Tải bản đầy đủ (.docx) (182 trang)

Đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế của việt nam hiện nay001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.2 KB, 182 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------



-----------

PHẠM THỊ THUỲ

ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------



-----------

PHẠM THỊ THUỲ

ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY


Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Chủ tịch Hội đồng

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

PGS.TS. NGUYỄN ANH TUẤN

GS.TS. TRẦN PHÚC THĂNG

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả được sử dụng, nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo qui định.
Tác giả

Phạm Thị Thuỳ


LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện được luận án này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp
đỡ, hỗ trợ của các thầy cô, cơ quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc nhất tới thầy giáo hướng dẫn là
GS.TS Trần Phúc Thăng đã trực tiếp tận tình hướng dẫn, chia sẻ kinh

nghiệm và đóng góp nhiều ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong Khoa Triết học đã tận tình
giảng dạy, cung cấp kiến thức và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong thời
gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Trường Đại học Điện lực và Bộ môn Khoa
học chính trị nơi tôi công tác đã tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ tôi trong suốt
thời gian làm nghiên cứu sinh.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã đồng hành,
giúp đỡ, chia sẻ với tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận án.
Do thời gian và năng lực bản thân có hạn, luận án này không tránh
khỏi khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được sự thông cảm và chia sẻ.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2019
Tác giả

Phạm Thị Thùy


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
ASEAN

: Hiệp hội các nước Đông Nam Á

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

CNTT

: Công nghệ thông tin


CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

FDI

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

HĐND

: Hội đồng nhân dân

PAPI

: Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công

cấp tỉnh ở Việt Nam
UBND

: Uỷ ban nhân dân

WTO

: Tổ chức Thương mại Thế giới

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 4
1. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................................ 4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án...................................................... 5
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án...................................................... 6
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án................................... 6
5. Đóng góp mới của luận án.................................................................................................... 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.................................................................... 7
7. Kết cấu của luận án.................................................................................................................. 7
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI...................................................................................................................................... 8
1.1.Những công trình nghiên cứu liên quan đến đổi mới tƣ duy chính trị
trong điều kiện hội nhập quốc tế........................................................................................... 8
1.2.Những công trình nghiên cứu liên quan đến đổi mới hệ thống chính
trị trong điều kiện hội nhập quốc tế................................................................................. 20
1.3.Nhận xét về các công trình nghiên cứu và những vấn đề luận án cần
tập trung giải quyết..................................................................................................................... 30
1.3.1.Những vấn đề đã được giải quyết trong các công trình nghiên cứu .. 30

1.3.2.Những vấn đề còn bỏ ngỏ hoặc nghiên cứu chưa thấu đáo....................32
1.3.3.Những vấn đề luận án sẽ tiếp tục làm sáng tỏ.................................................. 33
Tiểu kết chƣơng 1........................................................................................................................ 34
Chƣơng 2 LÝ LUẬN ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM................................................................................ 35
2.1. Khái niệm đổi mới chính trị và hội nhập quốc tế........................................... 35
2.1.1. Đổi mới chính trị.............................................................................................................. 35
2.1.2. Hội nhập quốc tế............................................................................................................... 48
2.2. Mối quan hệ giữa đổi mới chính trị và hội nhập quốc tế..........................51
1



2.2.1. Hội nhập quốc tế quy định và tác động đến đổi mới chính trị...............51
2.2.2. Đổi mới chính trị có tính độc lập tương đối và tác động trở lại hội
nhập quốc tế...................................................................................................................................... 55
2.3. Những vấn đề cơ bản của đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập
quốc tế ở Việt Nam....................................................................................................................... 57
2.3.1. Các nhân tố tác động đến đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập
quốc tế ở Việt Nam........................................................................................................................ 57
2.3.1.1. Nhân tố bên ngoài........................................................................................................ 58
2.3.1.2. Nhân tố bên trong........................................................................................................ 60
2.3.2. Các nội dung chủ yếu của đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập
quốc tế ở Việt Nam........................................................................................................................ 63
2.3.2.1. Đổi mới tư duy chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế.................63
Tiểu kết chƣơng 2........................................................................................................................ 68
Chƣơng 3 THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY........69
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA......................................................................................... 69
3.1. Khái quát về quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.............................69
3.1.1 Quan điểm hội nhập quốc tế của Việt Nam........................................................ 69
3.1.2. Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam......................................................... 71
3.2. Thực trạng đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế của
Việt Nam từ năm 1986 đến nay........................................................................................... 75
3.2.1. Những thành tựu đạt được......................................................................................... 75
3.2.2. Một số hạn chế................................................................................................................ 106
3.3. Một số vấn đề đặt ra từ quá trình đổi mới chính trị trong điều kiện
hội nhập quốc tế của Việt Nam......................................................................................... 124
Tiểu kết chƣơng 3..................................................................................................................... 130

2



Chƣơng 4 MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC
THỰC HIỆN ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................................. 131
4.1.Phát triển những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến đổi mới chính trị

trong điều kiện hội nhập quốc tế ở Việt Nam.......................................................... 131
4.1.1.Phát triển lý luận thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta phù hợp với điều

kiện hội nhập quốc tế................................................................................................................ 131
4.1.2. Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới chính trị trong điều kiện hội
nhập quốc tế với việc bảo đảm ổn định chính trị..................................................... 138
4.2. Đổi mới hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của
Việt Nam hiện nay..................................................................................................................... 140
4.2.1. ổ chức s p ếp tinh g n các cơ quan trong toàn hệ thống chính trị
140
4.2.2. Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị bảo đảm hiệu
lực hiệu quả quản lý và phát huy vai trò của quần chúng nhân dân...........143
Tiểu kết chƣơng 4..................................................................................................................... 161
KẾT LUẬN.................................................................................................................................... 162
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN........................................................................................................................... 164
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................... 165

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Có thể nói công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay là một quá trình thay
đổi mang tính cách mạng sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó đổi mới chính trị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với tính cách là nhân tố
dẫn đường, đảm bảo thắng lợi của toàn bộ sự nghiệp đổi mới. Quá trình đổi
mới nói chung và đổi mới chính trị nói riêng lại diễn ra đồng thời với quá
trình hội nhập quốc tế, một đòi hỏi mang tính tất yếu cho sự phát triển đất
nước trong bối cảnh thế giới ngày nay. Và việc nắm bắt, tận dụng cơ hội, vượt
qua thách thức – tác động hai mặt của quá trình hội nhập quốc tế, rốt cuộc lại
tuỳ thuộc vào nhân tố chủ quan là tính chất và trình độ của các chủ thể chính
trị. Vì thế, đổi mới chính trị càng trở nên quan trọng.
Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới, với những bước chuyển vươn tầm thời
đại mà nước ta đạt được, đã chứng tỏ đường lối đổi mới chính trị và hội nhập
quốc tế là hết sức đúng đắn. Đổi mới chính trị và hội nhập quốc tế là hai
nhiệm vụ chiến lược, hai vấn đề có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại,
thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình thực hiện mục tiêu chung là xây dựng và
phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Việc kết hợp hai nhiệm vụ, hai
yếu tố này với nhau là rất cần thiết, hợp quy luật phát triển; trong thực tiễn đã
đạt được những thành công lớn, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới tiến
nhanh hơn, đúng hướng hơn, tạo ra thế và lực mới cho đất nước ta. Chẳng
những kinh tế, xã hội có sự phát triển mang tính đột phá mà chính trị cũng có
những chuyển biến quan trọng về nhận thức cũng như về đổi mới cách thức tổ
chức và phương thức hoạt động của cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên, một sự
nghiệp to lớn và mới mẻ như vậy, không bao giờ chỉ có thành công mà không
có ít hoặc nhiều những hạn chế, những vấn đề phức tạp nảy sinh. Những hạn
chế không chỉ về nhận thức mà còn là những hạn chế

4


không nhỏ về cách thức tổ chức và phương thức hoạt động của các bộ máy

Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội khác. Những hạn chế này kéo
dài đã tạo nên những bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng đến quá trình xây dựng
và bảo vệ đất nước.
Thời gian tới là giai đoạn nước ta có thêm nhiều điều kiện mới, nhiều
yếu tố thuận lợi và thời cơ mới để phát triển. Song đó cũng là giai đoạn đất
nước ta đứng trước những nhiệm vụ mới hết sức to lớn và nặng nề, bao gồm
việc khắc phục những hạn chế, yếu kém và tạo ra những triển vọng phát triển
đầy hứa hẹn. Trong đó, phải nhìn lại quá trình đổi mới chính trị trong điều
kiện hội nhập quốc tế từ nhiều góc độ khác nhau, nhất là dưới góc độ triết học
để có thể phát huy những lợi thế trong nước, nắm bắt thời cơ, đẩy lùi thách
thức từ hội nhập quốc tế bên ngoài, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới chính trị, tạo
động lực mới để vươn lên phát triển nhanh chóng và vững chắc. Do đó, việc
nghiên cứu đổi mới chính trị trong mối quan hệ với hội nhập quốc tế có ý
nghĩa quan trọng, làm sâu sắc thêm những nội dung lý luận và đẩy mạnh đổi
mới chính trị trong thực tiễn.
Đổi mới chính trị và hội nhập quốc tế là những nội dung có tính thực
tiễn, tính lịch sử và ý nghĩa khoa học sâu sắc; là chủ đề luôn được giới khoa
học và đề xuất chính sách quan tâm. Tuy nhiên vấn đề đổi mới chính trị trong
quan hệ với hội nhập quốc tế lại ít được nghiên cứu, vì đây là vấn đề hay
nhưng khó trong nghiên cứu, nhất là nghiên cứu dưới góc độ tiếp cận của
chuyên ngành CNDVBC&CNDVLS còn nhiều mới mẻ. Do vậy tác giả lựa
chọn đề tài “Đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế của Việt Nam
hiện nay” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành CNDVBC&CNDVLS là một đề
tài mới, không bị trùng lặp, có ý nghĩa lớn về giá trị khoa học và thực tiễn.
2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
-

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống hoá cơ sở lý luận về đổi mới


chính trị và thực tiễn đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế ở
5


Việt Nam, luận án đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm
tiếp tục thực hiện đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế của Việt
Nam hiện nay.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tổng quan các công trình khoa học nghiên cứu có liên quan đến đề tài

+

luận án.
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận của đổi mới chính trị; phân tích mối quan hệ

+

giữa đổi mới chính trị và hội nhập quốc tế; chỉ ra những nhân tố tác động và
các nội dung chủ yếu của đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế ở
Việt Nam.
+

Phân tích thực trạng đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế của

Việt Nam từ năm 1986 đến nay, chỉ ra nguyên nhân và những vấn đề đặt ra từ
quá trình đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục thực hiện


+

đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay.
3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
-

Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu vấn đề đổi mới

chính trị của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
-

Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu, khảo sát vấn đề đổi mới chính

trị trong điều kiện hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay theo hai nội dung
cơ bản là đổi mới tư duy chính trị và đổi mới hệ thống chính trị, giai đoạn từ
năm 1986 đến nay.
4.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
-

Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở tiếp cận nền tảng lý

luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lý luận đổi mới, chính trị, đổi mới
chính trị, đổi mới tư duy chính trị, đổi mới hệ thống chính trị và hội nhập
quốc tế; đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu của

6


các nhà khoa học trong và ngoài nước đã công bố liên quan tới đề tài.
-

Phương pháp nghiên cứu: Để hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ nghiên

cứu của luận án, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học của
chuyên ngành CNDVBC&CNDVLS, bao gồm các phương pháp thống nhất
lịch sử - lôgic, hệ thống – cấu trúc, phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp,
so sánh, hệ thống hoá, khái quát hoá…
5.

Đóng góp mới của luận án
-

Luận án làm rõ hai khái niệm trung tâm là đổi mới chính trị và hội nhập

quốc tế; luận giải mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính trị và hội nhập
quốc tế; chỉ ra những nhân tố tác động và các nội dung chủ yếu của đổi mới
chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế của Việt Nam.
-

Luận án phân tích dưới góc độ triết học một số thành tựu và hạn chế cơ

bản của quá trình đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế của Việt
Nam từ năm 1986 đến nay, cũng như chỉ ra nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra.
-


Luận án đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản tiếp tục đổi

mới chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
-

Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở cho việc nhận

thức rõ đường lối đổi mới chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều
kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
-

Ý nghĩa thực tiễn: Luận án là nguồn tài liệu tham khảo có ý nghĩa,

nguồn tư liệu chuyên sâu cho công tác nghiên cứu lý luận, giảng dạy liên quan
đến nội dung đổi mới chính trị trong điều kiện hội nhập quốc tế của Việt Nam,
nhất là đối với chuyên ngành CNDVBC&CNDVLS vốn là một chuyên ngành
khó.
7.

Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm: phần mở đầu; phần nội dung có 4 chương và 11 tiết;

phần kết luận; phần danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả và phần
danh mục tài liệu tham khảo.
7



Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Luận án nghiên cứu vấn đề đổi mới chính trị theo hai nội dung cơ bản
là đổi mới tư duy chính trị và đổi mới hệ thống chính trị. Vì vậy, tổng quan
các công trình nghiên cứu liên quan đến tài cũng là sự tổng quan các công
trình nghiên cứu liên quan đến hai nội dung đó.
1.1.

Những công trình nghiên cứu liên quan đến đổi mới tƣ duy chính
trị trong điều kiện hội nhập quốc tế
Đổi mới tư duy chính trị ở Việt Nam là đề tài thu hút khá đông các học

giả, nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu. Đầu
tiên là một số công trình nghiên cứu nước ngoài tiêu biểu liên quan đến đổi
mới tư duy chính trị ở Việt Nam.
Cuốn sách Doi Moi: Vietnam's Renovation Policy and Performance
(1991) [153] của tác giả Forbes, Dean. K đã có những phân tích sâu sắc về
tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ở Việt Nam đương đại. Tác giả đánh giá
sự năng động của Việt Nam khi nhanh chóng rũ bỏ những khó khăn của một
quá khứ buồn bã và dữ dội, dấn thân vào con đường phát triển nhanh chóng
và thịnh vượng bằng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Trong đó, tác giả
phân tích khá chi tiết những quan điểm, tư tưởng đổi mới cũng như các chính
sách được thực thi trong quá trình đổi mới, đồng thời đánh giá hiệu suất thành
công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Là một nhà nghiên cứu độc lập nước
ngoài song tác giả có nhận định lạc quan về triển vọng phát triển của Việt
Nam kể từ khi tiến hành đổi mới đất nước.
Các tác giả William S. Turley, Mark Selden của cuốn sách Reinventing
Vietnamese Socialism: Doi Moi in Comparative Perspective (1993) [159]
trình bày nhiều quan điểm có tính nguyên tắc và lý luận về vấn đề đổi mới ở
Việt Nam, đồng thời khám phá công cuộc đổi mới của Việt Nam đặt trong

8


mối tương quan với những cải cách đang diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa
khác trên thế giới, so sánh vấn đề đổi mới ở Việt Nam với tái cấu trúc ở các
quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Công trình nghiên cứu chỉ ra nhiều điểm khác
biệt trong tư duy, đường lối đổi mới của Việt Nam, tạo nên dấu ấn đổi mới
riêng của Việt Nam mà không làm thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Các cuốn sách The Politics and Economics of Transition to an Open
Market Economy in Viet Nam (1999) [155] của các tác giả James Riedel,
William S. Turley; Renovating Politics in Contemporary Vietnam (2001)
của tác giả Zachary Abuza và Vietnam's Development Strategies

[160]

(Routledge Contemporary Southeast Asia Series) (2006) [158] của tác giả
Pietro Masina có điểm chung trong nhận định và đánh giá công cuộc đổi mới
và đổi mới chính trị ở Việt Nam là một quá trình kéo dài, chứng kiến sự
chuyển biến mạnh mẽ từ đổi mới tư duy kinh tế đến đổi mới tư duy chính trị
đi theo định hướng XHCN đã lựa chọn. Trong đó các thiết chế chính trị và
thiết chế kinh tế đều có sự thay đổi nhất định về mô hình và thể chế cho phù
hợp nền kinh tế thị trường mở ở Việt Nam.


trong nước, đổi mới tư duy chính trị là một nội dung quan trọng nằm

trong đường lối đổi mới chính trị của Đảng, gắn liền với công cuộc đổi mới
đất nước năm 1986 do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Đổi mới tư duy
chính trị của Đảng được thể hiện rõ ràng và nhất quán trong các văn kiện đại
hội, nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương các khoá VI đến XII, và

trong các báo cáo tổng kết của Đảng. Kế thừa những quan điểm, tư tưởng của
Đảng, các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta cũng có nhiều
nghiên cứu, tìm tòi, phát kiến, cụ thể hoá, phân tích sắc bén, làm sáng tỏ hơn
các quan điểm của Đảng về đổi mới tư duy chính trị ở nước ta.
Đồng chí Trường Chinh với tác phẩm Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của
đất nước và của thời đại (1987) [30] chỉ ra rằng, thế giới ngày nay đang
9


nhanh chóng đổi mới, chủ nghĩa xã hội phải phấn đấu để chứng minh tính ưu
việt của mình về mọi mặt so với chủ nghĩa tư bản trên thực tế. Con đường để
các nước xã hội chủ nghĩa vươn lên đáp ứng những đòi hỏi phát triển của thực
tiễn khách quan, đáp ứng những nhu cầu tất yếu và ngày càng cao của nhân
dân là xuất phát từ nhân tố đổi mới. Đối với Việt Nam, đổi mới là yêu cầu bức
thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn đòi hỏi phải xuất phát từ bên trong và phù
hợp với xu thế đổi mới của thời đại bên ngoài. Quan điểm đổi mới, theo tác
giả, chính là phát huy những thành quả to lớn mà cách mạng đã giành được, là
sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm đã mắc phải trước đây, là sớm biết phát
hiện và xử lý tốt những vấn đề mới phát sinh, phát huy sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại, giữ vững độc lập chủ quyền, từng bước vững chắc đi lên
chủ nghĩa xã hội. Lôgíc phát triển trong tư duy đổi mới là để đổi mới cần phải
có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm giải phóng sức sản xuất trong
nước kết hợp với đường lối mở cửa hướng ra bên ngoài, khai thác có hiệu quả
những thuận lợi ở bên ngoài để nhân lên sức mạnh ở bên trong.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh với 4 tập sách Đổi mới để tiến lên (1991)
[76]

đưa ra quan điểm cho rằng, đổi mới là cuộc đấu tranh trường kỳ diễn ra

trên mọi lĩnh vực và trong bản thân mỗi người để chống lại những cái cũ bảo

thủ trì trệ, chống giáo điều rập khuôn, chống chủ quan nóng vội, chống tha
hóa biến chất, chống những thói quen lỗi thời dai dẳng. Tác giả nhấn mạnh
quan điểm đổi mới có nguyên tắc - đổi mới nhưng luôn luôn giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa với những bước đi và cách làm phù hợp với hoàn
cảnh của Việt Nam, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vững
vàng, chủ động, sáng tạo lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, vượt qua thử thách,
tập trung đổi mới kinh tế, phát huy dân chủ, đồng thời giữ vững kỷ luật kỷ
cương, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng, kiên quyết chống tệ tham
nhũng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
10


Trong 6 tập sách Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội
(1996) [86] của đồng chí Đỗ Mười cho thấy tư duy đổi mới nhất quán, không
gì lay chuyển được, kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Ông khẳng
định đó là con đường duy nhất đúng đắn, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Đổi mới là mệnh lệnh của cuộc sống,
là quá trình không thể đảo ngược, cần phải thực hiện toàn diện, đồng bộ trên
tất cả các mặt, phải có nguyên tắc cụ thể và bước đi vững chắc. Đối với nước
ta, quan trọng nhất đó là phải cải biến một cách cơ bản tình trạng kinh tế - xã
hội kém phát triển, chiến thắng các thế lực thù địch chống phá và cản trở việc
thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, dân giàu nước mạnh theo con đường xã
hội chủ nghĩa.
Một loạt các công trình nghiên cứu tiêu biểu của đồng chí Nguyễn Phú
Trọng như: Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước (2002)
[135], Đổi mới tư duy lý luận vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
(2005) [136], Đổi mới và phát triển ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn (2006) [138], Đảng vững mạnh đất nước phát triển dân tộc trường
tồn (2015) [140], 2 tập sách Vững bước trên con đường đổi mới (2017) [141],
Phải có tầm nhìn vượt trước; dự báo chuẩn xác xu thế phát triển; xây dựng

hệ thống luận cứ vững chắc cho chiến lược phát triển quốc gia (2018) [142]
là thành quả nghiên cứu lý luận đồ sộ về vấn đề đổi mới và phát triển, làm rõ
cơ sở lý luận cho việc hoạch định và triển khai đường lối đổi mới đất nước.
Tất cả các công trình này đều có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện
tầm nhìn, quan điểm và cả những tâm tư trăn trở, đầy tinh thần trách nhiệm và
tâm huyết của người lãnh đạo cao nhất trong Đảng đối với những vấn đề quan
trọng, sống còn của công cuộc đổi mới đất nước nói chung và đổi mới tư duy
chính trị nói riêng.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cũng thu hút và lôi cuốn sự quan
tâm của các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành tham gia nghiên cứu lý

11


luận. Phần lớn là các công trình nghiên cứu về đổi mới tư duy, đổi mới tư duy
lý luận, chỉ có số ít công trình nghiên cứu trực tiếp về đổi mới tư duy chính
trị. Mặc dù các công trình nghiên cứu của các tác giả có thể không trực tiếp đề
cập tới vấn đề đổi mới tư duy chính trị, nhưng ít nhiều cũng có chứa đựng
những nội dung cơ bản liên quan đến đổi mới tư duy chính trị.
Trước hết, tác giả Nguyễn Ngọc Long đã đưa ra những quan điểm,
nguyên tắc nhằm đổi mới, nâng cao năng lực tư duy lý luận, chống lại chủ
nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm và giáo điều trong quá
trình đổi mới tư duy của Đảng trong hai công trình nghiên cứu tiêu biểu là
Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy (1987) [78] và Chống
chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
trong quá trình đổi mới tư duy lý luận (1988) [79].
Ngay sau khi Hội nghị Trung ương 6 khoá VI (tháng 3/1989) đề ra 6
nguyên tắc cơ bản mà Đảng phải giữ vững trong quá trình đổi mới, tác giả
Nguyễn Đức Bình (1989) có bài viết Đổi mới có nguyên tắc [23], phân tích
vai trò của Đảng trong sự nghiệp đổi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trong đó, tác giả đưa ra quan điểm rất cơ bản và có ý nghĩa về đổi mới có
nguyên tắc. Tác giả cho rằng, chỉ có giữ vững nguyên tắc trong khi tiến hành
công cuộc đổi mới thì mới có thể đưa đất nước vượt qua cơn khủng hoảng và
tiếp tục phát triển; ngược lại, đổi mới mà không giữ được nguyên tắc chỉ làm
cho khủng hoảng trầm trọng thêm, làm hiện rõ nguy cơ đi chệch khỏi quỹ đạo
XHCN, tạo điều kiện thuận lợi cho các thế lực thù địch và những phần tử cơ
hội trong Đảng lật đổ chế độ XHCN. Thực tế cho thấy, sự sụp đổ của Liên Xô
và Đông Âu từ cuối năm 1989 đến cuối năm 1991 là bài học xương máu vô
cùng quý giá chứng minh cho điều đó.
Các tác giả Hồ Văn Thông, Phạm Thành, Lê Hữu Tầng với công trình
Triết học với sự nghiệp đổi mới (1990) [129] cho rằng, muốn đổi mới tư duy
12


lý luận phải có tư duy triết học mác xít, phải biết vận dụng thế giới quan,
phương pháp luận mác xít để nhận thức những vấn đề mới của cánh mạng
Việt Nam, từ đó định được rõ hướng đi và đề ra cách giải quyết đúng đắn
những vấn đề ấy. Cuốn sách nằm trong hệ thống sách trao đổi ý kiến về những
vấn đề lý luận của chủ nghĩa xã hội sau Đại hội VI của Đảng, chỉ rõ nguyên
nhân cơ bản dẫn tới những sai lầm và khuyết điểm trong một loạt vấn đề của
cách mạng xã hội chủ nghĩa là do sự lạc hậu về nhận thức và lý luận. Cuốn
sách gồm ba bài viết của ba tác giả về đổi mới tư duy triết học để khắc phục
sự lạc hậu về lý luận, triết học trong sự nghiệp đổi mới, vấn đề con người và
giai cấp trong triết học mác xít.
Tác giả Nguyễn Duy Quý trong một số công trình tiêu biểu như: Những
vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam (1998) [110], Đổi mới tư duy lý luận - Thành tựu và một số vấn đề
đặt ra (2006) [111], Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt Nam (2008)
[112]


đã tập trung nghiên cứu và làm sáng tỏ một cách toàn diện và có hệ

thống về đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở nước ta, trên các lĩnh vực: tư
duy kinh tế, tư duy về hệ thống chính trị, tư duy về văn hoá - xã hội và tư duy
trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Các công trình đã làm rõ nội
dung đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới; chỉ ra tính tất yếu, vai trò, ý nghĩa
của đổi mới tư duy đối với sự nghiệp đổi mới đất nước; đồng thời phân tích
quá trình đổi mới tư duy với những chuyển biến thời đại trong cuộc sống.
Tác giả Nguyễn Trọng Phúc (2006) có bài viết Đổi mới tư duy chính trị
của Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới [100] bàn về các nội dung xoay
quanh vấn đề đổi mới tư duy chính trị Đảng đã nhận thức sự cần thiết, phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng
lực lãnh đạo của Đảng như thế nào.
Tập thể tác giả Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc
Tòng đồng chủ biên cuốn sách Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ

13


năm 1986 đến nay (2011) [115]. Đây là công trình nghiên cứu công phu của
tập thể tác giả về quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng, khảo cứu thực
tiễn từ năm 1986 đến nay. Trong đó, các tác giả nhấn mạnh, đổi mới là một
quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để; đổi mới thực sự là
một cuộc cách mạng để phát triển ở nước ta, mà trước hết là đổi mới tư duy.
Do đó, Đảng phải đi tiên phong trong đổi mới, “đổi mới Đảng để đổi mới xã
hội”. Các tác giả cho rằng, thành tựu trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta có
dấu ấn quan trọng của đổi mới tư duy lý luận của Đảng. Bởi lẽ, thực tiễn đổi
mới vừa đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ bức thiết vừa mở ra thời cơ lớn và
những thuận lợi rất căn bản cho sự phát triển lý luận, sự trưởng thành về năng
lực tư duy lý luận và bản lĩnh chính trị của Đảng, một Đảng Cộng sản cầm

quyền có trọng trách lãnh đạo xã hội, nhân dân và dân tộc ta đi tới CNXH.
Không có thực tiễn đổi mới thì không thể sinh thành tư duy và lý luận đổi
mới, không thể có được những khởi sắc mới trong nhận thức và ý thức xã hội
như hiện nay. Mặt khác, chính đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức lý luận
mạnh mẽ và giữ vững định hướng XHCN, nhờ năng động sáng tạo trên cơ sở
giữ vững nguyên tắc, nhờ phát huy được sức mạnh dân tộc, kết hợp với sức
mạnh thời đại, Đảng và nhân dân ta đã làm cho kinh tế tăng trưởng, chính trị
ổn định, dân tộc đoàn kết, xã hội đồng thuận, các tầng lớp nhân dân có cuộc
sống ngày một tốt hơn và một lòng tin tưởng ở Đảng, thế giới đồng tình, ủng
hộ công cuộc đổi mới của nước ta.
Trong cuốn sách Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở
Việt Nam (2012) [94], tác giả Dương Xuân Ngọc quan niệm đổi mới tư duy
chính trị ở nước ta là đổi mới lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH;
xây dựng, hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ XHCN bảo đảm sự phù hợp và
tương thích giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế; đổi mới quan điểm, chủ
trương trong việc giải quyết các mối quan hệ lớn: (1) giữa đổi mới, ổn định và

14


phát triển; (2) giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; (3) giữa phát triển kinh
tế thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; (4) giữa phát triển lực lượng sản
xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; (5) giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; (6) giữa xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; (7) giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc
tế; (8) giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.

Cuốn sách 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam (2015) [65] do tập
thể tác giả Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa đồng chủ biên
cũng chỉ ra yêu cầu tất yếu của đổi mới tư duy chính trị trong điều kiện hiện

nay. Để thúc đẩy đổi mới toàn diện mọi mặt đất nước, phải đổi mới tư duy
quyết liệt hơn nữa, khắc phục những trì trệ, bảo thủ, khuynh hướng giáo điều,
đổi mới cực đoan, chủ quan, duy ý chí, tâm lý nóng vội, xa rời thực tiễn; phải
phát triển và hoàn thiện lý luận đổi mới, lý luận CNXH và xây dựng CNXH
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, đặc điểm lịch sử cụ thể của Việt Nam,
thuận với xu thế phát triển chung của thời đại, của thế giới đương đại ngày
nay. Đặc biệt, nhấn mạnh đổi mới tư duy chính trị không chỉ là chiến lược mà
còn là chính sách, quyết sách quan trọng của dân tộc; là lý luận gắn với thực
tiễn, thống nhất giữa lý luận với thực tiễn theo phương châm “lý luận hoá
thực tiễn” và “thực tiễn hoá lý luận”.
Tác giả Vũ Hữu Ngoạn trong bài viết Những nhận thức cơ bản về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta (2015) [92] cho rằng tư duy đổi mới
chính trị ở nước ta không phải là thay đổi mục tiêu, lý tưởng CNXH, mà là
đổi mới nội dung và cách thức xây dựng CNXH từ một nước có nền kinh tế
kém phát triển. Đổi mới tư duy chính trị thực chất là việc đổi mới nhận thức
cho đúng về thời kỳ quá độ, là việc xây dựng các mục tiêu, nhiệm vụ và xác
định tuần tự các bước đi của thời kỳ quá độ cho đúng. Tác giả nhận định, công
cuộc đổi mới và quá độ lên CNXH ở nước ta thực chất là có cùng mục tiêu,
nội dung và cách thức.

15


Tác giả Nhị Lê trong bài viết Không ngừng đổi mới chính trị, vì sự phát
triển toàn diện, đồng bộ và tiếp tục thành công của sự nghiệp đổi mới (2016)
[70]

cho rằng, đổi mới chính trị không thể không bắt đầu từ đổi mới tư duy

chính trị, là đổi mới tư duy, tìm tòi phương lược, hoạch định cơ chế, lộ trình

phù hợp, giải quyết đúng đắn quy luật về các mối quan hệ chính trị, tất cả
nhằm mục tiêu cao cả: bảo vệ và phát triển lợi ích của mỗi người, của từng tổ
chức trong xã hội, làm nền tảng lợi ích tối thượng của quốc gia dân tộc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong thế giới đương đại. Theo tác giả, hạt nhân của
mọi sự đổi mới chính trị dù ở góc độ nào, mức độ tới đâu đều phải xuất phát
từ lợi ích chính trị của đất nước và đặt dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng chứ
tuyệt đối không phải ngược lại và càng không phải là một thứ gì khác.
Luận án tiến sĩ triết học của tác giả Vũ Thị Thu Hương (2018) với đề tài
Quá trình đổi mới tư duy chính trị ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay [66], đã
phân tích và làm rõ thêm nội hàm của khái niệm tư duy chính trị, đổi mới tư
duy chính trị. Tác giả cho rằng, đổi mới tư duy chính trị ở nước ta là quá trình
hình thành tư duy chính trị mới, những quan niệm mới, nhận thức mới, những
phương thức, cách thức tiếp cận mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới đối với các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam ở tầm
chiến lược. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra những nhân tố tác động đến đổi mới
tư duy chính trị ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay; phân tích một số nội dung
cơ bản, những thành tựu của quá trình đổi mới tư duy chính trị ở Việt Nam từ
năm 1986 đến nay và đưa ra một số vấn đề đặt ra nhằm tiếp tục đổi mới tư
duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu khác có nội
dung liên quan đến đổi mới tư duy chính trị như: Có một Việt Nam như thế Đổi mới và phát triển (1997) [95] của tác giả Trần Nhâm; Chủ nghĩa xã hội
hiện thực và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (2012) [20] của tác giả
16


Hoàng Chí Bảo; Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận từ công
cuộc đổi mới (2015) [121] của tác giả Tạ Ngọc Tấn.
Trong các nghiên cứu: Hội nhập quốc tế của Việt Nam: Từ lý thuyết đến
thực tiễn (2014) [53] của tác giả Đỗ Sơn Hải; Hội nhập quốc tế và những vấn
đề đặt ra đối với Việt Nam: Sách tham khảo (2015) [117] của tác giả Bùi

Thanh Sơn chủ biên; Hội nhập quốc tế của Việt Nam - Vấn đề đặt ra hôm nay
(2017) [96] của tác giả Vũ Dương Ninh đều quan niệm rằng, quá trình toàn
cầu hóa, hội nhập quốc tế đã và đang tạo ra các cơ hội, đồng thời là những
thách thức phải đối mặt trong tiến trình đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay.
Hội nhập quốc tế vừa là điều kiện, vừa là nguyên nhân của đổi mới chính trị.
Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam muốn hội nhập ngày càng sâu rộng với thế
giới và nỗ lực khẳng định vị thế, vai trò nhất định trên trường quốc tế thì lẽ tất
yếu phải tiến hành đổi mới chính trị. Vì vậy nghiên cứu về đổi mới chính trị
trong điều kiện hội nhập quốc tế ở nước ta thu hút sự quan tâm của không ít
các học giả nghiên cứu và nhà khoa học. Dưới đây là một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu về đổi mới tư duy chính trị trong điều kiện hội nhập quốc
tế của Việt Nam.
Tác giả Hoàng Chí Bảo trong bài viết Việt Nam đổi mới và hội nhập
quốc tế - Những vấn đề triết học cần nghiên cứu (2017) [22] cho rằng, những
vấn đề triết học cần nghiên cứu trong quan hệ giữa đổi mới và hội nhập quốc
tế của Việt Nam là việc phải làm rõ tính biện chứng giữa thời cơ với thách
thức của hội nhập quốc tế trong đổi mới của Việt Nam, làm thế nào để đổi
mới vừa phải đón kịp thời cơ vừa phải chủ động vượt qua những thách thức
và nguy cơ từ hội nhập quốc tế. Tác giả lập luận đổi mới của Việt Nam là một
quá trình, một tiến trình lâu dài, với lực đẩy khởi động là đổi mới tư duy, thay
đổi cách nghĩ để thay đổi cách làm, xác lập quan niệm, nhận thức mới để kiến
tạo mô hình phát triển mới. Qua chặng đường hơn 30 năm đổi mới, vấn đề đổi
17


mới tư duy vẫn đặt ra với tất cả tính thời sự, bức xúc của nó. Để phát triển bền
vững và hiện đại hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là khi cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0) đã xuất hiện, cần thiết tất yếu
phải cách mạng hóa tư duy, phải thực sự có một cuộc cách mạng trên lĩnh vực
này, xây dựng tư duy khoa học, tư duy sáng tạo, phong cách khoa học để khoa

học hóa sự lãnh đạo, quản lý và cầm quyền của các chủ thể được dân uỷ
quyền, trước hết đối với Đảng cầm quyền.
Tác giả Tạ Ngọc Tấn với bài viết Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế (2017) [122] đã chỉ ra
bốn nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ, của dân tộc trong giai
đoạn hội nhập hiện nay là tụt hậu, chệch hướng, tham nhũng và diễn biến hòa
bình. Tác giả cho rằng, bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt ra cho
công tác tư tưởng, nghiên cứu lý luận của Đảng những yêu cầu tất yếu, nhiệm
vụ mới mẻ và hết sức nặng nề. Đó là trước hết phải xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, bảo đảm năng lực lãnh đạo đất nước; là đổi mới mô hình
phát triển kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu gắn với trọng tâm phát triển
kinh tế tri thức; là thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, đồng bộ, hợp lý các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, y tế, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo; là bảo vệ tài
nguyên môi trường, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu và những nguy
cơ về an ninh phi truyền thống; là thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, chính sách an ninh - quốc phòng tích cực nhằm bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi của dân tộc, bảo vệ cuộc
sống hạnh phúc của nhân dân; là phát huy tốt nhất vai trò của báo chí - truyền
thông trong việc thông tin, tuyên truyền, thực hiện các nhiệm vụ công tác tư
tưởng, hạn chế những tác động tiêu cực; là ngăn chặn kịp thời những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đấu tranh chống lại các âm
mưu chống phá của các thế lực thù địch… Từ đó tác giả đưa ra các giải pháp
18


và nhiệm vụ cụ thể trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng đáp ứng những
yêu cầu đặt ra từ hội nhập quốc tế.
Trong bài viết Đổi mới tư duy là yếu tố quyết định, mở đường cho sự
phát triển kinh tế - xã hội có tính đột phá ở nước ta trong thời kỳ mới (2018)
[30] của tác giả Chu Văn Cấp cho rằng tư duy mới hay đổi mới tư duy trong

thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng, mở
đường và tạo không gian cho sự phát triển kinh tế xã hội, mở ra vận mệnh
mới cho dân tộc. Theo tác giả, khởi đầu cho quá trình phát triển mới phải xuất
phát từ đổi mới tư duy, có tư duy mới thì sẽ có chính sách mới, có chính sách
mới sẽ tạo ra phong trào mới, có phong trào mới sẽ tạo ra kết quả mới. Trong
thời kỳ hiện nay, dưới những tác động mạnh mẽ của hội nhập quốc tế đòi hỏi
cần phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, tạo động lực mới cho sự phát triển
đột phá của kinh tế - chính trị - xã hội đất nước.
Tác giả Nguyễn Phú Trọng trong bài viết Phải có tầm nhìn vượt trước;
dự báo chuẩn xác xu thế phát triển; xây dựng hệ thống luận cứ vững chắc cho
chiến lược phát triển quốc gia (2018) [142] cho rằng thực tiễn sinh động đang
đặt ra nhiều vấn đề rất mới về lý luận đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và
giải quyết tốt. Đó là tình hình thế giới, khu vực hiện nay đang và sẽ diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều chiều hướng bất ổn; sự phát
triển nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang và sẽ làm
thay đổi căn bản cách nghĩ, cách làm và phương thức sinh hoạt của con người.
Vì vậy theo tác giả, đổi mới tư duy chính trị trong bối cảnh hiện nay đặt lên
vai giới lý luận nước nhà trọng trách rất lớn; phải có tầm nhìn vượt trước; dự
báo chuẩn xác xu thế phát triển; xây dựng hệ thống luận cứ vững chắc cho
chiến lược phát triển quốc gia với lộ trình khoa học, bước đi hợp lý nhằm chủ
động chớp thời cơ để đưa đất nước phát triển nhanh hơn, khắc phục bằng
được nguy cơ bị tụt hậu.
19


Tác giả Vũ Văn Hiền có bài viết Chúng ta có giữ được độc lập, tự chủ
trong hội nhập quốc tế? (2018) [56] cho rằng, độc lập, tự chủ là yêu cầu có
tính nguyên tắc trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Quan điểm độc
lập, tự chủ trong chính trị được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, trong đối nội
và đối ngoại. Đó là việc tự xác định mục tiêu, con đường phát triển; là tự

hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển; là tự xác lập và duy
trì thể chế chính trị đã được tạo dựng, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp
nào từ bên ngoài. Tác giả lập luận việc giữ được độc lập, tự chủ trong hội
nhập quốc tế hay không phụ thuộc vào đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới
kinh tế, tối ưu hóa hoạt động của hệ thống chính trị, phân bổ quyền lực chính
trị hợp lý, kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả. Đây là những cách tốt nhất
đáp ứng các yêu cầu và thách thức đặt ra của yêu cầu giữ được độc lập, tự chủ
trong hội nhập quốc tế.
Ngoài ra vấn đề đổi mới tư duy chính trị trong điều kiện hội nhập quốc
tế còn được nhắc tới trong một số công trình nghiên cứu tiêu biểu khác như:
Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh mới (2011)
[126]

của tác giả Nguyễn Xuân Thắng; 2 tập sách Những tranh luận mới về

chủ nghĩa xã hội (2016) [134] của các tác giả Lê Văn Toan, Phương Sơn đồng
chủ biên; Đất nước phơi phới sắc xuân, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, hội
nhập quốc tế (2018) [57] của tác giả Vũ Văn Hiền…
1.2.

Những công trình nghiên cứu liên quan đến đổi mới hệ thống chính
trị trong điều kiện hội nhập quốc tế
Vấn đề đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập

quốc tế là một đề tài hấp dẫn, có tính thực tiễn, thu hút đông đảo sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều học giả, nhà khoa học.
Trước hết là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu của các học giả uy
tín liên quan đến đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta thời kỳ đổi mới.
20



×