Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Đánh giá kết quả phẫu thuật thay khớp háng toàn phần không xi măng cán ngắn tại BV việt đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 92 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BÙI HẢI NAM

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT
THAY KHỚP HÁNG TOÀN PHẦN KHÔNG XI
MĂNG CÁN NGẮN TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Chuyên ngành: Ngoại khoa
Mã số: 60720123
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Đinh Ngọc Sơn

HÀ NỘI – 2015


2

ĐẶT VẤN ĐỀ
Thay khớp là phẫu thuật loại bỏ các thành phần của khớp bị hư thay
vào đó bằng khớp nhân tạo nhằm giảm đau và phục hồi chức năng vốn có
của nó. Phẫu thuật thay khớp nói chung và phẫu thuật thay khớp háng nói
riêng là một thành tựu to lớn của y học hiện đại và chuyên ngành chấn
thương chỉnh hình.
Về cơ bản, khớp háng nhân tạo được chia thành hai loại là có sử dụng


xi măng và không sử dụng xi măng để cố định khớp. Ngoài ra còn có thể chia
thành khớp háng bán phần và khớp háng toàn phần. Việc sử dụng loại khớp
háng có xi măng hay không có xi măng, vật liệu của khớp phụ thuộc vào tình
trạng tổn thương khớp háng, tuổi của bệnh nhân, cũng như thể trạng bệnh
nhân trước mổ...
Ngày nay, trước tình trạng gia tăng các yếu tố nguy cơ như nghiện
rượu, nghiện thuốc lá, lạm dụng thuốc, yếu tố chấn thương, ngày càng có
nhiều bệnh nhân trẻ được phát hiện các bệnh lý về khớp háng mà cần phải
chỉ định thay khớp. Trong khi tuổi thọ của khớp háng nhân tạo thì có giới hạn
còn tuổi thọ của con người thì ngày càng cao nên khi thay khớp háng ở bệnh
nhân trẻ phẫu thuật viên phải đối mặt với vấn đề thay lại khớp nhiều lần. Từ
khi khớp nhân tạo ra đời cho đến nay đã trải qua nhiều thế hệ khớp với những
cải tiến về hình dáng, chất liệu .. với mục đích làm tăng tuổi thọ của khớp,
nhưng thực tế cho thấy khớp háng nhân tạo cũng chỉ có tuổi thọ trung bình từ
15 - 20 năm.
Năm 1989, các tác giả người Đức đã nghiên cứu đã cho ra đời loại khớp
háng cán ngắn không xi măng có tên Spiron, đảm bảo tuổi thọ như khớp nhân
tạo toàn phần khác lại rất thuận lợi cho phẫu thuật thay lại khớp do ít làm thay
đổi cấu trúc xương vùng cổ xương đùi và vùng 1/3 trên xương đùi


3

Tại Việt Nam, kĩ thuật thay khớp háng toàn bộ không xi măng cán ngắn
đã được triển khai tại các trung tâm CTCH lớn như bệnh viện 108, bệnh viện
Việt Đức từ năm 2011, và đã có những kết quả tương đối khả quan. Mặc dù
việc đánh giá hiệu quả điều trị, phát hiện sớm những tai biến, biến chứng để
rút ra bài học kinh nghiệm nhằm làm tốt hơn cho những trường hợp tiếp theo
là thực sự cần thiết nhưng chưa có nghiên cứu nào được thực hiện tại bệnh
viện Việt Đức.

Để góp phần hoàn thiện hiểu biết về các chỉ định và phương pháp phẫu
thuật thay khớp háng trong giai đoạn hiện nay, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài" Đánh giá kết quả phẫu thuật thay khớp háng toàn phần không xi
măng cán ngắn tại bệnh viện Việt Đức" nhằm hai mục tiêu chính:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh của bệnh nhân
được mổ thay khớp háng toàn phần không xi măng cán ngắn
2. Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật thay khớp háng toàn bộ không
xi măng cán ngắn tại bệnh viện Việt Đức.


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Sơ lược giải phẫu - sinh lý khớp háng
Khớp háng là khớp ổ chỏm lớn nhất cơ thể, tiếp nối đầu trên xương đùi
với ổ cối. Đầu trên xương đùi dính vào thân xương đùi bởi cổ tiếp hay cổ
phẫu thuật và gồm có 4 phần: chỏm xương đùi, cổ xương đùi, mấu chuyển lớn
và mấu chuyển bé [1] [2].
1.1.1. Đặc điểm giải phẫu

Hình 1.1. Cấu tạo khớp háng [3]
1.1.1.1. Ổ cối: ổ cối do ba phần của xương chậu tạo thành (phần chậu, phần
mu, phần ngồi). Ổ cối hướng xuống dưới, ra trước và ra ngoài [1],[2],[4].
Ổ cối gồm 2 phần: phần tiếp xúc với chỏm gọi là diện nguyệt có sụn bao
bọc, phần còn lại là hố ổ cối chứa tổ chức mỡ, mạch máu... Quanh ổ cối
xương nhô lên thành viền ổ cối, phía dưới viền có khuyết ổ cối [2].
+ Sụn ổ cối: lót bên trong ổ cối trừ hố ổ cối, bể dầy của sụn ≈ 6% đường
kính của chỏm và thường dày nhất ở thành trên, sụn có cấu trúc đặc biệt cho
phép chịu tải lớn [5].



5

+ Sụn viền ổ cối: là một vòng lớn bám vào viền ổ cối làm sâu thêm ổ cối
để ôm lấy chỏm đùi, phần sụn viền vắt ngang qua khuyết ổ cối gọi là dây
chằng ổ cối.
1.1.1.2. Chỏm đùi
Hình hai phần ba khối cầu hướng lên trên vào trong và ra trước, ở phía
sau và dưới đỉnh chỏm có một chỗ lõm gọi là hố dây chằng tròn để cho dây
chằng tròn bám [2],[4],[6].
Chỏm có sụn che phủ từ hố dây chằng tròn, chỏm tiếp khớp với diện
nguyệt ổ cối. Giữa phần chỏm và phần cổ xương đùi có một sụn tiếp hợp, sụn
này sẽ cốt hóa ở tuổi 16 làm cho chỏm dính chặt vào cổ xương đùi
1.1.1.3. Cổ xương đùi
* Hình thể: Cổ nối chỏm với 2 mấu chuyển, có hình ống dẹt trước sau, hướng
xuống dưới và ra ngoài, dài ≈ 30 - 40 mm [2].
Cổ có 2 mặt và 2 bờ:
- Mặt trước: phẳng, có bao khớp che phủ.
- Mặt sau: Lồi chiều thẳng, lõm bề ngang, chỉ có 2/3 phía trong là có bao
khớp che phủ.
- Bờ trên: Ngắn, nằm ngang.
- Bờ dưới: Dài, hơi chéo
* Góc nghiêng, góc xiên

Hình 1.2. Góc cổ thân và góc nghiêng [3],[6]


6


- Góc nghiêng (α): là góc hợp bởi trục của cổ xương đùi và trục của thân
xương đùi (góc cổ thân). Bình thường góc cổ thân ≈ 125 - 130º. Nhờ góc
nghiêng mà giúp cho xương đùi hoạt động một cách dễ dàng quanh khớp háng.
- Góc xiên ( β ) là góc hợp bởi trục của cổ xương đùi và mặt phẳng qua 2
lồi cầu đùi. Bình thường góc này 10 - 15º, có khi tới 30º.[2],[3],[6].
Hiểu rõ về góc nghiêng và góc xiên sẽ giúp cho việc thực hiện thay khớp
háng một cách chính xác
* Cấu tạo xương vùng cổ xương đùi:

Hình 1.3. Hệ thống bè xương đầu trên xương đùi [7],[8]
Vùng cổ xương đùi được cấu tạo bởi hai hệ thống xương đó là hệ thống
các bè xương và hệ thống vỏ xương đặc
- Lớp vỏ đặc:
+ Ở phía trong: Lên tới tận cổ khớp
+ Ở phía ngoài: lớp vỏ đặc dừng lại ở mấu chuyển lớn nhưng lại được
tăng cường bởi 1 lớp vỏ đặc ở trên cổ xương đùi.
- Hệ thống các bè xương: gồm có các nhóm chính, nhóm phụ chịu lực
căng và nhóm chính, nhóm phụ chịu lực ép.


7

Do cấu tạo như trên nên cổ xương đùi tương đối vững chắc nhưng giữa
hệ thống các bè xương có một chỗ yếu (tam giác Ward) là nơi xương dễ bị
gãy [2],[6].
* Hệ thống mạch máu vùng cổ - chỏm:

Hình 1.4. Hệ thống mạch máu vùng cổ chỏm xương đùi [9]
Chỏm và cổ xương đùi nhận máu từ ba nguồn chính (Hình 1.4)[6],[9],[8]
- Những nhánh động mạch cổ lên xuất phát từ vòng động mạch ngoài

bao khớp.
- Các nhánh tận của động mạch tủy xương từ vùng mấu chuyển và từ
thân xương đùi đi lên
- Động mạch dây chằng tròn.
Trong ba nguồn cấp máu cho vùng cổ chỏm này thì vọng động mạch
ngoài bao khớp là quan trọng nhất (cụ thể là nhánh động mạch cổ lên), động
mạch dây chằng tròn nhỏ và chỉ đủ cấp máu cho phần nhỏ của chỏm và lại
không hằng định.


8

1.1.1.4. Hệ thống nối khớp
* Dây chằng
Có 2 loại dây chằng khớp đó là dây chằng bên trong và dây chằng bên
ngoài (Hình 1.5) [2],[4],[10].

Hình 1.5. Dây chằng bao khớp[3]
- Dây chằng bên trong: chính là dây chằng tròn đi từ hố dây chằng tròn
đến khuyết ổ cối. Dây chằng này có tác dụng buộc chỏm xương đùi vào ổ cối.
+ Dây chằng chậu đùi:
Dây chằng này ở mặt trước của bao khớp đi từ gai chậu trước dưới tới
đường gian mấu phía trước, gồm 2 bó tỏa ra theo hình tam giác [1],[4],[5].


9

- Bó trên (hay còn gọi là bó chậu ): dày ≈ 8 - 10 mm; rộng 1 - 2 cm đi từ
gai chậu trước dưới tới mấu chuyển lớn bó này nằm ngang nên bị căng khi
xoay chân ra ngoài.

- Bó dưới: đi từ gai chậu trước dưới tới mấu chuyển bé, bó này đứng
thẳng nên có tác dụng giữ đùi không cho duỗi ra sau quá mức, làm cho ta
đứng được.
Dây chằng chậu đùi là dây chằng rộng, dài và khỏe nhất của khớp hông [1]
+ Dây chằng mu đùi:
Ở mặt trước dưới bao khớp, đầu trên bám vào ngành lên xương mu, đầu
dưới bám vào hố dưới mấu chuyển bé, dây chằng này hợp với hai bó của dây
chằng chậu đùi thành 3 nét hình chữ N hoa (dây chằng Bertin) [10].
+ Dây chằng ngồi đùi:
Ở mặt sau khớp, đi từ xương ngồi tới mấu chuyển lớn.
Ngoài các dây chằng kể trên ở phía sau và phía dưới bao khớp còn có
dây chằng vòng: là những sợi ở lớp sau của dây chằng ngồi đùi vòng quanh
mặt sau cổ xương đùi. Dây chằng này có tác dụng ấn chỏm vào ổ cối khi duỗi
khớp háng và khi gấp thì các sợi giãn dần ra để kéo chỏm ra xa ổ cối.
Hệ thống dây chằng bên trong và bên ngoài khớp háng có một sự liên kết
chắc chắn đảm bảo cho một sự hoạt động đa dạng của khớp háng vì vậy khi
phẫu thuật không được làm tổn thương nhiều và phải phục hồi tối đa dây
chằng để đảm bảo tốt cho chức năng khớp háng về sau.
* Bao khớp: Là một bao sợi dầy chắc bọc quanh khớp bám vào xương
chậu và đùi [2],[4],[10].
- Về phía xương chậu: Bao khớp bám vào chu vi ổ cối và mặt ngoài sụn
viền ổ cối.
- Về phía xương đùi:
Phía trước: bao khớp bám vào đường gian mấu


10

Phía sau: Bao khớp bám vào 2/3 trong cổ giải phẫu xương đùi và cách
mào gian mấu ≈ 1 cm [10].

1.1.1.5. Bao hoạt dịch khớp: là một màng mỏng phủ mặt trong bao khớp gồm
2 phần [2]
* Phần chính: Đi từ chỗ bám của bao khớp ở quanh sụn viền ổ cối, lót
mặt trong bao khớp rồi quặt lên tới chỏm đùi để dính vào sụn của chỏm
xương đùi.
* Phần phụ: bọc quanh dây chằng tròn bám vào chu vi hố dây chằng tròn
và hố ổ cối.
Trong bao hoạt dịch có chứa chất nhầy gọi là hoạt dịch giúp cho khớp
hoạt động dễ dàng [1],[2]. Khi thay khớp háng hầu như bao hoạt dịch không
còn tiết dịch khớp, vì vậy làm cho ổ cối dễ bị mòn.
1.1.2. Chức năng của khớp háng.
1.1.2.1. Chức năng chịu lực:
Khớp háng 2 bên chịu toàn bộ trọng lực phần trên cơ thể, góc tối đa giữa
sức chịu lực của khớp háng và trục dọc của xương khoảng 10º. Tuy nhiên có
sự phân chia mức độ chịu lực ở trong xương chậu, xương đùi qua cấu tạo hình
cung cổ bịt. Khi làm các động tác khác nhau như đi, đứng, ngồi ... Thì khớp
háng chịu lực nén khác nhau.
- Nếu đi với vận tốc 0,8 - 1,6 m/s thì lực tối đa tác động lên khớp háng ở
giai đoạn cuối của chu kì đi là 4,1 tới 6,9 lần trọng lượng cơ thể [7].
- Còn ở tư thế đứng thì Mc Leish và Charnley cho rằng lực tác động lên
khớp háng gấp 2 lần trọng lượng cơ thể.
- Ở động tác ngồi hoặc khi ngồi ghế đứng lên hoặc khi mặc quần đòi hỏi
độ gấp tối đa và xoay trong của khớp háng..
Xác định mức độ chiu lực của khớp háng giúp ta chọn lựa nguyên liệu, kỹ
thuật điều trị đạt kết quả tốt, đặc biệt cần thiết trong phẫu thuật thay khớp háng.


11

1.1.2.2. Chức năng vận động:

Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về biên độ vận động khớp háng và có rất
nhiều số liệu khác nhau. Ở các lứa tuổi khác nhau thì biên độ vận động cũng
khác nhau [10].
Bảng 1.1. Bảng phạm vi vận động trung bình của khớp háng [7]
Vận động trung bình

Số tài liệu

Trung

(1)

(2)

(3)

(4)

bình

Gấp

100

110

120

120


113

Duỗi

30

30

20

30

28

Dạng

40

50

55

45

48

Khép

20


30

45

30

31

Tư thế gấp: Xoay trong

45

45

Xoay ngoài

45

45

Xoay

Tư thế duỗi: Xoay trong
Xoay ngoài

40

35

20


45

35

50

50

45

45

48

Dạng ở trong tư thế gấp 90º

45 - 60

Bảng 1.2. Bảng vận động thụ động của khớp háng theo tuổi.[11]
Vận động

Nhóm tuổi
25 39 ( n=433)

40-59(n=727)

60 - 74 (n= 523)

Gấp


122 ± 12

120 ± 14

118 ± 13

Duỗi

22 ± 18

18 ± 7

17 ± 8

Dạng

44 ± 11

42 ± 11

39 ± 12

Xoay trong

33 ± 7

31 ± 8

30 ± 7


Xoay ngoài

34 ± 8

32 ± 8

39 ± 9


12

Đây là cơ sở quan trọng để đánh giá chức năng của khớp háng sau phẫu
thuật nhất là sau phẫu thuật thay khớp háng.
1.2. Các bệnh lý khớp háng thường gặp
1.2.1. Bệnh hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi
Hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi là tình trạng chỏm xương đùi bị phá
hủy mà nguyên nhân do thiếu nuôi dưỡng. Tình trạng này xảy ra khi sự cung
cấp máu cho chỏm xương đùi kém đi do nhiều nguyên nhân khác nhau mà
hậu quả là sự nuôi dưỡng của chỏm xương đùi kém đi dẫn tới hoại tử tổ chức
xương và sụn. Vì tình trạng hoại tử này do thiểu dưỡng, không do vi khuẩn
nên gọi là hoại tử vô khuẩn.
* Hoại tử chỏm xương đùi do chấn thương:
Sau chấn thương (gãy xương hoặc sai khớp) bao giờ cũng dẫn đến 2 hiện
tượng đó là tổn thương mạch máu và sự phục hồi mạch máu tân tạo để bù lại
sự thiếu máu, các động mạch tủy xương bị đứt hoàn toàn hoặc gần như hoàn
toàn các động mạch cổ lên, vòng mạch bao hoạt dịch cũng có tổn thương do:
Đầu gãy chọc vào làm tổn thương mạch [5], chảy máu làm áp lực trong
bao tăng gây chèn ép các vòng mạch trong và ngoài bao khớp gây hẹp hoặc
tắc động mạch dây chằng tròn, chính những lý do trên mà trong những chấn

thương gãy xương , trật khớp thì chỏm và đầu xa ổ gãy không được cấp máu
đầy đủ
Sự phục hồi mạch theo 3 nguồn:
Mạng mạch còn lại của chỏm sẽ tăng cường đến các vùng còn lại khác
nhau của chỏm, đầu xa của cổ xương đùi.
Mạch máu của tủy xương có thể được nối lại từ các mạch máu của đầu
gẫy ngoại vi qua ổ gãy
Các mạch máu tân tạo phát triển từ mô xung quanh phần chỏm không
được che phủ bởi sụn


13

Khi sự phục hồi này không đáp ứng được lượng máu tới chỏm, cổ làm
cho chỏm, cổ bị thiếu máu kéo dài, hậu quả chỏm bị biến dạng, thoái hóa,
xương đùi bị tiêu ở đầu xa thậm chí cả 2 đầu, vì vậy tỉ lệ không liền và tiêu cổ
chỏm cao mặc dù đã được nắn chỉnh và cố định vững [12].
* Hoại tử chỏm xương đùi không do chấn thương
Nguyên nhân chính dẫn đến hoại tử chỏm xương đùi không do chấn
thương là tổn thương vi mạch chỏm xương đùi [13],[14]. Tuy nhiên cho đến
nay sinh lý về hoại tử chỏm xương đùi cũng chưa thực sự rõ. Năm 1962
Massias. P cho rằng rượu làm tăng nguy cơ hoại tử chỏm xương đùi [14].
Năm 1965 Frost. H. M cho rằng do khớp háng bị lực tỳ nén lớn gây lún
xương vi thể các mạch máu nhỏ nuôi xương bị tặc làm giảm dần khả năng
nuôi chỏm, mặt khác khả năng tự sửa chữa của cổ xương đùi rất kém [15].
Năm 1970 Mc Collum thấy rằng có sự tăng acid uric ở nhóm bệnh nhân
có hoại tử chỏm xương đùi vô mạch [16].
Trong một nghiên cứu về giải phẫu của xương mào chậu ở 35 bệnh nhân
hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi Lauren J và cộng sự phát hiện thấy có 20
bệnh nhân có hiện tượng loãng xương [16].

Spencre J.D nhận thấy có hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi và bao khớp
háng ở những bệnh nhân ghép thận và dùng corticoid kéo dài [17].
Về điều trị các tác giả dùng 2 phương pháp:
Giai đoạn sớm: Phẫu thuật cắt xương chỉnh trục đầu trên xương đùi hay
khoan xương giảm áp với mục đích thay đổi hướng tỳ nén giữa chỏm và ổ cối
làm giảm áp lực vùng chỏm xương đùi và làm cho bệnh nhân có thể ổn định
trong nhiều năm.
Giai đoạn muộn khi chỏm xương đùi đã biến dạng hoàn toàn đồng thời
với biến dạng của hõm khớp, bệnh nhân đau nhiều khi đi lại và biên độ vận
động khớp háng bị hạn chế thường được phẫu thuật thay khớp háng toàn phần


14

Hình 1.6. Hình ảnh CHT của bệnh nhân hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi
Năm 1993 ACRO căn cứ theo tổn thương phát hiện được trên phim
chụp CLVT và CHT để phân chia thành 6 độ
- Độ 0: Người có yếu tố nguy cơ HTVKCXĐ nhưng không chẩn đoán
được trên X quang quy ước, CLVT và CHT, giai đoạn này được gọi là giai
đoạn trống của bệnh
- Độ I: Xquang quy ước chưa phát hiện được bất thường nhưng trên
CLVT và CHT có thể thấy, bệnh nhân có đau âm ỉ, đau không liên tục ở khớp
háng bị tổn thương.
- Độ II: Trên Xquang quy ước thấy rõ vùng thấu quang và vùng xơ cứng
do sửa chữa sau nhồi máu, CLVT và CHT cho phép chẩn đoán, giai đoạn này
tương ứng với quá trình tiêu xương và nhồi máu xương, bệnh nhân đau khi đi
lại, giảm khi nghỉ ngơi
- Độ III: Gãy xương dưới sụn với hình ảnh thấu quang hình trăng lưỡi liềm
dưới mặt sụn, CXĐ vẫn còn nguyên vẹn không bị bẹp, hình ảnh trăng lưỡi liềm
là biểu hiện của xẹp xương xốp dưới mặt sụn, sụn vẫn còn nguyên vẹn.

- Độ IV: Mặt sụn bị xẹp, đôi khi chỏm bẹp nhẹ và không thấy được trên
Xquang qui ước, tuy nhiên CLVT và CHT có thể thấy rõ, ổ cối vẫn còn
nguyên vẹn.


15

- Độ V: Ổ cối bị ảnh hưởng do không tương thích với CXĐ, ở vùng rìa
có các chồi xương do hậu quả của biến dạng CXĐ, trên lâm sàng bệnh nhân
có cảm giác đau liên tục
- Độ VI: Khe khớp hẹp hoặc không còn, CXĐ vỡ mặt sụn biến mất,
CXĐ có thể hoại tử vỡ vụn, bệnh nhân đau dữ dội liên tục, giảm nghiêm trọng
khả năng đi lại
* Chỉ số Singh: Là một dấu hiệu sớm có giá trị chẩn đoán giảm chất lượng
xương, nó dựa trên cơ sở đánh giá các bè xương ở cùng đầu trên xương đùi.

Hình 1.7. Đánh giá mức độ loãng xương theo Singh[18]
Chỉ số Singh được chia làm 6 độ[18]:
+ Độ 6: Các bè xương bình thường, các nhóm chịu lực ép, lực căng đều
bình thường
+ Độ 5: Giảm chất lượng xương ở nhóm chịu lực căng và làm cho tam
giác Ward rộng ra
+ Độ 4: Không có các bè xương ở nhóm chịu lưc căng và giảm chất
lương xương ở nhóm chịu lực ép


16

+ Độ 3: Phá mất các bè xương ở bè chịu lực căng
+ Độ 2: Mất hoàn toàn bè chịu lực căng, giảm các bè xương chịu lực nén

+ Độ 1: Chỉ còn một vài bè xương chịu lực nén
1.2.2. Bệnh thoái hóa khớp háng
* Bệnh thoái hóa khớp háng
Thoái hoá khớp háng là một nhóm các bất thường về mặt cơ học liên
quan đến sự suy thoái của khớp háng bao gồm sụn khớp và xương dưới sụn.
Các triệu chứng có thể bao gồm đau khớp, cứng khớp, mất vận động và đôi
khi có tràn dịch khớp
* Nguyên nhân
- Thoái hoá khớp háng nguyên phát: chiếm khoảng 50%, hay gặp ở độ
tuổi 60.
- Thoái hoá khớp háng thứ phát:
+ Thoái hoá khớp háng sau chấn thương như gãy cổ xương đùi, vỡ ổ
cối hoặc trật khớp háng.
+ Thoái hoá khớp háng sau biến dạng mắc phải: sau hoại tử vô khuẩn
chỏm xương đùi.
+ Thoái hoá khớp háng trên nền dị dạng cũ: thiểu sản khớp háng, trật
khớp háng…
Về sinh bệnh học của thoái hóa khớp háng: Bệnh thoái hóa khớp háng
bắt đầu từ tổn thương sụn khớp, các thương tổn khác chỉ là thứ phát.
* Phân loại thoái hóa khớp
Theo Kellgren Lawrence [19]
- Độ 1: Gai xương nhỏ hoặc nghi ngờ có gai xương.
- Độ 2: Mọc gai xương rõ.
- Độ 3: Hẹp khe khớp vừa.


17

- Độ 4: Hẹp khe khớp nhiều kèm xơ xương dưới sụn.
* Lâm sàng

- Đau: có tính chất cơ học, đau nhiều khi đi lại, dần dần đau tăng lên
ngay cả khi nghỉ ngơi và ban đêm. Vị trí đau hay gặp nhất là mặt trước đùi,
nếp bẹn, lan xuống dưới mặt trước trong đùi, đôi khi có thể xuống tận khớp
gối, ra sau mông hoặc vùng mấu chuyển xương đùi.
- Hạn chế vận động:
+ Giảm biên độ vận động khớp háng: ngày càng tăng dần và ảnh hưởng
đến các động tác sinh hoạt hàng ngày như ngồi xổm, buộc dây giày, đi vệ
sinh…
+ Động tác gấp háng thường còn tốt, trong khi các động tác dạng, khép
háng và đặc biệt là xoay bị ảnh hưởng rất sớm
- Ngắn chi: có thế bị ngắn chi do khớp háng bị biến dạng
* Cận lâm sàng
° X quang

Hình 1.8. X quang: Thoái hóa khớp háng
- Chỉ định: Tất cả những bệnh nhân có triệu chứng đau khớp háng
- Ưu điểm: là công cụ thường được sử dụng rộng rãi để chẩn đoán thoái
hóa khớp vì kết quả X Quang phản ánh một phần giải phẫu bệnh học, kĩ thuật


18

đơn giản, ít tốn kém, phù hợp với trình độ hiểu biết chung của các bác sỹ
- Nhược điểm: Không phát hiện các tổn thương vi thể.
- Hình ảnh:
+ Hẹp khe khớp: dấu hiệu chứng tỏ mòn sụn khớp
+ Mọc gai xương: phát triển ở tất cả các vị trí, ở cả chỏm xương đùi và
xương chậu, chính điều này giải thích tại sao các động tác của khớp háng bị
hạn chế.
+ Đặc xương dưới sụn: thấy ở vùng chịu lực tỳ lớn.

+ Khuyết xương: rất thường gặp, đôi khi có kích thước lớn
1.2.3. Viêm cột sống dính khớp
*Định Nghĩa: Viêm cột sống dính khớp là một bệnh thấp viêm đặc trưng bởi
tổn thương khớp cùng chậu, cột sống và các khớp ở chi dưới, thường kèm
theo viêm các điểm bám gân. Bệnh tiến triển chậm song có xu hướng dính
khớp. Bệnh viêm cột sống dính khớp có mối liên quan chặt chẽ với yếu tố
kháng nguyên hoà hợp mô HLA-B27
*Nguyên nhân
Nguyên nhân của bệnh chưa được biết rõ hoàn toàn. Có hai đặc điểm
chính là hiện tượng viêm và xơ hóa, calci hóa các dây chằng, bao khớp (đặc
biệt tại vị trí cột sống), các điểm bám gân.
- Kháng nguyên hoà hợp mô HLA-B27: gặp trong 90% trường hợp,
ngoài ra còn có thể có một số yếu tố gen khác và tác nhân nhiễm khuẩn. Yếu
tố gia đình chiếm tỷ lệ 10%.
- Phản ứng miễn dịch: Sự kết hợp giữa yếu tố gen và tác nhân nhiễm
khuẩn ban đầu ở các đối tượng này gây phản ứng miễn dịch kéo dài, có sự
tham gia của yếu tố hoại tử u (TNFα).
- Phản ứng viêm: Phản ứng miễn dịch gây ra một chuỗi phản ứng viêm,
có vai trò xúc tác của các enzymes như cyclo-oxygenase (COX).


19

- Tổn thương khớp: hiện tượng xơ các mô sụn hoặc mô xương gây hạn
chế vận động, có kèm sự phá hủy khớp.
*Chẩn đoán
a. Lâm sàng
- Triệu chứng sớm nhất thường là đau tại cột sống thắt lưng hoặc vùng
lưng-thắt lưng. Đau kiểu viêm, kèm theo hiện tượng cứng cột sống.
- Viêm khớp cùng chậu biểu hiện bởi hiện tượng đau tại vùng mông,

một hoặc hai bên.
- Viêm khớp: thể điển hình, thường biểu hiện viêm các khớp gốc chi
đối xứng hai bên (khớp háng, khớp gối chiếm 20%). Đôi khi giai đoạn sớm
chỉ biểu hiện viêm một khớp, lúc này cần chẩn đoán phân biệt với viêm khớp
nhiễm khuẩn, đặc biệt là lao khớp.
- Viêm các điểm bám tận của gân thường gặp nhất tại gân Achilles, cân
gan chân.
- Viêm kết mạc mắt và các triệu chứng tiêu hóa gặp khoảng 5-10%
(tiêu chảy, đau bụng, xuất huyết).
b. Cận lâm sàng
- Xét nghiệm máu: có các dấu hiệu viêm như tăng tốc độ lắng máu,
tăng CRP
- Kháng nguyên hoà hợp mô HLA-B27 dương tính ở 80-90% bệnh
nhân viêm cột sống dính khớp.
- Chẩn đoán hình ảnh:
+ Hình ảnh viêm khớp cùng chậu (trên phim chụp Xquang thường
quy): Giai đoạn 1: mất chất khoáng của bờ khớp, khe khớp cùng chậu rộng.
Giai đoạn 2: hình ảnh bào mòn, hình ảnh tem thư ở rìa khớp. Giai đoạn 3: đặc
xương ở bờ khớp, dính một phần khớp cùng- chậu. Giai đoạn 4: dính khớp
cùng chậu hoàn toàn.


20

Ở giai đoạn sớm, khi X quang thường quy chưa phát hiện được tổn thương,
chụp cộng hưởng từ khung chậu giúp chẩn đoán sớm viêm khớp cùng chậu.
+ Hình ảnh tổn thương cột sống: ở giai đoạn muộn, Xquang thường
quy có thể thấy hình ảnh xơ hóa các dây chằng bên hoặc dây chằng trước cột
sống, biểu hiện bởi các cầu xương, khiến cột sống có hình cây tre. Có thể thấy
hiện tượng xơ hóa các dây chằng liên gai (hình ảnh đường ray xe lửa), có thể

calci hoá đĩa đệm, tổn thương khớp liên mấu sau, tổn thương khớp xương
sườn đốt sống. Ngoài ra, có thể thấy hình ảnh loãng xương: hình ảnh tăng
thấu quang, đốt sống cong lõm hai mặt. Đôi khi (hiếm gặp) có hình ảnh gãy
cầu xương đốt sống hoặc gãy cung sau. Ở giai đoạn sớm, tổn thương cột sống
có thể được phát hiện trên cộng hưởng từ.
Khớp háng: Thường biểu hiện viêm cả hai bên. Biểu hiện viêm khớp
háng dễ dàng phát hiện trên siêu âm bởi hiện tượng tràn dịch khớp và /hoặc
dày màng hoạt dịch. Tổn thường trên X quang thường quy biểu hiện bởi hình
ảnh hẹp khe khớp, đôi khi có các hình bào mòn đối xứng qua khe khớp (hình
ảnh soi gương), giai đoạn cuối thường có dính khớp.
Viêm điểm bám gân: Viêm cột sống dính khớp có thể khởi phát bởi
biểu hiện ngoài khớp: viêm các đầu gân tại vị trí bám vào xương. Về lâm
sàng, bệnh nhân đau tại các điểm bám tận của gân, có điểm đau chói khi bấm
vào các vị trí này. Các triệu chứng trên siêu âm: hình ảnh các gân tăng âm,
tràn dịch quanh gân. Hình ảnh X quang thường quy: đôi khi thấy hiện tượng
xơ các điểm bám tận (gai xương).
c. Chẩn đoán xác định
Kết hợp triệu chứng lâm sàng, hình ảnh viêm khớp cùng chậu trên X
quang thường quy (hoặc trên cộng hưởng từ nếu nghi ngờ chẩn đoán mà biểu
hiện trên X quang thường quy chưa rõ ràng) và nếu có thể, nên xét nghiệm
HLA-B27.


21

Chẩn đoán bệnh Viêm cột sống dính khớp dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán New
York sửa đổi 1984 gồm có các triệu chứng lâm sàng và X-quang[20]:
Tiêu chuẩn lâm sàng (ít nhất có một yếu tố).
- Đau thắt lưng 3 tháng trở lên, cải thiện khi luyện tập, không giảm khi nghỉ.
- Hạn chế vận động cột sống thắt lưng cả tư thế cúi và nghiêng.

- Giảm độ giãn lồng ngực (dưới hoặc bằng 2,5 cm).
Tiêu chuẩn X quang
- Viêm khớp cùng chậu giai đoạn ≥ 2, nếu biểu hiện viêm cả hai bên.
Chẩn đoán xác định khi có tiêu chuẩn X quang và ít nhất một yếu tố thuộc
tiêu chuẩn lâm sàng.
1.3. Tình hình thay khớp háng Spiron
1.3.1. Trên thế giới
Năm 1989, tác giả người Đức Birkenhauer nghiên cứu và sản xuất
khớp nhân tạo Spiron và được sử dụng trên chó săn. Sau đó được ứng dụng
trên người từ nằm 1999 [21]
*Nghiên cứu của tác giả Đức Birkenhauer B, Kistmacher H, Ries J [22]
từ tháng 2/2003 đến 4/2003 38 khớp Spiron đã được thay tại bệnh viện DRK
ở Neuwied (Đức) trên 34 bệnh nhân. Có 4 bệnh nhân được thay khớp 2 bên.
tuổi trung bình là 60.1 trẻ nhất là 43 tuổi cao nhất là 73 tuổi. Có 20 bệnh nhân
nam và 14 bệnh nhân nữ được thay khớp háng. trong đó có 19 khớp bên trái
và 19 khớp bên phải. điểm harris trước phẫu thuật là 51 (24-76), n=38. Sau 1
năm điểm Harris trung bình là 94 (86-100), n=23. Cho đến hiện tại, chúng tôi
không phát hiện thấy biến chứng. thời gian phục hồi chức năng cho thấy ngắn
hơn so với khớp khác. Thay lại khớp là cần thiết trong một trường hợp nhiễm
trùng sớm. Sau 3 tháng, theo dõi trên các phương pháp chẩn đoán hình ảnh
cho thấy sự gia tăng các bè xương vùng cổ xương đùi và vùng liên mấu
chuyển. Cho đến hiện nay, không có bằng chứng lỏng chuôi của khớp Spiron.


22

*Theo nghiên cứu của Lugeder A, Häring E, Müller A, Droste P,
Dorste P, Zeichen J [23] năm 2013 có 28 khớp Spiron được thay cho 26 bệnh
nhân (15 nam, 11 nữ, tuổi trung bình 51[24-64] chỉ số BMI trung bình
28kg/m2 [21-39] từ 8/2009 đến tháng 1/ 2012. Trong đó có 13 ca được chẩn

đoán thoái hóa khớp háng nguyên phát, 8 ca thoái hóa khớp háng thứ phát, 5
ca hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi, 2 ca thoái hóa khớp sau chấn thương.
Thời gian phẫu thuật trung bình là 93 phút (70-121) thời gian nằm viện trung
bình là 9 ngày (6-16). không có bệnh nhân nào phải truyền máu trong và sau
mổ. Không có tai biến như huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc chảy máu sau phẫu
thuật, nhiễm trùng vết mổ, liệt thần kinh hay trật khớp. Xquang trước phẫu
thuật cho thấy lệch chi trung bình 3mm (-10-19mm). Không quan sát thấy
lệch chuôi. Điểm Harris được cải thiện từ 55.4(33.5-76.9) trước phẫu thuật
đến 90,5 (75.7-99.9) sau phẫu thuật 3 tháng. Có 01 trường hợp lỏng khớp và
được thay lại khớp háng.
1.3.2. Tại việt nam
*Nguyễn Văn Thạch và cộng sự [24] từ tháng 08/2011 đến tháng
05/2013 tại Viện chấn thương chỉnh hình - Bệnh viện Việt Đức đã phẫu thuật
cho 22 bệnh nhân (18 nam, 4 nữ) với tổng số 26 khớp háng trong đó có 4
trường hớp thay khớp háng 2 bên. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 42,7 tuổi
thấp nhất là 26, cao nhất là 64. Kết quả tốt và rất tốt theo Harris đạt 97,2%,
không có trường hơp nào mổ lại do nhiễm trùng, lỏng khớp. Đa số bệnh nhân
có thể tập vận động với dụng cụ hỗ trợ sau mổ 48h.
* Theo nghiên cứu của Mai Đức Thuận [25] năm 2014 nghiên cứu
được tiến hành từ 2/2012 đến tháng 8/2014 tại viện chấn thương chỉnh hình
bệnh viện TƯQĐ 108 đã phẫu thuật thay 56 khớp háng Spiron cho 50 bệnh
nhân dưới 50 tuổi bị hoại tử chỏm xương đùi (6 bệnh nhân thay khớp 2 bên)
tuổi trung bình là 42,7 (25-50). kết quả ban đầu được đánh giá trên 48 khớp


23

của 42 bệnh nhân . Thời gian theo dõi trung bình là 11,8 tháng (3-30 tháng).
Điểm Harris trung bình trước mổ là 50.2. Điểm Harris trung bình sau mổ là
83,7. trong đó 22/48 khớp rất tốt, 16/48 khớp tốt, 8/48 khớp trung bình và 2

/48 khớp kém
1.4. Một số đường mổ
Có nhiều đường mổ vào khớp háng để thay khớp háng toàn phần

Hình 1.9. Đường mổ vào khớp háng [26]
- Lối trước: Sử dụng khoảng trống giữa có may và cơ căng mạc đùi ,
thường được sử dụng trong kết hợp xương chậu hoặc thay khớp háng. Đường
Smith-Peterson.
- Lối bên: Phương pháp này có nguy cơ trật khớp thấp hơn so với lối sau,
các tác giả lưu ý rằng đôi khi cơ dạng không lành lại có thể yếu đi và gây đau
và thường rất khó điều trị. Charnley cắt mấu chuyển lớn để vào khớp háng,
ngày nay ít được sử dụng.
- Lối sau: vào khớp và bao khớp qua mặt lưng, tách cơ tháp và khối cơ
xoay ngoài ra khỏi xương đùi. Đường mổ này là cách tốt để vào ổ cối và


24

xương đùi và giúp bảo tồn cơ dạng khớp háng do đó giảm thiểu nguy cơ làm
mất chức năng cơ dạng khớp háng, Moore, Kocher-Langerback...
Tuy nhiên, mỗi đường mổ có những ưu điểm và khuyết điểm riêng,
không có đường mổ nào là tối ưu. Sự lựa chọn đường mổ nào là tùy thuộc vào
từng trường hợp cụ thể và kinh nghiệm của phẫu thuật viên.
- Đường mổ ít xâm lấn: đường mổ ít xâm lấn làm giảm tổn thương mô
mềm thông qua việc giảm kích thước của vết rạch. Tuy nhiên sử dụng đường
mổ này đòi hỏi đường rạch da phải tính toán chính xác để thao tác vào ổ cối
thuận lợi. Hơn nữa cần phải có các dụng cụ vén hỗ trợ và phẫu thuật viên phải
có nhiều kinh nghiệm. Đường rạch da từ 6 - 10 cm.

Hình 1.10. Các đường mổ tối thiểu vào khớp háng[26]

Có các kiểu phẫu thuật chính bao gồm:
+ Đường mổ nhỏ lối vào sau, trước, trước bên hoặc sau bên.
+ Đường mổ nhỏ sử dụng đường mổ Smith -Peterson.
1.5. Cấu tạo khớp háng nhân tạo toàn phần cán ngắn Spiron
1.5.1. Chuôi (stem)
- Cấu tạo: chuôi khớp háng Spiron được cấu tạo bởi hệ thống ren xoắn
sắc cạnh theo chiều kim đồng hồ, các ren này có tác dụng làm tăng bề mặt
tiếp xúc với xương, chính vì vậy nó làm tăng tính đàn hồi và ổn định cho cán


25

khớp, trong quá trình bắt vít cán, hệ thống răng sẽ tự cắt xương. Dọc trục của
cán là một rãnh dọc có tác dụng chứa các mạt xương do hệ thống ren tự cắt
cắt ra, các mạt xương này tạo thành các cầu xương trong quá trình liền
xương nên sẽ làm tăng sức bền của cán chỏm.

Hình 1.11. Hình ảnh cán chỏm của khớp háng Spiron [22]
1.5.2. Chỏm:
* Chất liệu của chỏm có baloại
- Chỏm Metal
- Chỏm Ceramic: 100% chất liệu ceramic (gốm)
- Chỏm Titanium bọc gốm
1.5.3. Lớp lót (liner)
Có chất liệu là nhựa Polyethylene ở giữa ổ cối (cup) và chỏm (head);
chỏm xoay ngay dưới lớp lót này.


×