Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

tiểu luận cao học môn xây dựng đảng về chính trị- giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác lý luận hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.96 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
Lý luận là căn cứ khoa học nhằm lý giải những vấn đề phát sinh từ
thực tiễn. Công cuộc xây dựng và phát triển đất nước vận động không ngừng
trong một thế giới toàn cầu hóa, biến đổi nhanh chóng khó lường, nhiều vấn
đề mới phát sinh, đòi hỏi phải được lý giải, chỉ ra thực chất, xu hướng vận
động, thái độ ứng xử và giải pháp giải quyết. Thực tiễn muôn màu, nhiều
chiều, luôn vận động và biến đổi, trong khi lý luận thường không bao hàm
hết tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, do vậy, lý luận cần liên tục được bổ
sung, hoàn thiện. Nếu hệ thống lý luận bất biến, xơ cứng, không được bổ
sung, hoàn thiện sẽ không thể lý giải được những vấn đề thực tiễn phát sinh,
không làm tròn sứ mệnh dẫn đường của mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
toàn bộ hoạt động thực tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng, phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, sự tiếp nối những giá trị truyền thống của dân
tộc trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt
Nam.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc trước đây, do nắm vững, vận
dụng sáng tạo và luôn bổ sung, phát triển lý luận cách mạng, Đảng ta đã đề
ra chiến lược và sách lược đúng đắn, lãnh đạo nhân dân ta giành những
thắng lợi to lớn, mở ra một kỷ nguyên phát triển mới cho dân tộc. Tuy nhiên,
có những thời kỳ lịch sử, do hạn chế về nhận thức lý luận, chúng ta đã đề ra
một số chủ trương, chính sách chưa phù hợp với thực tiễn cách mạng của đất
nước, làm cho sự nghiệp cách mạng gặp không ít khó khăn.
Do chậm đổi mới về lý luận, nhất là những hạn chế về công tác nghiên
cứu, phát triển lý luận, có thời kỳ chúng ta đã có những nhận thức chưa phù
hợp về những vấn đề căn bản của CNXH và con đường đi lên CNXH. Một


số chủ trương nóng vội hoặc vận dụng máy móc những nguyên lý lý luận,
mô hình có sẵn làm chậm tiến trình phát triển của đất nước, thậm chí có


những thời điểm đất nước rơi vào tình thế khủng hoảng trầm trọng. Sớm
nhận ra nguyên nhân và hậu quả sự lạc hậu về mặt lý luận, Đảng ta đã khởi
xướng quá trình đổi mới tư duy với dấu mốc là Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI (1986). Có thể khẳng định, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
sau hơn một phần tư thế kỷ thực hiện đường lối đổi mới vừa qua là lôgích tất
yếu và gắn bó hữu cơ với việc kiên quyết gạt bỏ lối tư duy rập khuôn, máy
móc để vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Những thành tựu đạt được qua hơn 25 năm qua khẳng định vai trò,
tầm quan trọng của lý luận. Công tác lý luận và đổi mới tư duy lý luận vừa là
tiền đề, vừa là nền tảng khoa học không thể bác bỏ trong công cuộc đổi mới.
Ngày nay, đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới - giai đoạn đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế được nâng lên tầm cao mới,
tạo tiền đề để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Giai đoạn phát triển tiếp theo của nước ta được đặt
trong bối cảnh trong nước và quốc tế có những biến đổi sâu sắc: hòa bình,
hợp tác vẫn là xu hướng chủ đạo nhưng những bất ổn chính trị, những xung
đột sắc tộc, tôn giáo, đấu tranh vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, tranh
chấp tiếp tục diễn ra; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri
thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự
phát triển của nhiều nước; hậu khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng
hoảng nợ công đặt ra những thách thức đối với các nước tư bản phát triển;
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có dấu hiệu hồi phục nhưng chưa
rõ ràng; tình hình kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi tái cơ cấu
tổng thể nền kinh tế... tất cả các yếu tố đó đặt Việt Nam trước những thử


thách to lớn, đồng thời cũng mang lại những cơ hội, những thuận lợi để nước
ta vươn tới tầm cao mới nếu có những chiến lược, chính sách phù hợp nhằm
tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Trong bối cảnh đó, công tác lý luận và

nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, chưa theo kịp với những
diễn biến đa chiều, phức tạp, nhanh chóng của tình hình trong nước và quốc
tế. Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ nguyên nhân trực tiếp của những yếu kém
trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X là “Công tác nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu”.
Như vậy, đổi mới công tác lý luận, nghiên cứu, phát triển lý luận là
đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn phát triển của đất nước. Để lý luận trở thành cơ
sở khoa học, cung cấp các luận cứ khoa học cho các quyết định chính trị,
hoạch định chiến lược, chính sách, đồng thời là tiếng nói tư vấn, phản biện
cho quá trình này thì công tác lý luận cần thường xuyên đổi mới, phát triển,
phát hiện, lý giải và tìm lời giải đáp cho những vấn đề đặt ra từ thực tiễn.


NỘI DUNG
I. Thực trạng về thành tựu và những hạn chế công tác lý luận
Để làm tròn sứ mệnh lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của mình ngang tầm với những đòi hỏi trước tình hình mới, Đảng
ta cần tự đổi mới và tự chỉnh đốn, trước hết phải nâng cao trình độ trí
tuệ, tính tiền phong về lý luận, bởi “chỉ đảng nào được một lý luận tiền
phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền
phong”(1).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh; vấn đề
quan trọng trước hết là phải tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao trí tuệ của
Đảng lên một bước phát triển mới. Hơn lúc nào hết, muốn lãnh đạo công
cuộc đổi mới đi đến thắng lợi, Đảng ta phải nâng cao trình độ hiểu biết và
năng lực tổ chức thực tiễn, từ việc phát hiện và nắm vững quy luật vận động
của đời sống xã hội ta, của bản thân Đảng, cho đến hiểu biết về thế giới, về
thời đại.
Đảng làm giàu trí tuệ của mình bằng cách không ngừng nâng cao trình
độ lý luận, nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng tổng kết kinh nghiệm

thực tiễn sinh động. Phát triển công tác lý luận của Đảng bằng cách tổng kết
thực tiễn, tổng kết những cái mới đang hằng ngày, hằng giờ nảy sinh trong
đời sống đất nước và cả thế giới, tiếp thụ những thành quả trí tuệ của loài
người, đó là phương hướng cơ bản để làm giàu trí tuệ của Đảng, để hoàn
chỉnh và phát triển đường lối của Đảng.
Từ cuối những năm 70 đầu những năm 80, đặc biệt từ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đến nay, đã có những tiến bộ rất đáng
kể trên lĩnh vực công tác lý luận. Đó là những bước tiến theo hướng đổi mới
tư duy lý luận về CNXH và về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, khắc


phục chủ nghĩa giáo điều, bệnh chủ quan duy ý chí, gắn bó lý luận với thực
tiễn đất nước, đặc điểm dân tộc và với những đặc điểm của thế giới trong
giai đoạn hiện nay.
Chuyển động đầu tiên trong đổi mới tư duy lý luận được đánh dấu
bằng Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (1979), một nghị quyết
được mọi người nhớ rõ và thường nhắc đến với cái tên nôm na mà đúng thực
chất: “nghị quyết làm cho sản xuất bung ra”. Nghị quyết Đại hội V của Đảng
(3-1982) ghi thêm một bước tiến mới về tư duy lý luận, nhất là trên vấn đề
cơ cấu kinh tế, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Với Đại hội VI của
Đảng (12-1986) thì bước ngoặt căn bản đã được thực hiện. Đại hội VI đi vào
lịch sử là “Đại hội đổi mới” - đổi mới toàn diện đời sống và hoạt động xã hội
với bước đi thích hợp, lấy đổi mới tư duy lý luận làm tiền đề, trước hết là đổi
mới tư duy kinh tế.
Đi nhanh vào cuộc sống, tư duy mới của Đại hội VI chẳng những
được thực tiễn chứng minh hoàn toàn đúng, mà còn được cụ thể hoá, phát
triển, làm sâu sắc và nâng cao thêm bằng những kinh nghiệm mới, trên cơ sở
đó hình thành những đường nét lớn xác định con đường quá độ lên CNXH ở
nước ta và điều này được phản ánh tập trung trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vàChiến lược ổn định và

phát triển kinh tế -xã hội đến năm 2000 được thông qua tại Đại hội VII của
Đảng. Trong nỗ lực trí tuệ chung của toàn Đảng, có phần đóng góp xứng
đáng của đội ngũ cán bộ lý luận và khoa học xã hội.
Được cổ vũ và chỉ đạo bởi tư duy mới của Đảng, nhiều cán bộ lý luận
và khoa học xã hội hăng hái thâm nhập cuộc sống, đi vào những vấn đề nhận
thức và thực tiễn gai góc, tham gia tích cực quá trình đổi mới tư duy, luận
chứng khoa học cho đường lối đổi mới, kết hợp ngày càng chặt chẽ với các
cơ quan chỉ đạo thực tiễn trong việc chuẩn bị và đề ra các chính sách. Đời


sống tư tưởng - lý luận ở nước ta hơn hai thập kỷ qua rõ ràng có bước khởi
sắc. Các luận văn khoa học, các bài báo, các công trình nghiên cứu lý luận
xuất hiện ngày càng nhiều. Các hội thảo khoa học được mở ra liên tục đã
nâng cao bầu không khí dân chủ, tự do tìm tòi, sáng tạo, thảo luận, tranh
luận trong khoa học. Trên các diễn đàn và ấn phẩm khoa học xuất hiện nhiều
ý kiến phong phú, đa dạng, thể hiện những cố gắng tìm tòi, đổi mới tư duy
và phương pháp tiếp cận các vấn đề lý luận và thực tiễn, khắc phục và loại
bỏ dần chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh viện, bệnh hời hợt và lối suy
nghĩ giản đơn, một chiều.
Tuy nhiên, những tiến bộ trên còn hết sức khiêm tốn. Hiện trạng lý
luận còn bề bộn, ngổn ngang. Còn nhiều câu hỏi đặt ra đòi hỏi câu trả lời.
Những gì đạt được còn rất ít so với những gì cần phải đạt. Lý luận chưa ra
khỏi tình trạng lạc hậu, chậm trễ so với thực tiễn.
Điều dễ thấy là số lượng tạp chí lý luận, số công trình nghiên cứu của
cá nhân và các tập thể khoa học không ít lắm, song rất ít công trình có trọng
lượng khoa học lớn, gây được tiếng vang. Rất ít công trình dài hơi, nghiên
cứu mỗi vấn đề thật đến nơi đến chốn. Điều đó nói lên trình độ khoa học của
chúng ta còn hạn chế, các nhà khoa học có tầm cỡ rất ít, tiềm lực lý luận của
chúng ta nói chung còn mỏng. Mỏng đến nỗi có vấn đề khi người này nói thì
người khác hầu như không thể nói gì hơn; có trường hợp cần đấu tranh, phê

phán thì chỉ được mấy bài là “hết vốn”. Trên nhiều vấn đề, sự phê phán cái
cũ đã quá đủ song những đề xuất và kiến giải mới lại quá ít. Có tình hình
trước đây anh em thường trách Đảng không sử dụng đội ngũ cán bộ lý luận
vào quá trình chuẩn bị các chính sách; nhưng gần đây đơn đặt hàng xã hội
được Đảng và các cơ quan thực tiễn gửi tới các cơ quan khoa học và các nhà
khoa học không ít, song rất tiếc, sự đáp ứng của chúng ta xem ra khá chật


vật. Đó là một bằng chứng về sự bất cập của đội ngũ lý luận, không thể nói
khác.
Về tổng kết thực tiễn, chúng ta mới làm được quá ít. Chưa có sự quan
tâm đúng mức từ phía các cấp uỷ đảng và lãnh đạo các ngành thực tiễn cũng
như từ phía các cơ quan lý luận. Những việc có làm thì trình độ phân tích,
tổng hợp và khái quát chưa cao, chưa đạt mức có thể từ tổng kết đưa ra được
những dự báo cần thiết về các quá trình phát triển và đề xuất các giải pháp
xác đáng.
Về đấu tranh trên mặt trận tư tưởng - lý luận, nhiều cơ quan khoa học
và tập thể khoa học chưa đặt đúng tầm quan trọng của vấn đề, còn ngại đấu
tranh, dung hoà, tránh né. Cũng đã tiến hành được vài đợt đấu tranh rất đáng
hoan nghênh, song ở một số bài cần nâng cao hơn chất lượng và tính thuyết
phục. Điều quan trọng nữa là cần tiến hành đấu tranh thường xuyên và với
sự tham gia đông đảo hơn của đội ngũ cán bộ lý luận. Ở đây rất cần không
chỉ trí tuệ mà cả dũng khí và niềm tin sắt đá.
Đánh giá thực trạng công tác lý luận không thể không đề cập đội ngũ
cán bộ. Đội ngũ cán bộ lý luận của ta nói chung có phẩm chất chính trị tốt,
trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. Mấy năm nay,
đội ngũ này được bổ sung khá nhiều bằng những lực lượng trẻ, được đào tạo
khá hệ thống. Tuy nhiên, tình trạng vẫn là đông nhưng không mạnh. Đó là
do trong đào tạo có nhiều nhược điểm, từ khâu tuyển sinh đến nội dung
chương trình, chất lượng giảng dạy; do những khuyết điểm trong các chính

sách, chế độ sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ, tạo những điều kiện cần thiết cho
nghiên cứu khoa học, cho sự phát triển tài năng. Sự thiếu hoài bão lớn, thiếu
say sưa và thiếu nỗ lực trí tuệ ở không ít cán bộ lý luận cũng là một nguyên
nhân quan trọng. Hệ thống tổ chức nghiên cứu và quản lý công tác nghiên
cứu vừa phân tán, vừa trùng lặp, thiếu sự phân công và phối hợp; chưa chú ý


xây dựng các ngành khoa học trọng điểm và đội ngũ cán bộ đầu đàn; thiếu
sự chỉ đạo tập trung thống nhất. Kinh phí đầu tư cho khoa học xã hội và
nghiên cứu lý luận còn ít.
I. Những nhiệm vụ và hướng nghiên cứu lý luận chủ yếu
Nhiệm vụ công tác lý luận là phục vụ việc tiếp tục đổi mới tư duy, xây
dựng luận cứ khoa học về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam,
về các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; bồi dưỡng thế giới
quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân, đặc biệt là lớp trẻ; tăng cường trận địa tư tưởng XHCN, củng cố niềm
tin vào lý tưởng, phê phán những quan điểm lệch lạc, đấu tranh chống những
trào lưu tư tưởng - lý luận sai trái và thù địch, góp phần bảo vệ sự nghiệp
cách mạng của Đảng và của nhân dân, bảo vệ Tổ quốc và CNXH; phát triển
đội ngũ cán bộ lý luận với phẩm chất chính trị và trình độ khoa học cao đủ
sức đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ trước mắt, đồng thời chuẩn bị tiềm lực
lý luận cho bước phát triển sau này của đất nước.
Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay, cần đặc biệt nhấn mạnh:
tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, đi sâu tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận
một cách sáng tạo, trước hết là tổng kết có lý luận những kinh nghiệm cơ
bản trong công cuộc đổi mới nhằm làm sáng tỏ hơn nữa căn cứ khoa học và
thực tiễn của việc xây dựng mô hình về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
dưới ánh sáng Cương lĩnh mới (bổ sung và phát triển) và Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội được thông qua tại Đại hội XI của Đảng.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ nêu trên, công tác lý luận trong giai đoạn

hiện nay cần tập trung vào những hướng nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Khẳng định và làm rõ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, làm rõ những vấn đề cần nhận thức lại, những vấn đề cần tiếp tục bổ
sung, điều chỉnh và phát triển trên cơ sở tổng kết và khái quát những kinh


nghiệm thực tiễn mới và những thành tựu của khoa học hiện đại. Nghiên cứu
một cách toàn diện và có hệ thống tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, đồng thời chú trọng nghiên cứu những tinh hoa trí tuệ của dân tộc.
Đối với những học thuyết khác về xã hội (ngoài chủ nghĩa Mác - Lênin) cần
được nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng, có phê phán. Kiên
quyết đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều cũng như chống chủ nghĩa xét lại,
chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc.
- Nghiên cứu những kinh nghiệm lịch sử hơn 70 năm của CNXH hiện
thực, những bài học rút ra từ những cuộc cải tổ và sụp đổ chế độ XHCN ở
Liên Xô và các nước Đông Âu. Chú trọng nghiên cứu những vấn đề về thời
đại, về CNTB hiện đại, về toàn cầu hóa và những biến đổi trong các quan hệ
quốc tế, về trật tự thế giới mới, dự báo xu hướng phát triển của phong trào
cánh tả, cộng sản và công nhân thế giới và khu vực trong những thập kỷ tới.
- Tiếp tục đi sâu nghiên cứu, phát triển và hoàn chỉnh hệ thống những
luận cứ khoa học của sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở nước ta. Phát
hiện những xu hướng, tính quy luật, các mâu thuẫn và động lực, hình thức và
bước đi của con đường phát triển ấy. Làm rõ bản chất và những đặc trưng
của mô hình CNXH ở Việt Nam. Trên những cơ sở đó, công tác lý luận góp
phần làm sáng tỏ nền tảng và cơ sở khoa học của Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 do Đại hội XI của
Đảng đề ra.
- Trong các chương trình nghiên cứu phải đặc biệt quan tâm những
vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, về kinh tế thị trường
nhiều thành phần định hướng XHCN; về cơ cấu kinh tế đa sở hữu và vai trò

chủ đạo của kinh tế nhà nước; về kinh tế tập thể; về vai trò kinh tế tư nhân
và định hướng XHCN trong khu vực này, v.v.; về cơ chế quản lý kết hợp kế


hoạch và thị trường; những vấn đề về chống lạm phát, về tài chính, tiền tệ,
tín dụng, giá cả; về chế độ sở hữu và chế độ phân phối trong thời kỳ quá độ;
về quan hệ giữa sở hữu với sử dụng tư liệu sản xuất và tổ chức quản lý sản
xuất; về mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; về cơ cấu xã hội và chính sách
xã hội; về giai cấp và đấu tranh giữa “hai con đường” trong thời kỳ quá độ.
- Nghiên cứu làm rõ những quan điểm về đổi mới hệ thống chính trị;
cụ thể hóa các hình thức quan hệ đúng đắn giữa Đảng, Nhà nước với các
đoàn thể nhân dân; xây dựng nền dân chủ XHCN, trong đó trung tâm là vấn
đề xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng lãnh đạo Nhà nước, xây dựng chính
quyền của dân, do dân, vì dân, xây dựng nền pháp chế và sự quản lý xã hội
bằng pháp luật.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, những
vấn đề về phát huy nhân tố con người, về đạo đức, lối sống, tư tưởng, nghệ
thuật, tôn giáo, dân tộc... trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần và mở rộng giao lưu quốc tế. Xây dựng cơ sở lý luận cho
việc hình thành nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và
con người Việt Nam trong thời đại mới.
- Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội
ta, nâng cao giác ngộ lý tưởng và niềm tin cho đảng viên, đoàn viên thanh
niên và nhân dân.
- Tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận theo yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng CNXH và không ngừng đổi mới. Khắc phục chủ
nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, bảo thủ, đồng thời chống chủ

nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc và chủ nghĩa xét lại.


- Nghiên cứu lý luận phục vụ công tác quốc phòng, an ninh nhằm bảo
vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh
thổ; tăng cường ổn định chính trị, đánh thắng âm mưu và thủ đoạn “diễn
biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động.
III. Phương châm lớn chỉ đạo hoạt động lý luận
Có ba phương châm lớn chỉ đạo hoạt động lý luận, ở đây đề cập mấy
nội dung chủ yếu nhất:
1.Quán triệt bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện cho được sự thống nhất giữa tính
khoa học với tính đảng, giữa khoa học với chính trị trong hoạt động lý luận.
Một thời gian dài chúng ta dường như đồng nhất chính trị với lý luận.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, sự đồng nhất này cố nhiên cũng không
đúng, nhưng dù sao lúc ấy có lý do khách quan nhất định cho sự đồng nhất
trên mức độ nào đó mà không gây tổn hại cho cả lý luận, cả chính trị. Vấn đề
ở chỗ: đấu tranh chính trị, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc khi cách
mạng chưa có chính quyền tự nó có thể dựa trực tiếp vào những nguyên tắc
lý luận cách mạng; ngược lại, từ những nguyên tắc lý luận cách mạng có thể
trực tiếp giải quyết những vấn đề chính trị thực tiễn. Chẳng hạn, lý luận về
tình thế cách mạng, về bạo lực cách mạng, về khởi nghĩa giành chính quyền,
v.v. được trực tiếp rút ra từ thực tiễn chính trị và có thể được ứng dụng trực
tiếp vào chính trị thực tiễn. Ta biết rằng, tuyệt đại bộ phận các văn phẩm của
Lênin khó mà nói đó là văn kiện chính trị hay là tác phẩm lý luận. Đương
nhiên, những cuốn như Bút ký triết học, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán, v.v. thì khỏi tranh cãi và tính lý luận của những tác
phẩm ấy đã quá hiển nhiên.
Sang cách mạng XHCN, giữa lý luận khoa học với chính trị xây dựng
CNXH vẫn có mối liên hệ bản chất, nhưng không phải bao giờ và trên bất cứ



vấn đề gì cũng trực tiếp và dễ thấy như trước. Trong đấu tranh cách mạng
khi chưa có chính quyền, cố nhiên sự vật và các quá trình cũng không hề
đơn giản, nhưng dù sao chung quy lại vẫn chỉ là sự đối đầu giữa hai dòng lý
luận cách mạng và phản cách mạng. Còn công cuộc xây dựng CNXH thì cực
kỳ phức tạp, diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống và hoạt động xã hội. Đối
tượng nhận thức và tác động ở đây là những hệ cấu trúc, những quá trình cực
kỳ đa dạng và phức tạp, nhiều tầng nấc, là những quan hệ chằng chịt, muôn
hình, muôn vẻ... Do đó, ở đây đòi hỏi phải tính đến không biết bao nhiêu là
nhân tố có liên hệ; không biết bao nhiêu vòng khâu và cấp độ khác nhau của
quá trình phân tích, tổng hợp mới đem lại được căn cứ khoa học cho một
quyết định chính trị. Trong những điều kiện như vậy mà đồng nhất chính trị
với lý luận khoa học thì thật tai hại - tai hại cho cả khoa học, cả chính trị.
Thế mà thói quen thời cách mạng dân tộc dân chủ còn trì kéo chúng ta
một thời gian sau năm 1975. Hậu quả như thế nào thì mọi người đã rõ.
Nhưng, thật là không đúng nếu từ cực nọ lại nhảy qua cực kia. Do đó, vấn đề
đáng được bàn bạc cặn kẽ để đi tới nắm vững phương châm “kết hợp thống
nhất tính khoa học với tính đảng, giữa khoa học với chính trị”.
Trước hết, cần nhất trí rằng cái lý luận, công tác lý luận mà chúng ta
đang bàn ở đây, là lý luận cách mạng, lý luận về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở nước ta. Lý luận ấy là sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam mà chủ nghĩa Mác - Lênin thì mang đặc tính bản
chất bên trong là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng.
Lênin viết: “Sức hấp dẫn không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn những người
xã hội chủ nghĩa của tất cả các nước đi theo lý luận đó, chính là ở chỗ nó kết
hợp tính chất khoa học chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học
xã hội) với tinh thần cách mạng, và kết hợp không phải một cách ngẫu
nhiên, không phải chỉ vì người sáng lập ra học thuyết ấy đã kết hợp trong



bản thân mình những phẩm chất của nhà bác học và của nhà cách mạng, mà
là kết hợp trong chính bản thân lý luận ấy, một sự kết hợp nội tại và khăng
khít. Thật thế, nhiệm vụ của lý luận, mục đích của khoa học được nêu thẳng
ra ở đây là giúp đỡ giai cấp những người bị áp bức trong cuộc đấu tranh kinh
tế đang thực sự diễn ra”(2).
Như vậy, trong lý luận cách mạng mácxít không có sự đối lập giữa
khoa học với chính trị, giữa khoa học với tính đảng; không có và tuyệt đối
không có sự hy sinh cái này cho cái kia, trái lại có sự đòi hỏi lẫn nhau, làm
tiền đề tồn tại cho nhau, thống nhất nội tại, khăng khít giữa hai cái tạo thành
đặc tính bản chất vừa cách mạng vừa khoa học của lý luận. Ở đây khoa học
càng được tiến hành một cách dũng cảm, vô tư và khách quan thì càng phù
hợp với lợi ích và nguyện vọng của giai cấp công nhân. Vì vậy, sẽ là chính
trị sai lầm, đi ngược lại lợi ích và nguyện vọng của giai cấp công nhân khi
chính trị bất chấp khoa học. Mặt khác, ở đây, cái quan điểm đòi “giải phóng
khoa học khỏi chính trị” hoàn toàn không có cơ sở. Đơn giản là vì khoa học
này là khoa học đấu tranh cách mạng. Lý luận này làm sao tách rời chính trị
được? Cho nên, là người mácxít nếu đòi hỏi “phi chính trị hoá khoa học
mácxít” thì khác nào họ tự phủ định mình khỏi tư cách người mácxít. Thực
tiễn cách mạng và quá trình hoạt động lý luận đều chứng minh rằng khi lý
luận tách rời chính trị, nó sẽ không còn là khoa học chân chính.
Đảng cần đến lý luận khoa học làm cơ sở cho đường lối chính trị,
cũng như lý luận chỉ thực sự khoa học với định hướng chính trị đúng đắn
của Đảng. Cả hai đòi hỏi đó đều có tầm quan trọng như nhau, đặc biệt trong
giai đoạn phức tạp hiện nay. Và hai đòi hỏi đó là thống nhất - nó là biểu hiện
quan trọng nhất của sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
2.Gắn chặt lý luận với thực tiễn, giữa yêu cầu trước mắt với nhiệm vụ
lâu dài, giữa nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng.


Ai nấy đều biết, thống nhất lý luận với thực tiễn là nguyên tắc căn bản

của chủ nghĩa Mác - Lênin và phương châm căn bản định hướng cho công
tác lý luận. Thiết nghĩ, khỏi phải nói gì thêm về tầm quan trọng của phương
châm này. Vấn đề là hiểu và vận dụng nó như thế nào trong tình hình hiện
nay dưới ánh sáng những bài học kinh nghiệm đã tích luỹ được.
Hiện nay, một tình hình làm day dứt mọi người là giữa lý luận với
thực tiễn còn khoảng cách. Khoảng cách này trước Đại hội VI của Đảng còn
lớn hơn. Lúc đó, rõ ràng lý luận một đường mà cuộc sống đi một nẻo. Cuộc
sống thực tế “ngoan cố và bướng bỉnh” cho đến cuối những năm 70 đã công
khai cất lên tiếng nói của mình. Đã đến lúc nó không chịu được nữa những
khuôn mẫu lý luận được áp đặt một cách duy ý chí. Cuộc sống “ập vào”
phòng họp Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (1979), đặt thẳng lên bàn chương
trình nghị sự vấn đề số một là “những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách”. Sự
kiện này là một bài học thấm thía về sự cần thiết phải thống nhất lý luận với
thực tiễn.
Sau đó, Khoán 100 mà ý nghĩa giải phóng lớn lao của nó được giới
khoa học lập tức nắm bắt và soi rọi bằng ánh sáng lý luận với một niềm
hứng khởi chưa từng thấy. Đặc biệt, chúng ta hãy nhớ lại bầu không khí xã
hội - chính trị nặng nề trước Đại hội VI và ngay cả khi dự thảo lần đầu các
văn kiện đưa xuống Đại hội vòng I các cấp song chưa làm ai thoả mãn.
Nhưng sau đó, chỉ với “ba quan điểm lớn về kinh tế” đánh dấu bước ngoặt
đổi mới tư duy, đã đủ làm thay đổi hẳn bầu không khí, mọi người phấn chấn
hẳn lên, một luồng sinh khí mới tràn ngập từ trong Đảng đến ngoài nhân
dân, từ dưới lên trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc và sau Đại hội.
Niềm tin bước đầu được lấy lại. Tuy vậy, niềm tin chưa phải đã vững chắc
mà còn ngập ngừng, khi lên khi xuống; đến Đại hội VII được củng cố thêm,
nhưng cho đến nay vẫn chưa thể khẳng định lý tưởng và con đường XHCN


đã thật sự chinh phục hoàn toàn khối óc và trái tim mọi tầng lớp xã
hội. Một trong những nguyên nhân gốc rễ chính là giữa lý luận với thực tiễn

vẫn còn khoảng cách, tuy khoảng cách này đã được thu hẹp rất nhiều so với
trước Đại hội VI, trước Đổi mới.
Có thể nói toàn bộ nhiệm vụ đang đặt ra trước chúng ta hiện nay
chung quy lại là phấn đấu san bằng hay thu hẹp tối đa khoảng cách đó. Điều
này đòi hỏi lý luận phải gắn chặt hơn nữa với thực tiễn, còn thực tiễn phải
được soi sáng và định hướng đúng đắn bằng lý luận khoa học; phải khắc
phục chủ nghĩa bảo thủ, giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm.
Trong công tác lý luận cần từ bỏ lối nghiên cứu một cách kinh viện,
thuần tuý tư biện, chỉ biết giải thích khái niệm bằng khái niệm, chứng minh
lý luận bằng lý luận, tức là hoàn toàn quanh quẩn trong vương quốc trừu
tượng thuần tuý, như thế thì không sao đạt tới chân lý. Cần chống lối tư duy
bắt chước, sao chép, rập khuôn, thoát ly thực tế, bất chấp những đặc điểm,
truyền thống và điều kiện lịch sử - cụ thể của đất nước, của dân tộc. Không
phải không có cơ sở khi gần đây có nhiều tiếng nói phê phán “chủ nghĩa
giáo điều mới” là một khuynh hướng nhân danh đổi mới, chống bảo thủ,
chống giáo điều, nhưng về thực chất nó không đưa ra được điều gì mới mà
chẳng qua chỉ lặp lại nguyên xi hay gần như nguyên xi những gì có sẵn trong
kho lý thuyết, thậm chí cả về ngôn từ của phương Tây hoặc của nước này,
nước khác du nhập từ bên ngoài. Chống chủ nghĩa xét lại lúc này rất cần
thiết, nếu không hơn thì không kém cần thiết so với chống chủ nghĩa giáo
điều cả cũ lẫn mới.
Rất sai, nếu hiểu đơn giản giáo điều là do đọc quá nhiều sách. Thật ra
bệnh giáo điều có nguồn gốc không chỉ ở chỗ thoát ly thực tế, thực tiễn, mà
còn do đọc quá ít, do đọc không đến nơi đến chốn (trước hết là sách kinh
điển Mác - Lênin), hoặc tuy có đọc, thậm chí đọc không ít, nhưng không


thoát sách, nghĩa là kiến thức không được tiêu hoá nhuần nhuyễn, không gắn
chặt với thực tế và phát triển với cuộc sống.
Tổng kết thực tiễnlà phương pháp căn bản trong hoạt động lý luận, là

một phương pháp căn bản để khắc phục chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ và cả
chủ nghĩa kinh nghiệm, để thực hiện sự thống nhất giữa lý luận với thực
tiễn. Lý luận, xét cho cùng, là từ thực tiễn mà đúc kết, khái quát lên. Không
có thực tiễn và kinh nghiệm thực tiễn thì không có lý luận.
Quá trình đổi mới ở nước ta có đặc điểm là vừa làm, vừa tìm tòi, sáng
tạo lý luận. Tất nhiên, khi bước vào sự nghiệp này, Đảng ta đã có những
định hướng lớn. Từ những định hướng đó, phải bắt tay ngay vào giải quyết
những vấn đề đã chín muồi, không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý luận.
Thật ra, đòi hỏi chuẩn bị đầy đủ trước về lý luận là không thực tế, bởi có
những điều phải làm rồi mới biết, thậm chí có vấn đề phải trải qua vấp váp
nhiều lần rồi mới đủ kinh nghiệm để đúc kết, khái quát về lý luận. Sẽ phải
trả giá cho sự vội vã khái quát lý luận, vội vã đề ra phạm trù này, quy luật
kia khi chưa có đủ căn cứ thực tiễn. Thật ra, nhiều vấn đề chính thực tiễn lại
cung cấp câu trả lời cho ta trước cả lý luận. Khoán trong nông nghiệp là như
thế. Vấn đề cơ chế một giá hay hai giá, một thị trường hay hai thị trường,
vấn đề Nhà nước nắm hay không nắm độc quyền lương thực... đã mất bao
năm tranh luận triền miên, bất phân thắng bại, song cuối cùng chính thực
tiễn nửa cuối những năm 80 đã cung cấp câu trả lời dứt điểm.
Nhận thức như trên không làm giảm nhẹ vai trò và trách nhiệm của
công tác lý luận, không phải để rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm. Vấn đề là
không thể lấy tư biện thuần tuý thay cho kinh nghiệm thực tiễn. Vấn đề là
phải hết sức coi trọng tổng kết thực tiễn - một phương pháp căn bản trong
công tác lý luận.


Tổng kết thực tiễn là hết sức quan trọng đối với người chuyên làm lý
luận. Càng quan trọng và phải trở thành thói quen hằng ngày đối với cán bộ
lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn. Thực tiễn mà không có lý luận cũng chẳng
hơn gì lý luận không có thực tiễn. Ph.Ăngghen nói: Không chỉ lý luận phải
hướng về thực tiễn mà thực tiễn phải vươn tới lý luận. Chủ nghĩa kinh

nghiêm không ít tai hại hơn chủ nghĩa giáo điều. Hơn nữa, có bệnh giáo điều
- và rất dễ phạm - ở người kinh nghiệm chủ nghĩa, bởi nếu chỉ có tri thức
kinh nghiệm hạn hẹp thì rất dễ mắc bệnh bắt chước, rập khuôn người khác.
Đó chính là ranh giới tương đối, là chỗ chuyển hoá lẫn nhau giữa chủ nghĩa
kinh nghiệm với chủ nghĩa giáo điều.
Đảng ta đang ở thời điểm mà việc tổng kết thực tiễn 25 năm đổi mới
vẫn là vô cùng cần thiết. Tổng kết thực tiễn để phát triển, cụ thể hoá và hoàn
chỉnh đường lối, chính sách; để tìm câu trả lời cho những vấn đề còn vướng
mắc hoặc chưa sáng tỏ; để phát huy, nhân rộng những cái đúng, phát hiện,
uốn nắn, sửa chữa những cái sai; để nâng cao trình độ lý luận và năng lực
lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi mới đầy khó khăn phức tạp, khi mà
chủ nghĩa xã hội thế giới đang bị khủng hoảng nghiêm trọng cả về lý luận
lẫn trong hiện thực. Thành công của sự nghiệp đổi mới, trên mức độ lớn, phụ
thuộc vào khả năng và kết quả việc tổng kết thực tiễn, nâng lên trình độ lý
luận. đó phải là một cuộc tổng kết công phu, sâu sắc với sự kết hợp chặt chẽ
giữa giới lý luận, các cơ quan khoa học và các cấp uỷ, các ngành thực tiễn.
Việc tổng kết cần được tiến hành không chỉ trên những vấn đề chung về con
đường đi lên CNXH, mà cả trên từng lĩnh vực hoạt động cơ bản: kinh tế và
xã hội, văn hoá và tư tưởng, hệ thống chính trị và dân chủ hoá đời sống xã
hội, xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước, mặt trận đoàn kết dân tộc và các
đoàn thể nhân dân, v.v.. Đó phải là một cuộc tổng kết có quy mô lớn, bao
gồm việc phân tích những kinh nghiệm cải tổ, cải cách ở các nước, thậm chí


cả những bài học hơn 70 năm của CNXH ở Liên Xô trước kia. Những kinh
nghiệm và bài học này không thể không được tính đến khi suy ngẫm, phân
tích và tổng kết những kinh nghiệm đổi mới và con đường đi lên CNXH của
bản thân nước ta.
Nhấn mạnh tổng kết thực tiễn không có nghĩa xem nhẹ nghiên cứu cơ
bản, lý luận cơ bản. Càng tiếp cận với những vấn đề cụ thể càng phải có

những quan điểm chung, cơ bản vững chắc. Lênin từng chỉ ra rằng, không
thể giải quyết vấn đề riêng nếu trước đó không sáng tỏ những vấn đề chung.
Tổng kết thực tiễn cụ thể đòi hỏi phải có quan điểm nhìn nhận, phương pháp
đánh giá, định hướng giải quyết các vấn đề; nghĩa là không thể thiếu vai trò
của lý luận, của phương pháp luận chung.
Không thể trực tiếp đi ngay vào giải quyết và giải quyết đúng đắn các
vấn đề thực tiễn nếu thiếu những hiểu biết cơ bản. Đến lượt mình, những kết
quả nghiên cứu các vấn đề cụ thể, trước mắt là nguồn chất liệu không thể
thiếu để từ đó đi tới những tri thức cơ bản và chung. Công tác lý luận chưa
đáp ứng các nhu cầu thực tiễn nói lên sự yếu kém của chúng ta trên cả hai
hướng nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Trình độ khoa học cơ
bản hạn hẹp không những trở ngại lớn cho nghiên cứu ứng dụng, cho việc
nghiên cứu đáp ứng các yêu cầu thực tiễn trước mắt, mà còn thiếu đi cái bàn
đạp vững chắc để có thể vươn cao, đi xa trên con đường khoa học. Song, sẽ
phạm sai lầm lớn, thoát ly thực tiễn, nếu coi nhẹ nghiên cứu ứng dụng. Vì
vậy, cần nhấn mạnh phương châm gắn chặt lý luận với thực tiễn, kết hợp
giữa yêu cầu trước mắt với nhiệm vụ lâu dài, giữa nghiên cứu cơ bản với
nghiên cứu ứng dụng.
3. Dân chủ hoá sinh hoạt lý luận
Như trên đã nói, trước đây có một thời ở ta lý luận gần như được đồng
nhất với chính trị. Lý luận coi như đã được giải quyết tất cả ở đường lối,


nghị quyết của Đảng, bài nói và viết của lãnh tụ; công tác lý luận chỉ còn lại
nhiệm vụ đơn thuần là thuyết minh đường lối, nghị quyết. Điều đó lâu ngày
tạo thành thói quen ỷ lại, thậm chí coi chân lý chỉ có thể phát ra từ một vài
người, từ đó đi tới chỗ dựa dẫm vào sự “bao cấp tư duy” từ phía lãnh đạo,
không thúc đẩy sự tìm tòi, khám phá, mà lẽ ra đó là chức năng đích thực, là
lý do tồn tại chính yếu của khoa học lý luận. Lại cũng vì thế mà tạo ra một
quan niệm quá đơn giản rằng, hễ nói gì hơi khác với lãnh đạo, với nghị

quyết, là coi như sai phạm chính trị, có thể bị truy chụp đủ thứ... Đường lối
đổi mới tư duy của Đảng cho phép và đòi hỏi chúng ta khắc phục sai lầm
đơn giản đó, một sai lầm đã kìm hãm một thời phát triển tư duy lý luận của
Đảng.
Ngày nay, chúng ta hiểu lý luận và chính trị không phải là một, giữa
chúng có khoảng cách cần được phân biệt, dù rất tương đối. Điều đó mở ra
không gian rộng lớn cho khoa học tìm tòi, sáng tạo, hình thành điều kiện
thuận lợi để phát huy tiềm năng trí tuệ của đội ngũ lý luận. Tuy nhiên, như
đã nói, sự khác biệt giữa lý luận (cách mạng) với chính trị chỉ có ý nghĩa
tương đối. Vượt quá giới hạn đó, thậm chí đối lập hai mặt vốn gắn bó, phụ
thuộc, nương tựa, thâm nhập vào nhau, thì rốt cuộc làm tổn hại nghiêm trọng
cho cả lý luận, cả chính trị. Khoa học lý luận dưới chế độ ta mà đi chệch
hướng chính trị của Đảng thì không còn là khoa học cách mạng. Mặt khác,
chính trị của Đảng phải dựa chắc trên cơ sở khoa học. Muốn thế, Đảng phải
hết sức coi trọng lý luận và công tác lý luận. Nó chính là công tác hàng đầu
của bản thân Đảng, trước hết của Bộ Chính trị, của Ban Chấp hành Trung
ương. Để làm được việc này, bản thân các đồng chí lãnh đạo cấp cao phải có
trình độ lý luận nhất định và khả năng định hướng cho công tác lý luận trong
phạm vi cần thiết. Điều hết sức quan trọng là Đảng phải xây dựng, sử dụng
cho được đội ngũ lý luận của mình, và lãnh đạo lý luận một cách khoa học.


Khoa học phát triển có những đặc điểm riêng. Chẳng hạn, đã là nghiên
cứu khoa học thì có thể có sai lầm. Nếu trong chính trị, sai lầm cũng đã khó
tránh khỏi, thì trong tìm tòi khoa học, khả năng phạm sai lầm càng nhiều
hơn, và điều đó không thể không cho phép. Nếu quy ngay những sai lầm đó
vào lập trường chính trị, hậu quả có thể rất tai hại. Khoa học cần bầu không
khí dân chủ, tự do tư tưởng, vì chỉ trong môi trường ấy, nhà khoa học mới
dám có suy nghĩ độc lập và đi đến cùng sự tìm tòi, khám phá của mình. Lý
luận, khoa học không thể phát triển, nếu tư tưởng không được giải phóng,

nếu thiếu thảo luận, tranh luận. Đối với khoa học, chỉ có một quyền uy tối
thượng - đó là chân lý khoa học, là sự phù hợp giữa lý luận với thực tiễn. Cả
quyền lực hành chính lẫn ý kiến đa số, cả uy tín cá nhân lẫn sự phẫn nộ đạo
đức, đều không giải quyết được vấn đề đúng sai trong khoa học, đều không
thay thế được chân lý khách quan. Trong tranh luận khoa học thường thì
người thấp kém về trình độ khoa học lại dễ phẫn nộ đạo đức, thích đao to
búa lớn. Trái lại, người có tiềm năng khoa học lớn thì cởi mở, đầy lòng tự
tin. Đối với họ, sự trầm tĩnh và lý lẽ là vũ khí chiến thắng. Đương nhiên,
trong tranh luận đôi khi có thể nảy lửa, to tiếng. Điều đó hoàn toàn cho phép
(dĩ nhiên, nếu không to tiếng vẫn hơn). Điều cốt yếu là trong mọi trường hợp
đều phải vì khoa học, thật sự vì khoa học, không vì bất cứ động cơ gì khác
và phải biết nghe lẽ phải, không bảo thủ ý kiến.
Trên địa hạt học thuật nước nhà, rất tiếc là thiếu truyền thống biện
luận, tranh luận. Cần phải học tập tranh luận. Mấy năm nay chúng ta đang
làm điều đó. Phải có được văn hoá tranh luận nếu muốn phát triển tư duy
khoa học. Văn hoá tranh luận, đạo đức trong khoa học nói chung, đòi hỏi
trước hết phải có tính trung thực, thật thà, trong sáng - trung thực, thật thà,
trong sáng như chính sự thật, như bản thân chân lý khoa học. Sự giả dối,
việc bóp méo sự thật vì những động cơ lắt léo, thói cơ hội lựa chiều, huênh


hoang là những kẻ thù tệ hại nhất của khoa học. Để đi đến chân lý, nhà
nghiên cứu phải rất mực vô tư, khách quan. Chỉ có thái độ thực sự cầu thị,
nhìn thẳng vào sự thật, dám từ bỏ những nhận thức cũ sai lầm, biết nghe lẽ
phải, không định kiến, hết sức khiêm tốn, tôn trọng lẫn nhau, v.v. mới có thể
mở mang được kiến thức và đóng góp được gì đó cho khoa học. Tôi vẫn giữ
ý kiến nên có Tạp chí “Tranh luận”, chỉ cần có sự tổ chức và quản lý chặt
chẽ thích hợp, không gò bó cứng nhắc, cũng không quá rộng rãi thênh thang.
Người lãnh đạo phải biết nghe lời “trái tai”. Lãnh đạo khoa học càng
phải như vậy. Phải lãnh đạo khoa học bằng thái độ và phương pháp khoa

học, hơn nữa, bằng chính nội dung khoa học, nếu đó là người lãnh đạo trực
tiếp các hoạt động khoa học. Giữa các nhà khoa học với nhau cũng nên
khiêm tốn lắng nghe nhau. Không có lý do gì khi đòi hỏi cho được dân chủ
với mình, nhưng chính mình lại không tôn trọng quyền dân chủ của người
khác. Trong thảo luận, tranh luận khoa học, nhiều khi một ý mới manh nha
nhưng có thể mở ra cả một hướng tìm tòi đầy triển vọng. Có khi một câu đặt
ngược lại vấn đề cũng có thể khiến cho mọi người phải rà soát, chỉnh lý lại
những nhận thức hay kết luận tưởng đã xong xuôi. Trong khi chưa ai có
được ý kiến về một vấn đề hóc búa nào đó mà có người nêu được một ý táo
bạo buộc mọi người phải suy nghĩ đã là đáng quý. Thậm chí trong ý kiến
một người đầy rẫy những nội dung sai nhưng có một nhân tố đúng nào đó,
cũng nên trân trọng. Ở đây cũng vậy, ta phải học tập Lênin. Lênin đã từng tỉ
mỉ, công phu và trân trọng khi làm việc chắt lọc “cái nhân hợp lý” từ hệ
thống triết học duy tâm cực kỳ thần bí và rối rắm của Hêghen. Người viết:
Đầu tiên phải gạn lấy ở đó phép biện chứng duy vật, và gạn như vậy thì sẽ
có đến 9/10 vỏ, bã; phải lọc lấy cái hạt chân lý sâu sắc trong cái vỏ thần bí
của chủ nghĩa Hêghen. Nghĩa là phải biết “đãi cát tìm vàng”, đừng “vì chậu


nước bẩn mà đổ cả đứa trẻ”. Thái độ và phương pháp đó là hết sức cần thiết
đối với chúng ta trong thời buổi lý luận còn bề bộn, ngổn ngang này.
Từ sau Đại hội VI của Đảng, sinh hoạt lý luận đã có được không khí
dân chủ, thể hiện rõ nhất là trong việc thảo luận các dự thảo văn kiện trình
các Đại hội VII, VIII, IX, X và XI của Đảng. Nhưng, dường như đã thành
quy luật, sau thời gian dài thiếu dân chủ, nay mở ra lại nảy sinh một xu
hướng trượt sang dân chủ quá trớn. Đã có người hiểu dân chủ là có thể nói,
viết, truyền bá bất cứ điều gì mình muốn, bất chấp điều đó đúng hay sai, có
lợi hay hại gì cho sự nghiệp chung của nhân dân, của đất nước. Thậm chí có
người lợi dụng dân chủ để gây rối, để chống CNXH, chống chủ nghĩa Mác Lênin, đả kích sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc lịch sử dân tộc. Những hiện
tượng đó không nhiều, nhưng không thể không uốn nắn, bác bỏ.

Đối với hoạt động lý luận (lý luận cách mạng mà chúng ta đang bàn ở
đây và nhất là đối với cán bộ lý luận là đảng viên), dân chủ không thể tách
rời tính đảng. Trong nghiên cứu, thảo luận, cần dân chủ và tự do tư tưởng tối
đa, nhưng phải dựa trên lý tưởng, mục tiêu, con đường mà Đảng và nhân dân
đã lựa chọn, nghị quyết Đảng đã thông qua. Lênin khẳng định: Nói đừng
tranh luận nữa và chấm hết, là không đúng. Nhưng tranh luận về mặt lý luận
là một chuyện, còn đường lối chính trị của Đảng, cuộc đấu tranh chính trị,
lại là một chuyện khác. Chúng ta không phải là một câu lạc bộ tranh luận.
Ở đây, có vấn đề nên hay không nên cho phép tồn tại các trường phái
trong khoa học lý luận Mác - Lênin? Nếu hiểu trường phái là cách tiếp cận
khác nhau về cùng một vấn đề cụ thể nào đó của thực tiễn, những kết luận
khác nhau do áp dụng phương pháp khảo sát và nghiên cứu khác nhau... thì
có thể có trường phái. Còn nếu hiểu trường phái theo nghĩa triết học và lý
luận về khoa học xã hội thì không thể có nhiều trường phái trong cùng một
hệ tư tưởng Mác - Lênin. Giữa những người cộng sản, mácxít, yêu nước, vì


dân, không thể có sự phân chia trường phái lý luận. Bởi vì, về lý luận, tất cả
chúng ta thuộc cùng một trường phái duy nhất, không thể đa nguyên mà nhất
nguyên - đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường mà lịch sử dân tộc và nhân dân ta đã
lựa chọn.
Với những học thuyết xã hội ngoài chủ nghĩa Mác - Lênin, lâu nay
thái độ chúng ta có chỗ không đúng - mang tinh thần biệt phái, không đọc,
không nghiên cứu, phủ nhận tất cả, cho dù trong những học thuyết đó có thể
có những nhân tố hợp lý, những giá trị chung toàn nhân loại. Những yếu tố
ấy nếu biết gạn đục khơi trong, biết hấp thụ một cách có phê phán, sẽ làm
giàu thêm bản thân chủ nghĩa Mác, và chính như vậy mới đúng tinh thần và
thực chất học thuyết của chúng ta. Chủ nghĩa Mác không nằm ngoài, bên lề,
mà phát triển chính giữa dòng lịch sử tư tưởng loài người. Nó là kết tinh tất

cả những tinh hoa tư tưởng đó. Đối với những học thuyết khác - ngoài chủ
nghĩa Mác - Lênin - về xã hội, cần được nghiên cứu trên quan điểm khách
quan, biện chứng, có phê phán.
Giữa những người mácxít cộng sản, do trình độ nắm và vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin có khác nhau, do nguồn thông tin nhận được khác nhau,
do tiềm lực khoa học khác nhau, sự hiểu biết thực tiễn khác nhau, và do sử
dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể không giống nhau, mà những
kết luận và kiến giải có thể rất khác nhau trên cùng một vấn đề nào đó. Điều
đó là tự nhiên, không có gì đáng ngại. Ngược lại, tình trạng xuôi chiều, thấy
đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh mới là nguy hiểm,
đáng sợ; bởi đó là một triệu chứng bệnh hoạn không thể chấp nhận trong đời
sống tư tưởng - lý luận. Không có tranh luận thì khoa học không thể phát
triển. Song, không cứ phải thành các trường phái hẳn hoi để cãi cọ, phê phán
lẫn nhau, mới thúc đẩy phát triển khoa học. Khác với khoa học tự nhiên,


khoa học lý luận Mác - Lênin là khoa học chính trị, quan hệ trực tiếp đến số
phận các giai cấp, dân tộc, triệu triệu con người, vì thế không thể bắt xã hội
phải trả giá cho những “thử nghiệm” của các trường phái lý luận. Kinh
nghiệm Liên Xô, Đông Âu trước đây, từ “công khai dân chủ, không có vùng
cấm” đến “đa nguyên ý kiến”, đến “đa nguyên chính trị”, đến “đa đảng đối
lập”, đến sụp đổ với “tư duy chính trị mới” của Goócbachốp. Bài học chết
người ấy có đáng suy ngẫm không?
Thay vì nói đến “trường phái” hay “đa nguyên ý kiến” (đã không ích
gì, mà còn có thể có hại cho khoa học Mác - Lênin và sự nghiệp của Đảng),
điều có ý nghĩa cơ bản, là thực hiện dân chủ, tự do tư tưởng, phát huy cao độ
khả năng đóng góp của các nhà khoa học, các tập thể khoa học, mở ra địa
bàn rộng rãi nhất và bầu không khí thuận lợi nhất cho những nỗ lực trí tuệ,
thả sức cống hiến vì lợi ích dân tộc, nhân dân. Dân chủ hay không dân chủ,
không phải ở chỗ có hay không có trường phái đa nguyên mà ở chỗ có được

tự do tư tưởng hay không, những tiềm năng khoa học có được phát huy hay
không. Do quy mô rộng lớn, tính đa dạng và mức độ phức tạp của các vấn đề
lý luận và thực tiễn hiện nay, công tác lý luận dứt khoát không thể chỉ dựa
vào một số người hạn hẹp. Đã một thời, trên thực tế, phần nhiều công việc
nghiên cứu khoa học chỉ tập trung vào một số đồng chí, thường lại là các
đồng chí phụ trách quản lý không đầu tư được nhiều thời gian, công sức cho
nghiên cứu, còn nhiều anh em khác, tham gia rụt rè, ngại phát biểu ý kiến
khác với các đồng chí đi trước. Tình trạng ấy cần được triệt để xoá bỏ, bởi vì
thiếu tự do dân chủ thì không thể có bước tiến thực tế nào trong khoa học.
IV. Giải pháp đổi mới công tác lý luận hiện nay.
Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, phát triển lý luận
là đòi hỏi cấp bách đã và đang được đặt ra. Đã có nhiều công trình, nhiều ý
kiến tranh luận và đề xuất từ tổng thể đến các biện pháp cụ thể nhằm xây


dựng hệ thống lý luận ngày càng hoàn thiện, khoa học. Tuy nhiên, sự không
tương thích về cấp độ giữa trình độ, tốc độ phát triển của đất nước với quá
trình đổi mới, phát triển lý luận cho thấy những khó khăn, phức tạp của vấn
đề này. Để tiếp tục đổi mới công tác nghiên cứu, phát triển lý luận, cần
những đổi mới toàn diện cả ở tầm phương hướng chỉ đạo và những biện
pháp cụ thể, bao gồm:
Một là, đổi mới tư duy về công tác lý luận, nhận thức và nghiên cứu lý
luận.Cần coi lý luận như một khoa học cơ bản, khoa học mang tính định
hướng, nghiên cứu về mô hình phát triển, về con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam. Muốn đạt được điều đó, trước hết, các nhà nghiên cứu lý luận, giới trí
thức và toàn xã hội từng bước đổi mới tư duy, thay đổi nhận thức về công
tác lý luận, về những giá trị mới, cách tiếp cận mới, phi truyền thống, vượt
qua được chính bản thân mình. Quá trình đổi mới tư duy về công tác lý luận
đã từng được khởi xướng và đã có những bước chuyển quan trọng, tuy vậy,
để đạt được yêu cầu đề ra, cần khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm, bệnh hình

thức, tâm lý bảo thủ, lấy mình làm tiêu chuẩn trong công tác nghiên cứu và
phát triển lý luận.
Hai là, tạo lập môi trường dân chủ cho công tác nghiên cứu lý
luận.Nghiên cứu lý luận là lĩnh vực phức tạp, trong nhiều trường hợp rất khó
phân biệt, đo đếm một cách giản đơn, do vậy, cần tạo môi trường dân chủ
trong tổ chức và thực hiện các nghiên cứu khoa học, trong việc tranh luận,
thảo luận những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, để các nhà nghiên cứu mạnh
dạn trình bày những suy nghĩ, cách tiếp cận của mình. Môi trường dân chủ
còn là việc xây dựng phương pháp tranh luận khoa học, tôn trọng sự khác
biệt, lắng nghe những ý kiến phản biện với mục tiêu tìm kiếm chân lý khoa
học. Bản thân những vấn đề lý luận đã hàm chứa sự phức tạp, có thể tiếp cận
từ nhiều góc độ, do đó nhiều ý kiến khác biệt là tất yếu. Một môi trường dân


×