Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.24 KB, 40 trang )

CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. DOANH NGHIỆP VÀ MỤC TIÊU CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức nhằm tạo
ra sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường, thông qua đó
để tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nhà nước và quyền lợi
chính đáng của người tiêu dùng.
Theo Luật Doanh nghiệp: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Căn cứ vào hình thức sở hữu, mỗi quốc gia thường có những loại hình
doanh nghiệp khác nhau. Về cơ bản, các loại hình doanh nghiệp bao gồm: công
ty tư nhân; công ty hợp doanh; công ty cổ phần; công ty trách nhiệm hữu hạn.
Mỗi loại hình doanh nghiệp có những ưu nhược điểm riêng. Tuy nhiên,
loại hình công ty cổ phần đang trở nên phổ biến và chiếm ưu thế ở các nước
phát triển.
Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận
chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những năm gần đây, hoạt
động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và
phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã
hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch
xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã
hội như: Tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo...
Doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các cơ
cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như: Cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu
ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương.
Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là doanh nghiệp ngành công nghiệp
tăng nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo
thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.


Có thể nói vai trò của doanh nghiệp không chỉ quyết định sự phát triển
bền vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá
các vấn đề xã hội.
1.1.2. Mục tiêu của doanh nghiệp
Tạo ra giá trị, tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu chính của doanh nghiệp.
Mục tiêu này nhằm không ngừng gia tăng giá trị tài sản cho chủ sở hữu doanh
nghiệp. Cụ thể, mục tiêu này được lượng hóa bằng các chỉ tiêu:
- Tối đa hóa lợi nhuận sau thuế.
- Tối đa hóa lợi nhuận trên cổ phần (EPS). Chỉ tiêu này có thể bổ sung cho những
hạn chế của chi tiêu tối đa hóa lợi nhuận sau thuế vì thứ nhất, tối đa hóa EPS
không xét đến yếu tố thời giá của tiền tệ và độ dài thời gian của lợi nhuận kỳ
vọng, thứ hai, tối đa hóa EPS chưa xem xét đến yếu tố rủi ro, và cuối cùng, tối
đa hóa EPS không cho phép sử dụng ngân sách cổ tức để tác động đến giá trị cổ
phiếu trên thị trường.
- Tối đa hóa giá trị cổ phiếu. Tối đa hóa giá trị thị trường của doanh nghiệp được
xem là mục tiêu thích hợp nhất của doanh nghiệp vì nó kết hợp nhiều yếu tố như
độ dài thời gian, rủi ro, chính sách cổ tức và những yếu tố khác có ảnh hưởng
đến giá trị cổ phiếu.
Một yếu tố khác cũng có những ảnh hưởng mạnh mẽ tới mục tiêu tối đa
hóa giá trị thị trường của doanh nghiệp là yếu tố rủi ro, tức là tính không chắc
chắn của môi trường kinh doanh đối với khả năng tạo ra lợi nhuận trong tương
lai của doanh nghiệp. Mỗi cơ hội đầu tư đều có mức độ không chắc chắn nhất
định. Nếu tình hình kinh tế và các điều kiện khác không diễn ra đúng như giả
định, lợi nhuận của các dự án đầu tư có thể không đạt được như dự kiến, đó là
rủi ro.
1.2. QUẢN LÝ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm quản lý tài chính doanh nghiệp
Quản lý tài chính doanh nghiệp là việc lựa chọn và đưa ra các quyết
định tài chính, tổ chức thực hiện các quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu hoạt
động tài chính của doanh nghiệp.

Quản lý tài chính là hoạt động liên quan đến việc huy động hình thành
nên nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn đó để tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản
của doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý tài chính là một trong các chức năng cơ bản của quản trị doanh
nghiệp. Chức năng quản trị tài chính có mỗi liên hệ mật thiết với các chức năng
khác trong doanh nghiệp như: Chức năng quản trị sản xuất, chức năng quản trị
marketing, chức năng quản trị nguồn nhân lực.
Trong quản lý tài chính doanh nghiệp, cần chú trọng và phân biệt sự
khác nhau về chức năng, vai trò của các phòng tài chính và phòng kế toán.
Trong khi phòng kế toán chú trọng đến việc ghi chép và phản ánh các nghiệp vụ
kinh tế đã phát sinh và lập báo cáo kế toán, thì phòng tài chính lại chú trọng sử
dụng các báo cáo đó để phân tích, dự báo và hoạch định các hoạt động tài chính
của doanh nghiệp trong tương lai. Mặt khác, kế toán chú trọng đến chức năng
quản lý tài sản hơn, trong khi đó, tài chính chú trọng đến quyết định đầu tư vốn
vào đâu, tìm nguồn vốn ở đâu và phân phối lợi nhuận như thế nào để duy trì và
nâng cao giá trị của doanh nghiệp trên thị trường.
Các doanh nghiệp ở nước ta, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
chỉ chú trọng đến vai trò của kế toán. Tuy nhiên, hiện nay quan điểm quản lý
đang dần thay đổi, trong đó,vai trò quản lý tài chính đang được chú trọng và
phân rõ chức năng nhiệm vụ của tài chính và kế toán và tạo ra sự đồng bộ, ăn
khớp về những hoạt động liên quan đến tài chính kế toán.
1.2.2. Tổ chức bộ máy quản lý tài chính trong doanh nghiệp
Quản lý tài chính doanh nghiệp là một trong các chức năng cơ bản của
quản trị doanh nghiệp. Người quản lý doanh nghiệp cũng là người quản lý tài
chính doanh nghiệp, tuy nhiên, trong doanh nghiệp bao giờ cũng có bộ phận
chuyên trách về công tác quản lý tài chính. Bộ phận đó có thể thuộc phòng kế
toán của doanh nghiệp hoặc có thể được tổ chức riêng phụ thuộc vào quy mô và
mô hình tổ chức của doanh nghiệp.
Thông thường, các doanh nghiệp nhỏ, bộ phận thực hiện công tác tài
chính thường là một bộ phận của phòng kế toán hoặc do các nhân viên kế toán

kiêm nhiệm. Còn trong các doanh nghiệp có quy mô lớn, mô hình tổ chức
thường có giám đốc tài chính (CFO) quản lý phòng tài chính - riêng biệt với
phòng kế toán.
Giám đốc tài chính của doanh nghiệp phải luôn đứng trước các vấn đề
tài chính hàng ngày phải giải quyết: các khoản chi tiêu mang tính ngắn hạn; các
quyết định đầu tư mua sắm vào các tài sản cố định như máy móc thiết bị…là
các tài sản hữu hình và các tài sản vô hình như thương hiệu, đưa ra thật chính
xác quyết định của mình về chính sách đầu tư. Giám đốc tài chính phải đưa ra
các quyết định xem cần thực hiện các khoản đầu tư trên bằng nguồn vốn huy
động từ đâu, bằng lợi nhuận giữ lại, hay bằng cách phát hành cổ phần, hay là
thông qua phương thức vay nợ và quyết định chính sách tài trợ như thế nào
trong số các nguồn tài trợ nêu trên là có lợi nhất. Giám đốc tài chính phải đưa ra
các quyết định về chính sách phân phối lợi nhuận. Đây cũng là việc cần phải
cân nhắc kỹ lưỡng bởi vì quyết định giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư hay chia cổ
tức có ảnh hưởng rất lớn đến giá trị thị trường của các cổ phần của doanh
nghiệp và do đó ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản của các cổ đông.
Để đưa ra các quyết định đúng đắn, giám đốc tài chính phải tổ chức thực
hiện phân tích tài chính của doanh nghiệp, phân tích tài chính dự án đầu tư và
xem xét, lựa chọn các phương án đầu tư, phương án tài trợ đảm bảo hiệu quả
nhất.
Nói chung, giám đốc tài chính doanh nghiệp có các chức năng sau:
- Đảm bảo đủ nguồn tài chính cho doanh nghiệp
- Huy động ngân quỹ với chi phí thấp nhất;
- Sử dụng hiệu quả các nguồn ngân quỹ;
- Phân tích tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính dự án đầu tư;
1.2.3. Các quy định liên quan đến quản lý tài chính doanh nghiệp
Quản lý tài chính doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh và ảnh hưởng của rất
nhiều văn bản pháp lý, bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật về các lĩnh vực:
Doanh nghiệp; Kế toán; Thuế; Chứng khoán; Đầu tư; Tài chính ngân hàng, Bảo
hiểm; Ngân sách; Khấu hao … và các Quy chế, quy định về quản lý tài chính do

Hội đồng thành viên/Hội đồng quản trị doanh nghiệp ban hành.
Ở Việt Nam, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoặc có ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp bao gồm:
- Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Luật Kế toán số 03/2003/QH11 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
- Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 và các vản bản hướng dẫn thi hành;
- Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 và các văn bản hướng dẫn thi
hành;
- Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 và các văn bản hướng dẫn
thi hành.
Ngoài ra còn có các văn bản pháp luật có ảnh hưởng đến công tác quản
lý tài chính doanh nghiệp như: Các văn bản quy định về các sắc thuế; Các quy
định về vốn sở hữu của chủ đầu tư trong kinh doanh đầu tư dự án nhà ở; Các
quy định về quản lý và sử dụng vốn Nhà nước …
1.2.4. Nhân tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính doanh nghiệp
1.2.4.1. Nhân tố môi trường bên ngoài
a. Môi trường kinh tế vĩ mô
Sự ổn định của môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý tài
chính doanh nghiệp. Những khó khăn từ kinh tế vĩ mô và biến động khó lường
của thị trường có thể khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong và rủi ro
trong quản lý tài chính.
Môi trường kinh tế vĩ mô đang thay đổi rất nhanh và thậm chí sẽ còn
thay đổi nhanh hơn sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Hiện đã tồn tại tình trạng cạnh tranh khốc liệt: quá trình toàn cầu hoá
và tự do hoá thương mại đang đe dọa tất cả các ngành kinh doanh.
Hiện nay vấn đề tác động nhanh, mạnh đến doanh nghiệp là lãi suất và
lạm phát. Lãi suất và lạm phát cao đang trở thành một gánh nặng cho doanh
nghiệp.
b. Pháp luật và chính sách của Nhà nước
Hệ thống pháp luật có tác động rất lớn đến quá trình quản lý tài chính

của doanh nghiệp. Hệ thống pháp luật có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành
kinh doanh trên một lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến
khả năng tồn tại và phát triển của bất cứ ngành nào. Khi kinh doanh trên một
đơn vị hành chính, các doanh nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể
chế luật pháp tại khu vực đó. Pháp luật tác động đến doanh nghiệp theo hai
hướng:
- Tạo ra môi trường bình đẳng cho doanh nghiệp hoạt động, bảo vệ doanh nghiệp
khi các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, có thể có ưu đãi với một số loại hình
doanh nghiệp nhất định.
- Hạn chế nhất định đối với các doanh nghiệp như la hạn chế về mặt hàng, quy
mô kinh doanh, các loại thuế…
Chính sách: Các chính sách của nhà nước sẽ có ảnh hưởng tới quản lý
tài chính doanh nghiệp nói riêng và quản lý doanh nghiệp nói chung, nó có thể
tạo ra lợi nhuận hoặc thách thức với doanh nghiệp. Như các chính sách thương
mại, chính sách phát triển ngành, phát triển kinh tế, thuế, các chính sách điều
tiết cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng …
c. Môi trường thuế và quy định về khấu hao tài sản cố định
Hầu hết các quyết định tài chính đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu ảnh
hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp, do đó có ảnh hưởng đến mục tiêu quản
lý tài chính của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, nếu thu nhập chịu thuế thấp sẽ tiết kiệm được
thuế, do vậy, doanh nghiệp có khuynh hướng đưa khấu hao và lãi vay lớn vào
chi phí để tiết kiệm thuế, tuy nhiên, chi phí lãi vay và khấu hao lại bị hạn chế
bởi những quy định của Nhà nước.
d. Môi trường tài chính
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có lúc tạm thời thăng dư
nhưng cũng có lúc tạm thời thiếu hụt vốn. Lúc tạm thời thặng dư, doanh nghiệp
cần tìm nơi đầu tư vốn để sinh lợi, lúc tạm thời thiếu hụt, doanh nghiệp cần tìm
nguồn tài trợ để bù đắp thiếu hụt nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
doanh được liên tục và hiệu quả. Do vậy, trong hoạt động của mình, doanh

nghiệp luôn gắn liền với hệ thống tài chính.
1.2.4.2. Các nhân tố bên trong
a. Quy mô và hình thức của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp có quy mô, hình thức khác nhau sẽ có những chính
sách, phương pháp quản lý tài chính khác nhau. Trong khi những doanh nghiệp
Nhà nước hoặc có vốn Nhà nước chịu sự quản lý của các cơ quan hữu quan thì
các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đến
các vấn đề tài chính của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có quy mô lớn
thường có các phòng, ban quản lý tài chính riêng biệt, chuyên nghiệp, trong khi
những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, công tác tài chính thường do các nhân viên
kế toán đảm nhiệm. Những điều đó có ảnh hưởng nhất định đến công tác quản
lý tài chính của doanh nghiệp.
b. Mục tiêu của doanh nghiệp
Mục tiêu của doanh nghiệp trong từng giai đoạn phát triển quyết định
đến công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. Trong giai nền kinh tế ổn định,
doanh nghiệp thường đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên hết nhưng trong những giai
đoạn nền kinh tế gặp phải khó khăn, mục tiêu an toàn được doanh nghiệp chú
trọng, cũng có thể mục tiêu của doanh nghiệp là tăng trưởng doanh thu, chiếm
lĩnh thị trường …. Người quản lý tài chính doanh nghiệp phải có những phương
pháp, biện pháp, công cụ khác nhau trong quản lý tài chính để đạt được mục
tiêu mong muốn.
c. Uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp
Uy tín của doanh nghiệp có tác động đến quản lý tài chính doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp có uy tín, thương hiệu tốt sẽ có nhiều thuận lợi trong
công tác huy động vốn, tiêu thụ sản phẩm và ngược lại, một doanh nghiệp có uy
tín, thương hiệu kém sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Điều đó sẽ có tác động rất lớn
đến công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp.
d. Quan điểm, khả năng của người quản lý doanh nghiệp.
Quan điểm, bản lĩnh, tầm nhìn xa trông rộng, khả năng biết nắm bắt thời
cơ, năng lực hoạch định chiến lược … của người quản lý doanh nghiệp có tính

chất quyết định đến công tác quản lý tài chính doanh nghiệp.
Một người quản lý doanh nghiệp có tầm nhìn xa, trông rộng, có ý chí và
quyết tâm can đảm theo đuổi mục tiêu, có ý thức sáng suốt, biết mạo hiểm có
những quyết định tài chính đúng đắn trong những tình huống nan giải, trong lúc
đó, người kém bản lĩnh, không đủ can đảm sẽ không thể đưa ra quyết định đúng
đắn.
Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên thực hiện công tác
tài chính có ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý tài chính. Với đội ngũ cán bộ công
nhân viên có trình độ cao, chuyên nghiệp trong phân tích, lập báo cáo tài chính,
kết quả phân tích, báo cáo tài chính sẽ có tính chuẩn xác, giúp cho người quản
lý doanh nghiệp có những quyết định tài chính đúng đắn hơn.
1.2.5. Nội dung quản lý tài chính doanh nghiệp
1.2.5.1. Lập kế hoạch tài chính
a. Lập kế hoạch tài chính
Lập kế hoạch tài chính là một nội dung rất quan trọng trong quản lý tài
chính đối với tất cả các doanh nghiệp bởi vì nó ảnh hưởng đến cách thức và
phương thức mà nhà quản lý thu hút vốn đầu tư để thành lập, duy trì và mở rộng
công việc kinh doanh.
Kế hoạch tài chính là bản kế hoạch huy động đầy đủ, kịp thời, có hiệu
quả tiền vốn phù hợp với quá trình sản xuất kinh doanh.
Kế hoạch tài chính gồm kế hoạch ngắn hạn và kế hoạch dài hạn. Kế
hoạch tài chính ngắn hạn là kế hoạch về lợi nhuận và ngân quỹ doanh nghiệp
trong khi kế hoạch dài hạn thường mang tính chiến lược và liên quan đến việc
lập các mục tiêu tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận trong vòng từ 3 đến 5 năm.
Để có một bản kế hoạch tài chính phù hợp, trước hết doanh nghiệp phải
có kế hoạch sản xuất, kế hoạch kỹ thuật (sửa chữa, thay thế, mua sắm bổ sung
thiết bị) và kế hoạch đầu tư phát triển cụ thể. Những bản kế hoạch này chính là
mục tiêu đáp ứng của kế hoạch Tài chính. Sau khi có những bản kế hoạch này,
bộ phận Tài chính doanh nghiệp sẽ tiến hành lập bảng cân đối nhu cầu vốn để
đáp ứng các kế hoạch nêu trên bao gồm: vốn lưu động cho sản xuất, vốn đầu tư

dài hạn cho nhu cầu mua sắm TSCĐ và cho đầu tư phát triển:
- Nhu cầu vốn lưu động được xác định đầy đủ tại các khâu cung ứng nguyên vật
liệu và phụ tùng thay thế (khả năng, tần suất cung cấp); dự trự nguyên vật liệu
và phụ tùng thay thế (định mức tồn kho); sản xuất ra sản phẩm chờ giao cho
khách hàng (giá thành sản xuất sản phẩm) và khâu chờ thanh toán. Nhu cầu vốn
lưu động nêu trên sẽ được tài trợ bởi nguồn vốn lưu động trong vốn chủ, khấu
hao tài sản cố định chưa chi, các khoản chờ thanh toán do chưa đến hạn, lợi
nhuận chưa phân phối, các quỹ chưa chi… sau đó đến các khoản vay ngắn hạn
ngân hàng.
- Nhu cầu vốn đầu tư dài hạn cho nhu cầu mua sắm TSCĐ và cho đầu tư phát
triển sẽ được tài trợ bởi nguồn vốn cố định trong vốn chủ và vốn vay dài hạn
ngân hàng.
- Cân đối nguồn vốn: cơ cấu hiệu quả của nguồn vốn đối với mỗi loại. Đối với
vốn lưu động thì nguồn vốn vay sẽ chiếm tỷ trọng tối đa bao nhiêu trên tổng nhu
cầu vốn và lãi suất vay tối đa bao nhiêu thì hiệu quả. Trường hợp tỷ trọng vốn
vay quá cao hoặc lãi suất tiền vay cao có thể làm giảm lợi nhuận, thậm chí có
thể lỗ thì phải có kế hoạch bổ sung vốn chủ hoặc hạn chế sản lượng tự làm để
giảm nhu cầu vốn lưu động và ngược lại. Đối với vốn đầu tư dài hạn cũng vậy,
trước hết phải xác định tỷ lệ cân đối giữa vốn chủ (nguồn vốn cố định giành cho
mua sắm TSCĐ và đầu tư phát triển) và vốn vay dài hạn ngân hàng sau đó mới
tiến hành kêu gọi tài trợ vốn từ phía ngân hàng. Trường hợp không đủ tỷ lệ vốn
chủ cần thiết có thể dẫn tới dự án kém hiệu quả thì phải bổ sung vốn chủ kịp
thời. Riêng đối với việc sử dụng vốn vay dài hạn ngân hàng mua TSCĐ là máy
móc thiết bị hoặc phương tiện vận tải thì cần phải đối chiếu với phương án thuê
mua tài chính để có thể lựa chọn được phương án hiệu quả.
b. Quy trình lập kế hoạch tài chính
• Bước 1: Nghiên cứu và dự báo môi trường
Để xây dựng kế hoạch tài chính, doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu
các nhân tố tác động trực tiếp và gián tiếp đến sự phát triển của hoạt động tài
chính của doanh nghiệp. Nghiên cứu môi trường bên ngoài để có thể xác định

được các cơ hội, thách thức hiện có và tiềm ẩn ảnh hưởng đến hoạt động tài
chính của doanh nghiệp. Nghiên cứu môi trường bên trong tổ chức để thấy được
những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp để có thể có những giải pháp
hữu hiệu khắc phục những điểm yếu và phát huy cao độ những điểm mạnh.
• Bước 2: Thiết lập các mục tiêu
Mục tiêu tài chính của doanh nghiệp bao gồm các mục tiêu về lợi nhuận,
mục tiêu doanh số và mục tiêu hiệu quả. Các mục tiêu tài chính cần xác định
một cách rõ ràng, có thể đo lường được và phải mang tính khả thi. Do đó các
mục tiêu này phải được đặt ra dựa trên cơ sở là tình hình của doanh nghiệp hay
nói cách khác là dựa trên kết quả của quá trình nghiên cứu và dự báo môi
trường. Đồng thời, cùng với việc đặt ra các mục tiêu thì nhà quản lý cần phải
xác định rõ ràng về trách nhiệm, quyền hạn của từng bộ phận trong doanh
nghiệp trong việc thực hiện các mục tiêu này.
• Bước 3: Xây dựng các phương án thực hiện mục tiêu
Căn cứ vào các mục tiêu đã đề ra, dựa trên cơ sở tình hình hoạt động của
doanh nghiệp, các nhà quản lý xây dựng các phương án để thực hiện các mục
tiêu này. Các phương án phải được xây dựng dựa trên cơ sở khoa học và chỉ
những phương án triển vọng nhất mới được đưa ra phân tích.
• Bước 4: Đánh giá các phương án
Các nhà quản lý tiến hành phân tích, tính toán các chỉ tiêu tài chính của
từng phương án để có thể so sánh, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của từng
phương án cũng như khả năng hiện thực hoá như thế nào, tiềm năng phát triển
đến đâu…
• Bước 5: Lựa chọn phương án tối ưu
Sau khi đánh giá các phương án, phương án tối ưu sẽ được lựa chọn.
Phương án này sẽ được phổ biến tới những cá nhân, bộ phận có thẩm quyền và
tiến hành phân bổ nguồn nhân lực và tài lực cho việc thực hiện kế hoạch.
1.2.5.2. Phân tích tài chính
Quản lý tài chính doanh nghiệp liên quan đến việc ra các quyết định về
đầu tư, nguồn vốn, phân chia cổ tức và phòng ngừa rủi ro. Các quyết định này

được thực hiện ở thời điểm hiện tại nhưng sẽ ảnh hưởng đến tương lai của
doanh nghiệp. Do vậy, người quản lý doanh nghiệp, trước khi ra quyết định phải
hiểu được tình hình tài chính hiện tại của doanh nghiệp thông qua kết quả phân
tích tài chính.
Mỗi nhà kinh tế khi nghiên cứu về phân tích tài chính doanh nghiệp
thường có một khái niệm và cách tiếp cận khác nhau. Song theo cách hiểu
chung nhất, phân tích tài chính doanh nghiệp là sử dụng một tập hợp các khái
niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các
thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh
nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả của doanh nghiệp đó.
Phân tích tài chính có thể được hiểu như là quá trình kiểm tra, xem xét các số
liệu tài chính hiện hành và quá khứ, nhằm mục đích đánh giá, xem xét và dự
tính các rủi ro, tiềm năng của doanh nghiệp trong tương lai làm cơ sở cho việc
ra quyết định tài chính và đánh giá doanh nghiệp một cách chính xác.
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung của quản
lý tài chính doanh nghiệp. Nhà quản lý tài chính doanh nghiệp sẽ sử dụng kết
quả phân tích tài chính để đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh,
khả năng sinh lợi, khả năng thanh toán, rủi ro tài chính để điều chỉnh các hoạt
động của doanh nghiệp, định hướng cho việc ra các quyết định đầu tư, tài trợ,
chiến lược phát triển sản phẩm, thị trường và phân chia lợi tức.
Có một hệ thống các công cụ và phương pháp mà người phân tích sử
dụng trong quá trình phân tích tài chính, trong đó có ba phương pháp phân tích
được sử dụng phổ biến nhất là phương pháp so sánh, phương pháp tỷ lệ và
phương pháp Dupont.
- Phương pháp so sánh: là phương pháp được áp dụng để xác định xu hướng biến
đổi và mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích. Phương pháp so sánh xác
định các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu và đánh giá tình trạng tài chính của một
doanh nghiệp thông qua việc so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số
tham chiếu. Như vậy, phương pháp so sánh luôn được sử dụng kết hợp với các
phương pháp phân tích tài chính khác. Khi phân tích, các nhà phân tích thường

so sánh theo thời gian (so sánh kỳ này với kỳ trước) để nhận biết xu hướng thay
đổi tình hình tài chính của doanh nghiệp, theo không gian (so sánh với mức
trung bình ngành) để đánh giá vị thế của doanh nghiệp trong ngành.
- Phương pháp phân tích tỷ lệ: Phương pháp này xác định các tỷ lệ chủ yếu theo
các tiêu chí cơ bản, xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét và
đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Phương pháp Dupont là phương pháp phân tích nhằm đánh giá sự tác động
tương hỗ giữa các tỷ số tài chính, biến một chỉ tiêu tổng hợp thành một hàm số
của một loạt các biến số.
Tài liệu phân tích: Trong tất cả các tài liệu được sử dụng thì Báo cáo tài
chính là tài liệu quan trọng và được sử dụng chủ yếu để phân tích tài chính. Báo
cáo tài chính thể hiện toàn bộ tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và là nơi để cung cấp nguồn thông tin chính xác và thiết thực cho
các chủ thể cả trong doanh nghiệp lẫn ngoài doanh nghiệp. Báo cáo tài chính có
3 loại là: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và Báo
cáo lưu chuyển tiền tệ.
Nội dung phân tích:
- Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn để từ đó làm cơ sở để quyết định
các giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong
doanh nghiệp.
- Phân tích luồng tiền: xác định sự thay đổi tiền và nguyên nhân thay đổi. Trên cơ
sở đó, doanh nghiệp sẽ có những biện pháp quản lý ngân quỹ tốt hơn.
- Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh để xác định
khả năng và nhu cầu vốn.
- Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn và đánh giá tỷ trọng từng loại tài sản và
nguồn vốn chiếm trong tổng số và xu hướng biến động của chúng.
- Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng trong Báo cáo
kết quả sản xuất kinh doanh nhằm xác định, đánh giá mối liên hệ và đặc điểm
các chỉ tiêu trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, đồng thời so sánh
chúng qua một số niên độ kế toán liên tiếp với số liệu trung bình của ngành (nếu

có) để đánh giá xu hướng thay đổi từng chỉ tiêu và kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác.
- Phân tích các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính chủ yếu: Phân tích nhóm chỉ tiêu đo
lường khả năng thanh toán để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn
hạn của doanh nghiệp; Phân tích nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính để đánh giá
mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của
doanh nghiệp; Phân tích nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động để đánh giá hiệu
quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp; Phân tích nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh
lời để đánh giá một cách tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh và năng lực tài
chính của doanh nghiệp.
1.2.5.3. Quản lý tài sản
a. Quản lý tiền và các khoản tương đương tiền
Tiền mặt là nguyên tố quan trọng nhất cho sự tồn tại của doanh nghiệp.
Quản lý tốt luồng tiền mặt sẽ giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn và
tạo cho doanh nghiệp một cơ hội để đầu tư chiến lược hoặc giảm thiểu chi phí.
Doanh nghiệp luôn luôn phải giữ tiền mặt nhằm:
- Đáp ứng các nhu cầu giao dịch hàng ngày như chi trả tiền mua hàng, tiền lương,
thuế, cổ tức …
- Sẵn sàng nắm bắt những cơ hội đầu tư thuận lợi trong qúa trình kinh doanh như
mua nguyên liệu dự trữ khi giá thị trường giảm, hoặc khi tỉ giá biến động thuận
lợi, hay mua các chứng khoán đầu tư nhằm mục tiêu góp phần gia tăng lợi
nhuận.
- Duy trì khả năng đáp ứng nhu cầu chi tiêu khi có những biến cố bất ngờ xảy ra
ảnh hưởng đến hoạt động thu chi bình thường của doanh nghiệp, chẳng hạn do
ảnh hưởng của yếu tố thời vụ khiến doanh nghiệp phải chi tiêu nhiều cho việc
mua hàng dự trữ trong khi tiền bán hàng chưa thu hồi kịp.
Tiền mặt ở đây hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tiền mặt tại quỹ của doanh
nghiệp và tiền gửi trên tài khoản thanh toán ở ngân hàng, còn các loại chứng
khoán đầu tư ngắn hạn có tính thanh khoản cao xem như là tài sản tương đương
tiền mặt. Quản trị tiền mặt liên quan đến thu, chi và đầu tư tạm thời tiền mặt

một cách hiệu quả.
Doanh nghiệp luôn phải có kế hoạch tồn quỹ mục tiêu - tồn quỹ mà
doanh nghiệp hoạch định lưu giữ dưới hình thức tiền mặt hoặc các tài sản tương
đương tiền mặt. Quyết định tồn quỹ mục tiêu tức là quyết định xem doanh
nghiệp nên thiết lập và duy trì mức tồn quỹ bao nhiêu là hợp lý. Liên quan đến
việc quyết định tồn quỹ, doanh nghiệp cần xem xét sự đánh đổi giữa chi phí cơ
hội do giữ quá nhiều và chi phí giao dịch do giữ quá ít tiền mặt.
Nếu doanh nghiệp giữ quá nhiều tiền mặt thì chi phí giao dịch sẽ nhỏ,
nhưng ngược lại chi phí cơ hội sẽ lớn. Tổng chi phí giữ tiền mặt chính là tổng
chi phí cơ hội và chi phí giao dịch.
Ta có thể xác định mức tồn quỹ tối ưu theo một số mô hình như: mô
hình Baumol, mô hình Millerr - Orr.
• Mô hình Baumol
Mô hình Baumol quyết định tồn quỹ kết hợp giữa chi phí cơ hội và chi
phí giao dịch. Mô hình này được ứng dụng nhằm thiết lập tồn quỹ mục tiêu.
Theo mô hình Baumol, nếu C là thị giá của các loại chứng khoán được bán
trong mỗi lần giao dịch, tồn quỹ bình quân trong mỗi kỳ sẽ là C/2, F là chi phí
cố định phát sinh khi bán chứng khoán ngắn hạn, T là tổng số tiền mặt cần thiết
cho mục đích giao dịch trong thời kỳ hoạch định là một năm, K là chi phí cơ hội
do giữ tiền mặt thì Tổng chi phí: TC = C/2 x K + T/C x F. Tổng chi phí TC đạt
cực tiểu khi:

K
TF
C
2
=
Sơ đồ 1.1 mô tả tổng chi phí giữ tiền mặt nhỏ nhất tại điểm C*, cho nên
C* là điểm tồn quỹ tiền mặt tối ưu. Đây chính là tồn quỹ mục tiêu mà doanh
nghiệp cần hoạch định theo mô hình Baumol.

Tổng chi phí giữ tiền mặt
Chi phí cơ hội giữ tiền mặt
Chi phí giao địch
C*
Chi phí giữ tiền mặt
Quy mô tiền mặt
Tiền mặt
Thời gian
Thấp (L)
Mục tiêu (Z)
Cao (H)
Sơ đồ 1.1: Mô hình Baumol
Mô hình Baumol được xây dựng trên những giả định bao gồm: Doanh
nghiệp áp dụng tỉ lệ bù đắp tiền mặt không đổi; Không có dự trữ tiền mặt cho
mục đích an toàn; Dòng tiền tệ rời rạc chứ không phải liên tục. Những giả định
này không đúng trên thực tế nên làm hạn chế mô hình Baumol, nhưng dù sao
mô hình này cũng có sự đóng góp quan trọng trong lý thuyết quản trị tiền mặt.
• Mô hình Miller-Orr:
Mô hình Miller-Orr tồn quỹ với dòng tiền vào và dòng tiền ra biến động
ngẫu nhiên hàng ngày. Mô hình Miller Orr liên quan đến cả dòng tiền vào và
dòng tiền ra với giả định dòng tiền ròng bằng dòng tiền vào trừ dòng tiền ra có
phân phối chuẩn. Dòng tiền dòng hàng ngày có thể ở mức kỳ vọng, ở mức cao
nhất hoặc thấp nhất. Giả định dòng tiền bằng 0, tức là dòng tiền vào bù đắp đủ
dòng tiền ra.
Sơ đồ 1.2: Mô hình Miller - Orr.

×