khám
sức khoẻ, người sử dụng lao động bố trí, sắp xếp công việc phù hợp với chuyên
môn và sức khoẻ người lao động. Đặc biệt, đối với những nghề, công việc nặng

nhọc, độc hại, nguy hiểm, việc khám sức khoẻ sẽ góp phần hạn chế tình trạng
người lao động không đủ sức khỏe làm việc hoặc mắc một số bệnh không thể làm
việc trong điều kiện lao động đó.
-Khám sức khoẻ định kì cho người lao động (kể cả người học nghề, tập
nghề) ít nhất 1 lần/ 1 năm, đối với những người làm công việc nặng nhọc, độc hại ít
nhất 6 tháng/1 lần. Các cơ sở sản xuất phải có hồ sơ quản lí sức khoẻ cá nhân và hồ
sơ theo dõi tổng hợp về sức khoẻ người lao động. Những người mắc các bệnh mãn
tính phải được theo dõi, điều trị, điều dưỡng, phục hồi chức năng và sắp xếp công
25

×