CHƯƠNG 7: BỘ NHỚ NGOÀI
50 năm trước đây, ngày 13/9/1956, chiếc ổ cứng
RAMAC (1956) – Chiếc ổ cứng máy tính đầu tiên trên
thế giới đã ra đời, với cấu tạo làm từ 50 lớp đĩa có
đường kính tới... 0,6m, nặng tới 1 tấn và chỉ chứa
được... 5MB dữ liệu.
Sản phẩm RAMAC tích hợp có chiều rộng gấp đôi 2
chiếc tủ lạnh, nhưng lại không cao bằng và nặng 1 tấn.
RAMAC có tổng cộng 50 lớp đĩa có đường kính khoảng
0,6m với tốc độ quay trung bình đạt 1.200 /phút, nhưng
dung lượng lưu trữ chỉ có đúng 5MB, đủ để lưu một bài
hát có độ dài 5 phút được mã hoá chuẩn MP3 128bit.
IBM chỉ cho xuất xưởng đúng 12 chiếc ổ đĩa RAMAC.
Ngày nay, chúng ta có những chiếc ổ đĩa cứng với rất
nhiều kích cỡ và đặc tính khác nhau. Từ chiếc ổ đĩa
cứng nhỏ nhất thế giới của Toshiba với kích thước
khoảng 2cm và dung lượng lưu trữ 2GB và 4GB cho đến
những chiếc ổ đĩa cứng dung lượng khổng lồ 750GB.
Các nhà sản xuất đã tung ra thị trường hàng loạt sản
phẩm ổ đĩa cứng dành riêng cho máy chủ, máy tính để
bàn, máy tính xách tay, máy ghi video, thiết bị nghe
nhạc số… Bạn có thể tìm thấy ổ đĩa cứng ở bất kỳ đâu,
trong một chiếc ô tô, máy bay hay trong các ứng dụng
quân sư. Bên cạnh đó, giá thành của ổ đĩa cứng cũng
đã giảm đí một cách đáng kể. Nếu chiếc dung lượng lưu
trữ trong ổ cứng RAMAC của IBM có giá
10.000USD/MB, thì những chiếc ổ cứng ngày nay chỉ có
giá 0,03 cent/MB.
Những cột mốc trong tiến trình phát triển ổ đĩa cứng
1956 Ổ cứng IBM RAMAC 350 với 50 lớp đĩa có đường kính 24inch
1962 IBM sản xuất thành công hệ thống lưu trữ kết hợp 6 ổ đĩa cứng 14inch,
mỗi ổ có dung lượng lưu trữ 2MB.
1979 IBM sản xuất thành công ổ đĩa cứng 8inch.
1980 Ổ đĩa cứng 5.25inch Winchester lần đầu tiên ra mắt. Thiết kế của loại ổ
đĩa này đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của thị trường PC.
1983 Rodine ra mắt ổ đĩa cứng 10MB 3.25inch. Kích thước ổ đĩa này hiện vẫn
là kích thước chuẩn của ổ đĩa cứng hiện nay.
1988 PrairieTek ra mắt ổ đĩa cứng 2.5inch 20MB. Kích thước của ổ đĩa này
hiện là kích thước chuẩn ổ đĩa cứng dành cho laptop hiện nay.
1991 Integrated Peripherals ra mắt ổ đĩa 1.8inch. Loại ổ đĩa này chỉ thực sự
được biết đến khi Apple tung ra chiếc iPod đầu tiên khoảng 10 năm trước
đây.
1992 HewlettPackard ra mắt ổ đĩa cứng 1.3inch.
1999 IBM ra mắt ổ đĩa cứng "tí hon" 1inch 340MB. Dung lượng loại ổ này
hiện đã lên tới 8GB
2004 Toshiba thu nhỏ kích thước ổ đĩa cứng xuống còn 0.85 inch. Đây được
7.1 ĐĨA TỪ
Đĩa từ là một tấm kim loại/nhựa hình tròn có bề mặt phủ vật
liệu từ tính. Dữ liệu được ghi lên/đọc ra từ đĩa thông qua một
thiết bị gọi là đầu đọc. Trong khi có thao tác đọc/ghi, đầu đọc
đứng yên và tấm đĩa quay liên tục bên dưới nó.
Cơ chế ghi dựa trên từ trường sinh bởi dòng điện đi qua ống
xoắn. Các xung động được gửi đến đầu đọc, sau đó những
khuôn dạng từ khác nhau ứng với các dòng điện âm/dương
sẽ được ghi lên bề mặt đĩa ở bên dưới.
Cơ chế đọc dựa trên dòng điện trong ống xoắn vốn được
sinh bởi sự dịch chuyển từ trường quanh nó. Khi bề mặt đĩa
đi qua dưới đầu đọc, nó sẽ sinh ra một dòng điện có cùng
cực với dòng đã được ghi trước đó.
TỔ CHỨC VÀ ĐỊNH DẠNG DỮ LIỆU
Đầu đọc là một thiết bị tương đối nhỏ có khả năng đọc/ghi
từ/lên một phần của tấm đĩa quay bên dưới. Điều này dẫn
đến việc tổ chức dữ liệu trên đĩa theo dạng một tập hợp các
vòng tròn đồng tâm gọi là các track (rãnh). Mỗi track có cùng
độ rộng như đầu đọc.
Các rãnh kề nhau được phân biệt bằng các gap (khoảng
trống), nhờ đó ngăn chặn ở mức tối thiểu các sai sót do sự
canh biên không chính xác của đầu đọc hoặc nhiễu của các
trường điện từ. Để đơn giản hóa về mặt điện tử, mỗi track có
số bit thông tin bằng nhau. Do đó dộ trù mật tính theo số bit
trên mỗi inch tuyến tính sẽ tăng lên khi chúng ta đi từ track xa
nhất bên ngoài vào đến track gần nhất bên trong đĩa.
Tổ chức dữ liệu trên đĩa
Như đã đề cập đến trong các chương trước, dữ liệu
được chuyển đến và đi khỏi đĩa theo từng khối một.
Thông thường kích thước của một khối dữ liệu nhỏ
hơn dung lượng của track. Cụ thể hơn, dữ liệu
được lưu trong các vùng có kích thước khối gọi là
sector (cung). Trên mỗi track thường có từ 10 đến
100 sector dữ liệu và chúng có thể có độ dài cố
định hay thay đổi. Để tránh những sai sót về độ
chính xác có thể xảy ra trong hệ thống, các sector
liền nhau được tách biệt bởi các gap liên track (liên
– bản ghi).
Với cách tổ chức như vậy, để xác định từng sector
trong track, cần phải có một điểm bắt đầu của track
cũng như cách thức nhận biết điểm bắt đầu và kết
thúc của một sector. Các yêu cầu này được quản lý
thông qua dữ liệu điều khiển đã được ghi lên đĩa.
Do vậy đĩa sẽ được định dạng với một số dữ liệu
phụ đi kèm và chỉ được sử dụng bởi ổ đĩa. Người
sử dụng không thể truy cập đến những dữ liệu này
CÁC ĐẶC TRƯNG CHÍNH
Những đặc trưng chính của đĩa bao gồm:
Sự di chuyển của đầu đọc
Tính khả chuyển của đĩa
Các mặt đĩa
Các tấm đĩa
Cơ chế làm việc của đầu đọc
SỰ DI CHUYỂN CỦA ĐẦU ĐỌC
Đầu đọc có thể được giữ cố định hoặc di
chuyển theo hướng tâm đĩa. Với đầu đọc cố
định, có một đầu đọc/ghi cho mỗi track. Tất cả
các đầu đọc được gắn lên một tay đòn kéo dài
qua tất cả các track trên đĩa. Với đầu đọc có thể
di chuyển, chỉ có một đầu đọc/ghi duy nhất. Ở
đây đầu đọc cũng được gắn lên một tay đòn có
thể kéo dài hoặc thu ngắn ứng với vị trí của
track cần truy cập trên đĩa. Hình 5.2 mô tả các
loại đầu đọc cố định và không cố định.
Tính khả chuyển của đĩa
Bản thân đĩa thường được gắn vào trong một ổ đĩa với
một tay đòn, một động cơ quay đĩa cũng như các mạch
điện tử cần thiết cho việc nhập/xuất dữ liệu nhị phân.
Đĩa không thể tháo rời được gắn vĩnh viễn vào trong ổ
đĩa trong khi ổ đĩa có thể tháo rời có thể lấy ra và thay
thế bằng một ổ đĩa khác.
Lợi ích của loại đĩa có thể tháo rời là khả năng cung cấp
một lượng dữ liệu không có giới hạn trên một hệ thống
giới hạn các ổ đĩa. Hơn nữa đĩa đó còn có thể di chuyển
từ máy tính này sang máy tính khác.
Các mặt đĩa
Hầu hết các đĩa đều có 2 mặt trừ một số loại cũ
chỉ có 1 mặt.
Số các tấm đĩa
Một số ổ đĩa cho phép xếp chồng nhiều đĩa
theo chiều thẳng đứng với nhiều tay đòn được
cung cấp. Các tấm đĩa như thế được tổ chức
theo đơn vị disk pack (gói đĩa).
Cơ chế làm việc của đầu đọc
Cơ chế làm việc của đầu đọc trong thao tác đọc/ghi
cho phép phân loại đĩa rất rõ ràng. Chúng ta có ba
cơ chế như sau:
Cơ chế 1: giữ đầu đọc ở một khoảng cách cố
định với bề mặt đĩa
Cơ chế 2: cho phép tiếp xúc về mặt vật lý giữa
đầu đọc với bề mặt đĩa
Cơ chế 3: khoảng cách giữa đầu đọc với bề mặt
đĩa có thể thay đổi trong quá trình đọc/ghi.
Để hiểu rõ cơ chế 3 nói trên, chúng ta cần tìm hiểu về
mối quan hệ giữa độ trù mật dữ liệu và kích thước của
khối không khí trống giữa đầu đọc và bề mặt đĩa bên
dưới nó
Đầu đọc phải sinh ra một trường điện từ đủ lớn để
đọc/ghi một cách chính xác. Đầu đọc càng hẹp thì nó
càng phải ở gần bề mặt đĩa hơn để hoạt động. Đầu đọc
hẹp hơn dẫn đến bề rộng track nhỏ hơn và do vậy độ
trù mật dữ liệu tăng lên rất nhiều.
Tuy nhiên, khi đầu đọc càng gần bề mặt đĩa, nguy cơ
pha tạp và không chính xác về dữ liệu càng lớn.
Nhằm đẩy kỹ thuật đĩa lên một bước xa hơn, người ta
đã chế tạo ra ổ đĩa Winchester. Các đầu đọc
Winchester được sử dụng trong các ổ đĩa gần như
không có tác nhân tạp chất. Chúng được thiết kế để
hoạt động gần hơn với bề mặt đĩa. Do đó cho phép làm
tăng độ trù mật của dữ liệu trên đĩa.
Đầu đọc có dạng một lá khí động học nằm trên bề mặt
đĩa khi đĩa không chuyển động. Áp suất không khí sinh
bởi đĩa xoay tròn đủ làm cho lá rút lên khỏi bề mặt đĩa.
Phần hệ thống không tiếp xúc với đĩa có thể được chế
tạo để sử dụng với những đầu đọc kiểu mới này.
THỜI GIAN TRUY CẬP ĐĨA
Khi ổ đĩa hoạt động, đĩa quay với vận tốc không đổi.
Để đọc hoặc ghi, đầu đọc định vị track cần truy cập
và tại đầu của sector cần thao tác trên track đó. Việc
chọn track bao gồm việc di chuyển đầu đọc (trong hệ
thống đầu đọc di chuyển) hay lựa chọn một cách điện
tử một đầu đọc/ghi (trong hệ thống có đầu đọc cố
định).
Với hệ thống có đầu đọc di chuyển được, thời gian
cần để định vị track được gọi là thời gian tìm kiếm
(seek time). Trong hai trường hợp, khi track đã được
chọn, hệ thống chờ sector thích hợp quay đến bên
dưới đầu đọc. Thời gian cần thiết để sector quay
đến dưới đầu đọc này gọi là độ trễ quay (rotational
latency).
Tổng thời gian tìm kiếm và độ trễ quay được gọi là
thời gian truy cập, hay thời gian cần thiết để định vị
dữ liệu cần đọc/ghi. Khi đầu đọc đã ở đúng vị trí,
thao tác đọc/ghi sẽ được thực hiện ngay khi sector
di chuyển dưới đầu đọc.
7.2 BỘ NHỚ QUANG HỌC
Với sự ra đời của đĩa CD (Compact Disk) vào năm
1983, sự phát triển của công nghệ lưu trữ đĩa bằng
kỹ thuật quang học với giá thành thấp đã tiến thêm
một bước đáng kể và hứa hẹn sẽ tạo ra một cuộc
cách mạng hóa trong việc lưu trữ dữ liệu trên máy
tính.
Trong những năm vừa qua, nhiều dạng hệ thống
đĩa quang học đã được phát minh và ngày càng
được sử dụng phổ biến trong nhiều ứng dụng máy
tính.
BỘ NHỚ QUANG HỌC
CD
CD Viết tắt của từ Compact Disk. Đây là loại đĩa
không thể xóa được, dùng để lưu trữ thông tin
âm thanh đã được số hóa. Hệ thống thông
thường sử dụng các đĩa có đường kính 12 cm
và có thể dùng để ghi hơn 60 phút âm thanh
được phát liên tục.
CD-ROM
Viết tắt của cụm từ Compact Disk
ReadOnly Memory. Đây là loại đĩa không thể
xóa được, dùng để lưu trữ dữ liệu máy tính. Hệ
thống thông thường sử dụng các đĩa có đường
kính 12 cm và có thể dùng để chứa hơn 550
megabyte dữ liệu.
CD-I
Viết tắt của cụm từ Compact Disk
Interactive. Đây là một đặc tả dựa trên
việc sử dụng CDROM. Nó mô tả các
phương pháp cung cấp âm thanh, video,
hình ảnh đồ họa, văn bản, và các mã
chương trình thực thi được trên CDROM.