Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá kết quả phẫu thuật thay khớp háng bán phần qua đường mổ nhỏ điều trị gãy cổ xương đùi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (778.5 KB, 7 trang )

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT THAY KHỚP HÁNG
BÁN PHẦN QUA ĐƯỜNG MỔ NHỎ ĐIỀU TRỊ GÃY CỔ
XƯƠNG ĐÙI
Lương Thiện Tích
BV ĐK tỉnh Bình Dương
Email:


Ngày nhận: 31 - 8 - 2014
Ngày phản biện: 20 - 9 -2014
Ngày in: 08 - 10 - 2014

Luong Thien Tich

TĨM TẮT
Từ tháng 9/2012 đến tháng 3/2014 tại Bệnh viện Chợ Rẫy chúng tôi đã nghiên cứu về
phẫu thuật thay khớp háng bán phần đường mổ nhỏ điều trò gãy cổ xương đùi và theo
dõi được 55 bệnh nhân với thời gian theo dõi trung bình là 12,5 tháng, tuổi trung bình
của bệnh nhân là 76.04, nguyên nhân đa số là tai nạn sinh hoạt, tỉ lệ bệnh nhân nữ/
nam gần bằng 2 với kết quả như sau: Tỉ lệ rất tốt và tốt chiếm 80%, tỉ lệ trung bình là
12,73%, kém là 7,27%. Một số biến chứng đã gặp: nhiễn trùng nông 3 ca, ngắn chi 5
trường hợp, huyết khối tónh mạch sâu 3 trường hợp, không gặp trường hợp gãy xương
nào, ngắn chi 5 trường hợp.

ABSTRACT
From 9/2012 to 3/2014. Cho Ray Hospital had operated Bipolar hip for 55 cases with
MIS poterior-lateral approach.
Results following by Harris: Excellent and good: 80%, Fair: 12,73%, Bad: 7.27%.
Complications: We have 3 cas supeficial infection, no cas deep infection, no cas
dislocation, 3 cas Deep venous thrombosis ...
Keyword: Stem, Hip, Bipolar



ĐẶT VẤN ĐỀ
Gãy cổ xương đùi là chấn thương thường gặp ở mọi
lứa tuổi nhiều nhất là ở người lớn tuổi (chiếm trên 90%),
tuổi trung bình của gãy cổ xương đùi là 72 tuổi. Chính vì
vậy ngồi biến chứng về xương khớp còn có những biến
chứng khác của người lớn tuổi như hơ hấp, tim mạch, tiểu
đường ... kèm theo. Gãy cổ xương đùi có nhiều phương
pháp điều trị trong đó thay khớp háng bán phần là một
trong các chỉ định điều trị hàng đầu cho gãy cổ xương đùi.
Ngày nay cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật
phẫu thuật thay khớp nói chung và phẫu thuật thay khớp
háng nói riêng đã góp phần rất lớn trong nâng cao chất
lượng điều trị và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Phẫu thuật thay khớp háng là phẫu thuật hiện nay được
sử dụng rất nhiều trong chỉnh hình để điều trị nhiều bệnh
lý ở khớp háng như gãy cổ xương đùi ở người lớn, thối
hóa khớp háng, hoại tử chỏm xương đùi, gãy cổ xương đùi
di lệch ở người trẻ…

Có nhiều đường mổ để phẫu thuật thay khớp háng.
Việc sử dụng đường mổ nào tùy thuộc vào trình độ, kinh
nghiệm và quan điểm của phẫu thuật viên
Những đường mổ kinh điển cũ thì rộng rãi (trung bình
khoảng 25cm), dễ thao tác trong việc thay khớp nhưng
gây tổn thương nhiều mơ mềm, mất nhiều máu, mất nhiều
thời gian trong việc khâu phục hồi lại, thời gian hồi phục
lâu và lưu lại vết sẹo lớn.
Ngày nay trên thế giới các phẫu thuật viên có khuynh
hướng sử dụng đường mổ nhỏ (chiều dài đường mổ ngắn

hơn 10cm) cho thay khớp háng. Đường mổ nhỏ ít gây tổn
thương mơ mềm, ít mất máu, thời gian hồi phục nhanh và
vết sẹo nhỏ, thẩm mỹ hơn nhưng đòi hỏi phẫu thuật viên
phải có kỹ năng tốt, nhiều kinh nghiệm và đầy đủ trợ cụ.
Đường mổ góp phần rất lớn trong sự thành cơng hay
thất bại của phẫu thuật, do đó sự lựa chọn và thực hiện
đường mổ cho phẫu thuật thay khớp háng sao cho phù hợp
với khuynh hướng hiện nay trên thế giới là một vấn đề hết
Phản biện khoa học: PGS. TS Trần Thái Sơn
99


TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014

sức quan trọng cần phải quan tâm trong việc hội nhập
với nền y học thế giới.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi thực hiện
đề tài nghiên cứu:
"Đánh giá kết quả phẫu thuật thay khớp háng bán
phần qua đường mổ nhỏ điều trị gãy cổ xương đùi".

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Xác định các điểm thuận lợi và khó khăn trong
cuộc mổ với đường mổ nhỏ thay khớp háng bán phần.
2. Đánh giá kết quả điều trị và biến chứng của
phẫu thuật thay khớp háng bán phần qua đường mổ
nhỏ trong điều trị gãy cổ xương đùi.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu:
- Tiêu chuẩn chọn bệnh:

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN NGHIÊN CỨU
1. Các đặc điểm của bệnh nhân được phẫu thuật:
1.1. Tuổi của bệnh nhân:
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi tuổi trung bình
của bệnh nhân bị gãy cổ xương đùi là 76,04, bệnh
nhân nhỏ tuổi nhất được phẫu thuật thay khớp háng
bán phần đường mổ nhỏ là 52 tuổi và bệnh nhân lớn
nhất được phẫu thuật là 97 tuổi.
1.2. Giới tính của bệnh nhân:
Trong nghiên cứu của chúng tôi giới tính nữ gặp
nhiều hơn với nam, tỉ lệ số bệnh nhân nữ /nam gần
bằng 2, nữ bị gãy cổ xương đùi và được phẫu thuật
nhiều hơn so với nam là do ở nữ tỉ lệ loãng xương
cao hơn nam nhất là sau khi mãn kinh nên khi té dẫn
đến dễ bị gãy xương hơn.
100

+ Các trường hợp gãy cổ xương đùi được thay
khớp háng bán phần bằng đường mổ nhỏ được phẫu
thuật tại Bệnh Viện Chợ Rẫy là mẫu được chọn
+ Thời gian chọn bệnh và nghiên cứu từ tháng
9/2012- 3/2014
- Tiêu chuẩn loại trừ :
+ Tình trạng nhiễm trùng hoặc đang tiềm ẩn
nhiễm trùng vùng háng
+ Bệnh nhân béo phì (BMI>30)
+ Không có phim X quang sau mổ

+ Không theo dõi được sau khi mổ
2. Phương pháp nghiên cứu:
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu tiền cứu mô
tả dọc
- Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm
SPSS phiên bản 16.

1.3. Nguyên nhân gãy xương:
Kết quả của chúng tôi so với của tác giả Nguyễn
Văn Quang thì tỉ lệ gãy cổ xương đùi do tai nạn sinh
hoạt là 85% thì gần như là tương tự.
Như vậy tai nạn sinh hoạt té ngã là nguyên nhân
chủ yếu gây ra gãy cổ xương đùi trong lô nghiên cứu
của chúng tôi, tỉ lệ này cũng phù hợp với các nghiên
cứu trước đây. Các nguyên nhân tiếp theo gây gãy
cổ xương đùi lần lượt là tai nạn lao động và tai nạn
sinh hoạt
1.4. Chân bị gãy:
Bệnh nhân gãy cổ xương đùi bên trái nhiều hơn
bên phải, tỉ lệ chân trái bị gãy so với chân phải là
chân trái/chân phải gần bằng 2.
Như vậy các nghiên cứu đều có kết quả là chân
trái bị gãy cổ xương đùi nhiều hơn so với chân phải.


1.5. Thời gian từ lúc bị tai nạn đến lúc mổ:
Khoảng thời gian từ khi bị tai nạn đến lúc mổ thường
gặp nhất là ít hơn 4 tuần sau tai nạn ( chiếm tỉ lệ 83%),
trong đó nhiều nhất là bệnh nhân được phẫu thuật từ 2-4
tuần sau khi tai nạn.

Theo nghiên cứu của chúng tơi những ca mổ sớm (<1
tuần) kết quả tốt và rất tốt đạt 92,86% , những ca mổ sau
tai nạn 2-4 tuần, và mổ sau tại nạn trên 4 tuần kết quả tốt
và rất tốt lần lượt là 84,38% và 44,44%. Kết quả trung
bình và kém thì ngược lại.
Như vậy theo nghiên cứu của chúng tơi thì bệnh nhân
đến sớm sau tai nạn và được mổ sớm kết quả điều trị sẽ tốt
hơn bệnh nhân đến muộn.
1.6. Bệnh nội khoa kèm theo:
Bệnh nhân gãy cổ xương đùi đa số là lớn tuổi nên
thường kèm theo các bệnh nội khoa khoa như tăng huyết
áp, tiểu đường, thiếu máu cơ tim, bệnh phổi...trong đó
bệnh nhân tăng huyết áp và thiếu máu chiếm tỉ lệ cao.
Theo nghiên cứu của chúng tơi trong 44 ca có kết quả
tốt và rất tốt sau điều trị thì nhóm có bệnh nội khoa chỉ có
15 ca chiếm tỉ lệ 34,09% . Nhóm khơng có bệnh nội khoa
kết quả tốt là 29 ca chiếm tỉ lệ 65,91%.
Như vậy kết quả chung của bệnh nhân thay khớp ở
nhóm bệnh nhân có bệnh nội khoa là kém hơn so với nhóm
bệnh nhân khơng có bệnh nội khoa
2. Các đặc điểm trong cuộc mổ với đường mổ nhỏ:
2.1. Chỉ định mổ đường mổ nhỏ:
Với bệnh nhân gãy cổ xương đùi có chỉ định thay khớp
háng bán phần với đường mổ nhỏ (< 10cm) thường là bệnh
nhân khơng béo phì (BMI<40), thay khớp bán phần lần
đầu. Đa số các giai đoạn trong q trình phẫu thuật thay
khớp bán phần với đường mổ nhỏ khơng gặp khó khăn
như: vào ổ gãy, lấy chỏm xương đùi gãy, làm sạch ổ cối,
doa và đóng chi nhân tạo. Khó khăn nhất khi phẫu thuật
của đường mổ nhỏ là khi nắn khớp háng nhân tạo, nhưng

hầu hết các trường hợp đều nắn được khớp nhân tạo. Do
vậy với những trường hợp thay khớp háng bán phần với
MBI<30, thay khớp bán phần lần đầu chúng ta có thể mổ
thay khớp bán phần với đường mổ nhỏ.
2.2.Chiều dài đường mổ:
Trong nghiên cứu của chúng tơi chiều dài đường mổ
trung bình là 7.5 cm, dài nhất là # 9,5 cm và ngắn nhất là
6cm.
Chúng tơi phân chia nhóm theo chiều dài đường mổ
dựa vào những thuận lợi và khó khăn trong lúc mổ với các
kích thước đường mổ khác nhau như sau :

- Nhóm chiều dài đường mổ dài từ 6-7cm
- Nhóm chiều dài đường mổ trên 7cm đến ngắn hơn
8cm
- Nhóm chiều dài đường mổ từ 8 cm đến nhỏ hơn 10cm
Với những ca chiều dài đường mổ từ 8-9,5cm thì q
trình từ lúc vào ổ cối, lấy chỏm xương đùi gãy, làm sạch
ổ cối, khoan lòng tuỷ đặt chi và nắn khớp nhân tạo gần
như là tương đối dễ dàng và khơng gây dập cơ hoặc phải
kéo phần mềm nhiều.
Bảng: Chiều dài đường mổ
Chiều dài đường mổ

Số ca

Tỉ lệ

6-7cm


6

10.91%

<7 - ≤8cm

29

52,73%

<8 - <10cm

20

36,36%

Đối với các đường mổ 6-7cm thì vấn đề vào khớp háng
cũng tương đối dễ dàng tuy nhiên khi lấy chỏm xương đùi
gãy làm sạch ổ cối, làm sạch lòng tuỷ và đặt chi thì có
gặp khó khăn và khó khăn nhất là lúc nắn khớp háng nhân
tạo do đó có 3 trường hợp phải mở rộng thêm đường mổ
so với ban đầu, 4 trường hợp gây dập cơ quanh vết mổ
Về đường mổ lối sau ngồi là đường mổ hiện nay được
các phẫu thuật viên ưa thích nhất khi thay khớp háng bán
phần vì đường mổ này có thể mở rộng khi cần thiết, ít tổn
thương mơ mềm, hạn chế mất máu và bệnh nhân có thể
xuất viện sớm. Ưu điểm nữa là bảo vệ thần kinh tọa tốt,
bệnh nhân sau mổ ít đi khập khiễng hơn so với lối trước
và bên.
2.3. Lượng máu mất:

Do mổ đường mổ nhỏ nên rạch da, bóc tách cơ ít nên
lượng máu mất ít. Dó là ưu điểm của đường mổ nhỏ.
Trong lơ nghiên cứu của chúng tơi lượng máu mất
trung bình trong ca mổ là khoảng 230ml.
Như vậy mổ thay khớp háng bán phần với đường mổ
nhỏ lượng máu mất trung bình trong cuộc mổ sẽ ít hơn.
2.4. Số ca truyền máu:
Theo tác giả Nguyễn Tư cũng đã truyền máu cho 19,5
% bệnh nhân trong phẫu thuật gãy cổ xương đùi thay chỏm
Moore.
Trong lơ nghiên cứu 55 bệnh nhân của chúng tơi, số ca
truyền máu là 8/55 chiếm tỉ lệ 14,55% là ít hơn so với tác
giả Nguyễn Tường Quang là 21,67%. So sánh này có ý
nghĩa thống kê (p=0,038<0.05).
Như vậy nếu mổ thay khớp háng bán phần đường
mổ nhỏ thì số ca phải truyền máu sẽ giảm hơn so với mổ
đường mổ thường.
Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp
101


TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014

2.5. Lượng máu truyền:
Lượng máu mất trung bình ít khoảng 230ml nên
lượng máu truyền cũng ít, 1 số ca trên nền thiếu máu
sẵn nên khi mất máu phải truyền máu, số ca phải
truyền máu là 8 trường hợp trong đó 7 trường phải
truyền 1 đơn vị máu/1 trường hợp và 1 trường hợp
truyền 2 đơn vị máu.

2.6. Dập mô thấy được (cơ, da)
Với những ca đường mổ dài ≥ 8cm và < 10cm
vấn đề thay khớp bán phần với đường mổ nhỏ tương
đối thuận lợi, cơ, da không bị kéo căng nhiều. Quá
trình lấy chỏm hư, làm sạch ổ cối, doa và gắn chuôi
không gặp khó khăn, cuối cùng là khi nắn chỏm nhân
tạo cũng tương đối dễ dàng.
Với những ca đường mổ ≤ 7cm, việc lấy chỏm,
nắn khớp nhân tạo hơi khó khăn nên gây ra căng da
và dập mô, có 4 trường hơp dập cơ thấy được ở các
trường hợp đường mổ bằng 6cm, có 3 trường hợp
đường mổ lúc đầu là 6cm tuy nhiên sao đó việc lấy
chỏm và nắn khớp háng nhân tạo quá khó khăn, căng
da cơ nhiều nên phải mở rộng đường mổ lên 8cm, với
đường mổ này thì việc nắn khớp dễ dàng hơn.
2.7. Gãy xương trong lúc mổ:
Là biến chứng có thể gặp trong quá trình mổ thay
khớp nhất là với đường mổ nhỏ.
Trong 55 ca nghiên cứu của chúng tôi chúng tôi
không gặp trường hợp nào bị gãy xương trong quá
trình mổ và theo dõi.
Như vậy dù đường mổ nhỏ có khó khăn trong việc
vào ổ gãy, làm sạch ổ cối, thử và đóng chuôi, nắn
khớp nhân tạo, tuy nhiên cũng không có biến chứng
gãy xương trong quá trình phẫu thuật.
2.8. Thời gian mổ:
Mặc dù mổ thay khớp bán phần với đường mổ
nhỏ gặp khó khăn trong trong vào ổ gãy, doa đóng
chuôi, nắn khớp nhân tạo nhưng thời gian mổ trung
bình có ít hơn.

Thời gian mổ trung bình là 68 phút ít hơn so với
thời gian mổ trung bình của thay khớp háng bán phần
của tác giả Nguyễn Tường Quang là 75,7 phút, sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,041<0.05).
Như vậy thời gian mổ trong thay khớp háng
bán phần đường mổ nhỏ ngắn hơn so với mổ bình
thường.

102

3. Kết quả điều trị:
3.1. Kết quả gần:
3.1.1. Loại khớp:
Có nhiều loại khớp do nhiều công ty khác nhau
sản xuất : Zimmer, Depuy, Serf… vấn đề chọn loại
khớp nào là do ưa thích và quen sử dụng với loại
khớp đó của phẫu thuật viên. Kết quả không có sự
khác biệt giữa khớp do các công ty sản xuất và khớp
sử dụng.
3.1.2. Khớp có ximăng hoặc không
Sự lựa chọn khớp có ximăng hay không có ximăng
dựa vào các yếu tố như : tuổi, độ loãng xương, độ
rộng ống tủy đầu trên xương đùi, phân loại gãy cổ
xương đùi...
Theo nghiên cứu của Lê Ngân năm 2009, trong
21 ca thay khớp háng bán phần điều trị gãy cổ xương
đùi thì cả 21 ca đều sử dụng khớp có ximăng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi chúng tôi đã
sử dụng 8 trường hợp khớp có ximăng chiếm tỉ lệ
14,55%, ít hơn nhiều so với loại khớp không ximăng

47/55 trường hợp chiếm tỉ lệ 85,45%.
Như vậy xu hướng ngày nay là ngày càng có
nhiều khớp bán phần không ximăng được xử dụng
nhiều hơn khớp có ximăng.
3.1.3. Chất lượng ximăng sau mổ
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 8 ca thay khớp
bán phần có ximăng và chất lượng ximăng cũng
được đánh giá dựa theo tiêu chuẩn của Barrack với
các ca chất lượng ximăng loại A là 5/8 ca (chiếm
62,5%), loại B 2/8 ca (chiếm 25%), và loại C 1/8 ca
(chiếm 12,5%).
Nguyên nhân có các ca chất lượng ximăng loại B,
C có thể là doa không đủ sâu, không đủ rộng nên lớp
ximăng quanh chuôi không đủ dày và bao không đều
quanh chuôi.
Từ phân loại chất lượng ximăng chúng tôi đã có
hướng dẫn cho bệnh nhân tập vật lý trị liệu và sinh
hoạt thích hợp.
3.1.4. Đường kính chỏm nhân tạo
Đường kính chỏm nhân tạo trung bình trong thay
khớp háng bán phần đường mổ nhỏ là 45,14mm so
với tác giả Nguyễn Tường Quang đường kính chỏm
nhân tạo trung bình là 44,22mm, 2 đường kính
này không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=
0087).


So với 1 số tác giả khác như Nguyễn Tư thì đường
kính chỏm nhân tạo trung bình là 44,8mm cũng không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Như vậy giữa đường

mổ nhỏ và kích thước chỏm nhân tạo không liên quan
đến nhau.
3.1.5. So le chi
Chúng tôi có tổng cộng 5 ca ngắn chi sau mổ ( chiếm
tỉ lệ 9,09%). Các trường hợp ngắn chi không phát hiện
trong mổ dù đã đo thử sau khi nắn khớp nhân tạo và trước
khi đóng vết mổ, nhưng sau mổ đo ra thì có 3 ca ngắn chi
0.7cm và 2 ca ngắn chi 1.3 cm, đây là ngắn chi có thể chấp
nhận được theo Harris không cần phẫu thuật để chỉnh sửa
lại chỉ cần mang giày hoặc dép có đệm gót cao.
Như vậy phẫu thuật thay khớp háng với đường mổ nhỏ
tuy có khó khăn khi lấy chỏm, đóng chuôi, nắn khớp nhân
tạo nhưng ngắn chi sau mổ vẫn ít hơn so với đường mổ
thường, tuy nhiên khác biệt này không có ý nghĩa thống kê
(p=0,095>0,05)
3.1.6. Vị trí chuôi xoay trong – ngoài
Chuôi (stem) trung tính nằm trong thân xương đùi có
52 trường hợp chiếm tỉ lệ 94,54, có 1 trường hợp vẹo trong
chiếm tỉ lệ # 1,82% và 2 trường hợp vẹo ngoài chiếm tỉ lệ
3,64%.
Vẹo chuôi về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến kết quả phẫu
thuật thay khớp háng, gãy ximăng, lỏng chuôi, mòn ổ cối,
vì khi chịu tải lực truyền xuống sẽ không theo dọc trục
xương đùi, cộng với độ dày lớp vữa ximăng quanh chuôi
đều dễ dẫn đến gãy ximăng và lỏng chuôi.
Tuy nhiên đến nay qua quá trình theo dõi các trường
hợp vẹo chuôi chưa thấy biểu hiện trên lâm sàng và
Xquang cần đến can thiệp phẫu thuật.
3.1.7. Thời gian nằm viện trung bình
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi thời gian nằm viện

của bệnh nhân nhanh nhất là 6 ngày lâu nhất là 29 ngày,
trung bình là 8 ngày. So với tác giả Nguyễn Nguyễn Thái
Bảo thì thời gian nằm viện trung bình là 12 ngày. Số ngày
nằm viện trung bình ít hơn và so sánh này số liệu này có ý
nghĩa thống kê (p=0,047<0.05).
Như vậy mổ với đường mổ nhỏ thời gian nằm viện có
ngắn hơn.
3.1.8. Thời gian theo dõi trung bình
Thời gian theo dõi trung bình 12,5 tháng, ít nhất là 6
tháng và dài nhất là 22 tháng. Tuy nhiên với thời gian này
thì chưa đánh giá được hết các biến chứng xảy ra với 1
khớp nhân tạo.

3.2. Kết quả xa:
Kết quả thay khớp háng bán phần được đánh giá vào
các yếu tố sau: giảm đau sau mổ, khả năng đi lại, khả năng
trở lại sinh hoạt, phục hồi chức năng sau mổ
3.2.1. Giảm đau sau mổ:
Theo nghiên cứu của Nguyễn Tường Quang tỉ lệ
bệnh nhân không đau hoặc đau rất ít sau mổ chiếm tỉ lệ
91,53%.
Theo nghiên cứu của Shen J và cộng sự tỉ lệ không đau
và đau ít sau mổ là 82,64%
Trong các bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi bệnh
nhân không đau hoặc đau không đáng kể chiếm tỉ lệ
94,54% (52/55 bệnh nhân), bệnh nhân hài lòng với kết quả
điều trị.
Như vậy giảm đau sau mổ thay khớp bán phần so với
đường mổ nhỏ là nhiều hơn so với đường mổ thường, sự
giảm này có ý nghĩa thống kê (p=0,048).

3.2.2. Khả năng đi lại:
Khả năng đi lại của bệnh nhân theo Harris được xác
định theo 3 tiêu chuẩn:
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi có 48/55 (87,27%)
bệnh nhân có khả năng đi lại bình thường hoặc sử dụng
gậy rất ít. So với các tác giả khác như Nguyễn Tường
Quang là 81,35% cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
So với các tác giả khác tỉ lệ về khả năng đi lại sau mổ
với đường mổ nhỏ có cao hơn nhưng không có ý nghĩa
thống kê (p=0,055>0,0 ).
3.2.3. Khả năng trở lại sinh hoạt
Khớp háng bán phần có thể khôi phục biên độ vận
động trên cả 3 chiều không gian nhờ cấu tạo lưỡng cực và
chúng ta có thể điều chỉnh chiều dài của cổ trong khi mổ,
nên đa số bệnh nhân sau khi thay khớp háng bán phần đều
có biên độ vận động khớp háng tốt.
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi tầm vận động khớp
trung bình sau mổ là 205,8°, biên độ gập duỗi trung bình
đạt được là 108,6°. Với biên độ này bệnh nhân có thể đi lại
và sinh hoạt tương đối.
3.2.4. Kết quả lâm sàng:
Kết quả xếp loại sau thay khớp bán phần theo Harris
dựa vào điểm của bệnh nhân đạt được có 4 loại là: Rất tốt,
tốt, khá, kém.
Theo Maini và cộng sự[43] kết quả tốt và rất tốt là
65,2%
Theo Nhâm Sỹ Đức kết quả rất tốt và tốt là 89,2%
Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp
103



TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014

Bảng: Kết quả lâm sàng

3.3.3. Trật khớp háng :

Tác giả

Số bệnh
nhân

Tỉ lệ tốt
và rất tốt

P

Maini

270

65,20%

>0,05

Nhâm Sỹ Đức

40


89,20%

> 0,05

Nguyễn Tường
Quang

59

72,88

>0,05

Nguyễn Nguyễn
Thái Bảo

45

75%

>0,05

Lương Thiện Tích

55

80%

Trong nghiên cứu của chúng tơi kết quả tốt và rất
tốt chiếm tỉ lệ 80% so với 2 tác giả trên thì sự khác

biệt khơng có ý nghĩa thống kê p>0,05.
Như vậy so với các tác giả khác với phẫu thuật
thay khớp háng bán phần đường mổ thơng thường thì
thay khớp háng bán phần đường mổ nhỏ có kết quả
tương tự so với nhiều kết quả của các tác giả khác,
tuy nhiên có 1 số ưu điểm như ít mất máu hơn, số
ca truyền máu ít hơn, thời gian mổ ngắn hơn, thời
gian nằm viện cũng ngắn hơn, sẹo mổ ngắn nên thẩm
mỹ hơn.
3.3. Tai biến, biến chứng:
3.3.1. Tổn thương thần kinh:
Theo các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới
là 0.5%, thường gặp ở những người phẫu thuật thay
khớp háng lối sau. Tổn thương do kéo căng va chạm
trong q trình thao tác. Bệnh nhân cảm giác đau tê
theo đường đi của thần kinh toạ, khơng duỗi chân
được, thời gian hồi phục mất khoảng 6 tháng.
Trong lơ nghiên cứu của chúng tơi có 1 trường
hợp tê nhẹ vùng mơng đùi sau phẫu thuật có thể do
bị kéo căng khi phẫu thuật, điều trị bằng kháng viêm,
giảm đau bệnh nhân khỏi sau 14 ngày.
Như vậy dù phải mổ với đường mổ nhỏ, kéo căng
nhiều hơn đường mổ thơng thường nhưng khơng ghi
nhận tổn thương thần kinh trong và sau khi mổ.
3.3.2. Tổn thương mạch máu
Theo y văn thế giới tổn thương mạch máu trong
thay khớp gặp khoảng 0,2-0,3%.
Trong lơ nghiên cứu của chúng tơi mặc dù mổ với
đường mổ nhỏ có 1 số trường hợp vào khớp háng khó
khăn, phải kéo căng mơ mềm nhiều nhưng khơng có

trường hợp nào tổn thương mạch máu và khối máu tụ
được ghi nhận.
104

Trật khớp háng sau sau thay khớp háng nhân tạo
chiếm khoảng 3% các trường hợp thay khớp háng. Có
nhiều ngun nhân gây ra trật khớp háng nhân tạo.
Trong 55 ca phẫu thuật của chúng tơi khơng có
ca nào bị trật khớp ngay sau mổ và trong thời gian
theo dõi.
3.3.4. Thun tắc mạch:
Huyết khối tĩnh mạch biểu hiện bằng huyết khối
tĩnh mạch sâu và thun tắc phổi là ngun nhân đưa
đến tử vong. Có nhiều khuyến cáo nên sử dụng các
biện pháp phòng ngừa để giảm nguy cơ trên.
Johnson và Charnley (1973) tổng kết 7.959 phẫu
thuật thay khớp háng từ năm 1962-1973, tỉ lệ thun
tắc phổi là 7,9 % và tử vong là 1,04%.
Trong nghiên cứu của chúng tơi có 3 trường hợp
thun tắc tĩnh mạch sâu (Chiếm tỉ lệ 5,45%) được
phát hiện ngày thứ 8 sau mổ, triệu chứng là chân bên
mổ bệnh nhân sưng to, đau nhức. Sau đó bệnh nhân
được kê chân cao, dùng thuốc chống viêm, giảm đau,
Heparin sau 10 ngày điều trị tình trạng sưng, đau
nhức giảm.
Trong lơ nghiên cứu 55 ca thay khớp háng bán
phần đường mổ nhỏ khơng có trường hợp thun tắc
phổi nào được ghi nhận.
3.3.5. Nhiễm trùng:
Cũng giống như mọi phẫu thuật khác đều có nguy

cơ nhiễm trùng sau mổ. Có thể chỉ là nhiễm trùng
nơng vùng vết mổ, cũng có thể nhiễm trùng sâu bên
trong khớp cần phải điều trị kháng sinh liều cao thậm
chí phải lấy bỏ khớp nhân tạo đã đặt vào.
Trong lơ nghiên cứu của chúng tơi ghi nhận
như sau
- Nhiễm trùng nơng: Chúng tơi có 2 trường hợp
nhiễm trùng nơng ngồi da, vết thương sưng đỏ sau
đó được điều trị bằng thay băng vết thương kỹ, cắt
chỉ bỏ mối, kháng sinh sau đó vết thương ổn.
- Nhiễm trùng sâu: khơng có trường hợp nhiễm
trùng sâu nào được phát hiện phải lấy bỏ khớp háng
nhân tạo.
Như vậy so với các tác giả khác thì tỉ lệ nhiễm
trùng sau thay khớp bán phần ủa chúng tơi cũng
tương tự.
3.3.6. Lỏng chi:
Lỏng chi là 1 biến chứng sau mổ thay khớp háng
bán phần, có nhiều ngun nhân gây lỏng chi như


: không lấy hết xương xốp trong ống tuỷ, không tạo được
lớp ximăng bao quanh chuôi để giữ chuôi vững chắc, đặt
chuôi bị xoay, khi bệnh nhân đi lâu ngày làm xoay chuôi.
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi không gặp ca nào
lỏng chuôi có thể do thời gian theo dõi còn ngắn, số ca theo
dõi còn ít nên chưa đánh giá được hết biến chứng này.
3.3.7. Mòn ổ cối:
Dưới áp lực tỳ nén của chỏm lên phần sụn ổ cối. Phần
sụn này sẽ bị tổn thương từ từ và xơ hoá. Đây là điều kiện

thuận lợi cho quá trình mài mòn ổ cối xuất hiện.
Theo Nguyễn Tường Quang thay khớp háng bán phần
với thời gian theo dõi trung bình là 15,24 tháng thì tỉ lệ
mòn ổ cối là 1,69%
Trong nghiên cứu của chúng tôi với thời gian theo dõi
trung bình là 12,5 tháng có 1 trường hợp bào mòn ổ cối độ
1 theo Barker (chiếm tỉ lệ 1,82%) được phát hiện, có thể là
do thời gian theo dõi trung bình còn thấp nên không phát
hiện thêm trường hợp nào mòn ổ cối.
3.3.8. Cốt hoá quanh khớp nhân tạo:
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi gồm 55 ca thay khớp
háng bán phần đường mổ nhỏ cũng không gặp trường hợp
cốt hóa quanh khớp nhân tạo. Như vậy thay khớp háng bán
phần đường mổ nhỏ cũng không gây cốt hóa quanh khớp
nhân tạo nhiều hơn so với mổ thay khớp đường mổ thường.
3.3.9. Tử vong:
Phẫu thuật thay khớp háng bán phần là 1 phẫu thuật
lớn, bệnh nhân được phẫu thuật thay khớp háng đa số là
bệnh nhân lớn tuổi (trung bình # 76.04 tuổi), bệnh nhân lớn

tuổi nên tỉ lệ mắc bệnh nội khoa kèm theo như : cao huyết
áp, tiểu đường, thiếu máu, thiếu máu cơ tim, bệnh phổi, tim
mạch, nên nguy cơ tử vong trong và sau mổ cao.
Theo Parvizi tỉ lệ tử vong của thay khớp háng là 2.4%
Theo Đỗ Hữu Thắng (2005) tỉ lệ tử vong trong 133 ca
thay khớp là 0%.
Theo Nguyễn Tường Quang trong 60 ca thay khớp
háng bán phần thì có 1 ca tử vong trong quá trình theo dõi,
tỉ lệ là 1,67%.
Với 55 ca thay khớp bán phần chúng tôi theo dõi trong

trung bình 12,5 tháng thì chưa thấy ca nào bị tử vong, tỉ lệ
là 0%. Như vậy so với các tác giả khác thì tỉ lệ có khác biệt
nhưng không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

KẾT LUẬN
Phẫu thuật thay khớp háng bán phần đường mổ nhỏ điều
trị gãy cổ xương đùi tuy có kết quả chung cuộc tương tự như
thay khớp bán phần với đường mổ thông thường nhưng có
nhiều ưu điểm như: thời gian mổ nhanh hơn, giảm đau sau
mổ nhiều hơn, ít mất máu hơn, số ca truyền máu ít hơn, thời
gian nằm viện cũng ngắn hơn, vết mổ ngắn nên thẩm mỹ
hơn. Tỉ lệ các biến chứng cũng xảy ra tương tự như đường
mổ thông thường thay khớp háng bán phần. Do đó có thể
áp dụng trong phẫu thuật thay khớp háng bán phần điều trị
gãy cổ xương đùi trong trường hợp có chỉ định như bệnh
nhân không béo phì (BMI<30), thay khớp bán phần lần đầu
..., tuy nhiên chiều dài đường mổ cũng không nên quá nhỏ
thông thường là từ 8-10cm sẽ cho kết quả tốt và cũng không
quá dài ( > 10cm) sẽ không cần thiết.

Tài liệu tham khảo
1.

Nhâm Sỹ Đức (2007), “Đánh giá kết quả phẫu thuật thay
khớp háng bán phần Bipolar”, Luận văn thạc sĩ. Hà Nội .

2.

Ngô Hạnh, “Đánh giá kết quả thay khớp háng toàn phần
không ximăng tại Bệnh viện Đà Nẵng” Tạp chí Chấn thương

chỉnh hình Việt Nam Số đặc biệt 2012, trang 46-49.

3.

Nguyễn Đăng Nhật (1999), “Đánh giá kết quả thay khớp
háng toàn phần và bán phần, tại bệnh viện Trung ương Huế”,
Báo cáo khoa học Đại hội Ngoại khoa Việt Nam lần thứ X.
trang 44-48.

4.

Lê Ngân (2009) " Kết quả bước đầu điều trị thay chỏm Bipolar
do gãy chỏm xương đùi ", trang 46-55.

5.

Lê Phúc ( 2006 ), Chấn thương học vùng háng, Nhà xuất bản
y học, trang 41-42

6.

Lê Phúc (2000), Khớp háng toàn phần, những vấn đề cơ bản,
Đại học y dược TP. Hồ chí Minh Hồ Chí Minh, Trang 35-135.

7.

Nguyễn Tường Quang (2011), "Đánh giá kết quả thay khớp
háng lưỡng cực điều trị gãy cổ xương đùi ở bệnh nhân cao
tuổi", luận án chuyên khoa 2 Đại học y dược TP Hồ Chí Minh
2012.


8.

AAOS (2007), “Total hip replacement exercise guide”, pp.820839.

9.

Asnis SE, L Wanek-Sgaglion (1994), “Intracapsular fractures
of the femoral neck. Results of cannulated screw fixation”,
JBJS (Am) Vol 76, Issue 12, 1793-1803.

10.

Baker R.P et al(2006),
“Total hip arthroplasty and
hemiarthroplasty in mobile, independent patients with a
displaced intracapsular fracture of the femoral neck. A
randomized, controlled trial”, JBJS (Am) 88, pp 2583-2589.

11. Bernard Bush et al (2007), Dislocation after hip
hemiarthroplasty: Anterior versus Posterior capsular approach,
J Orthop, 30, pp 138.

Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp
105



×