ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ THỊ PHƢƠNG NGA
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG KÝ
CỦA HÀ MINH ĐỨC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Đoàn Đức Phƣơng
Hµ néi - 2010
Lời cảm ơn
Tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Văn học, Bộ môn Văn học Việt
Nam - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội cùng gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến PGS.TS Đoàn Đức Phương - người đã tận tình giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn.
Học viên
Lê Thị Phương Nga
Mục lục
Mở đầu................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................... 3
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu...................................................... 4
3.1. Mục đích nghiên cứu................................................................. 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu...................................................................... 4
4. Ph-ơng pháp nghiên cứu.................................................................... 5
4.1. Ph-ơng pháp phân tích, tổng hợp.............................................. 5
4.2. Ph-ơng pháp thống kê, phân loại.................................................. 5
4.3. Ph-ơng pháp lịch sử - xã hội....................................................... 5
5. Cấu trúc của luận văn....................................................................... 5
Ch-ơng 1: Khái l-ợc về kí và hành trình sáng tác kí
của Hà Minh Đức.................................................................................. 6
1.1. Khái l-ợc về kí............................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm và những đặc điểm thể loại..............................6
1.1.2. Thể kí trong văn học Việt Nam........................................... 9
1.2. Hành trình sáng tác kí của Hà Minh Đức..................................14
Ch-ơng 2: Cuộc sống và con ng-ời trong kí của Hà Minh
Đức......................................................................................................................................................... 19
2.1. Thế giới nghệ thuật và thế giới nghệ thuật ký Hà Minh Đức....19
2.2. Đề tài nhà tr-ờng, thầy cô, bạn bè.............................................. 21
2.2.1. Hình bóng chân thực của con ng-ời và của một thời.........21
2.2.2. Những triết lý về cuộc sống............................................... 26
2.3. Đề tài những miền quê đất n-ớc và n-ớc ngoài..........................30
2.3.2. Những cảm nhận về n-ớc Mỹ..............................................37
2.4. Đề tài chuyện đời th-ờng.......................................................... 43
Ch-ơng 3: Nghệ thuật ký Hà Minh Đức........................................... 52
3.1. Chất hiện thực và h- cấu trong các tác phẩm ký của Hà Minh Đức ... 52
3.1.1. Mối quan hệ giữa chất hiện thực và h- cấu trong thể loại ký ... 52
3.1.2. Biểu hiện của chất hiện thực và h- cấu trong ký của Hà Minh
Đức................................................................................................ 53
3.2. Về ngôn ngữ, giọng điệu......................................................... 56
3.2.1. Ngôn ngữ, giọng điệu phê bình, bình luận.......................57
3.2.2. Ngôn ngữ, giọng điệu trữ tình, lãng mạn............................58
3.2.3. Ngôn ngữ, giọng điệu dí dỏm, hài h-ớc.............................62
3.3. Không gian, thời gian trong tác phẩm kí Hà Minh Đức.............66
Kết luận............................................................................................. 71
1
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam từ sau năm 1975 có nhiều khởi sắc, đổi mới
về cả ph-ơng diện nội dung lẫn hình thức biểu hiện. ở hầu hết các thể
loại đều có những đổi mới, đóng góp vào sự phát triển chung của văn học
dân tộc. Đặc biệt, bối cảnh đất n-ớc đã hoàn toàn giải phóng không có
nghĩa là con ng-ời đã hết những mối lo và cuộc sống đã mất đi những
điều thú vị bất ngờ hay những hoàn cảnh éo le tác động đến chính bản
thân con ng-ời. Ng-ợc lại, trong hoàn cảnh đặc biệt này, cuộc sống của con
ng-ời càng trở nên đa dạng, nhiều màu vẻ. Nếu nh- trong thời kỳ tr-ớc, khi
đất n-ớc còn chìm trong cảnh khói lửa chiến tranh, cả dân tộc đều h-ớng
đến một mục tiêu cao cả nhất: đấu tranh giải phóng đất n-ớc thì sau khi
giải phóng, mỗi ng-ời lại trở về với cuộc sống riêng và những lo toan riêng của
mình. Bởi thế, nhu cầu mọi mặt của xã hội con ng-ời đã có nhiều thay
đổi và văn học đã nhanh chóng nắm bắt đ-ợc sự thay đổi đó.
Đề tài đ-ợc quan tâm nhất của văn học giai đoạn này chính là đời
sống con ng-ời thời kỳ hậu chiến. Những vấn đề về quyền sống cá
nhân và những gì tr-ớc đây bị gác lại thì nay đã đ-ợc các tác giả khơi gợi
lại. Con ng-ời lo lắng cho bản thân mình và tự thể hiện mình nhiều
hơn. Điều này đã dẫn đến một yêu cầu tất yếu dành cho nghệ thuật
nói chung, đó là sự phản ánh một cách khách quan, chân thực về cuộc
đời. Văn học cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Đối với văn học,
những thể loại có -u thế lớn về việc phản ánh một cách khách quan, chân
thực về cuộc sống với tất cả những gì đang diễn ra có cơ hội và điều
kiện để phát triển một cách mạnh mẽ. Và, đây chính là cơ hội cho kí
đ-ợc khẳng định -u thế riêng của mình so với các thể loại văn học khác.
1.
2. Từ tr-ớc đến nay, nói đến Hà Minh Đức, bao giờ ng-ời ta cũng
nghĩ ngay đến hình ảnh của một nhà nghiên cứu, phê bình văn
2
học xuất sắc thời hiện đại. Không nhiều ng-ời trong chúng ta biết
rằng bên cạnh vai trò là một nhà nghiên cứu, phê bình văn học, ông
còn là một nhà văn, nhà thơ với sức sáng tạo khá dồi dào, tác giả của
bốn tập thơ và năm tập bút kí có giá trị và gây đ-ợc tiếng vang trên
văn đàn văn học Việt Nam hiện đại. Năm 1999, khi tập kí đầu tiên
của ông mang tên Vị Giáo s- và ẩn sĩ đ-ờng ra đời thực sự đã gây
đ-ợc tiếng vang lớn trong d- luận bởi một giọng văn thâm trầm, sâu
sắc, giản dị và giàu xúc cảm, với những phát hiện tinh tế và những
liên t-ởng độc đáo. Các tác phẩm kí tiếp theo ra đời không chỉ đáp
ứng đ-ợc những nhu cầu của con ng-ời trong một xã hội mới mà còn
tiếp nối đ-ợc những thành công của những tác phẩm đầu tay, ghi dấu
ấn tên tuổi tác giả Hà Minh Đức trên văn đàn với thể loại ký. Đặc biệt,
Ba lần đến n-ớc Mỹ đã đ-ợc đánh giá là một tác phẩm viết khá thành
công ở một đề tài khó về một đất n-ớc đa dạng, nhiều màu vẻ mà ai
cũng có thể hiểu phần nào, song để nắm bắt đ-ợc bản chất của nó
thì d-ờng nh- là điều không phải ai cũng có thể làm đ-ợc.
Nh- vậy, có thể nói, không chỉ thành công trên lĩnh vực nghiên
cứu văn học, Hà Minh Đức còn rất thành công trong vai trò là một tác
giả sáng tác. Tuy nhiên, điều này ngoài những ng-ời thực sự quan tâm
đến văn học hay nói đúng hơn là ngoài những chuyên gia, những nhà
nghiên cứu, ít ai biết đến. Chính vì vậy, mặc dù có giá trị lớn song
các tác phẩm ký của ông vẫn ch-a đ-ợc nghiên cứu, tìm hiểu và giới
thiệu đến bạn đọc một cách có hệ thống.
Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Thế giới nghệ
thuật trong ký của Hà Minh Đức với mong muốn đóng góp một phần
nhỏ bé của mình vào việc khẳng định những giá trị cơ bản của tác
phẩm ký Hà Minh Đức trong sự vận động, phát triển của thể loại.
3
2. Lịch sử vấn đề
Những sáng tác kí của Hà Minh Đức thời kỳ này là sự kế thừa,
tiếp nối và góp phần hiện đại hóa một thể loại không còn xa lạ với độc
giả nói chung. Đây cũng là sự so sánh, đối chiếu với các tác giả cùng
thời. Đồng thời, những sáng tác kí của ông đã khắc phục những hạn
chế mà thơ ca hay văn xuôi không đáp ứng đ-ợc tr-ớc những nhu cầu
ngày càng đa dạng của cuộc sống con ng-ời.
Mặc dù vậy, nh- đã nói, các sáng tác kí của Hà Minh Đức còn khá
xa lạ với bạn đọc và các công trình nghiên cứu về các tác phẩm kí của
ông còn rất ít và ch-a có tính hệ thống. Hầu hết chỉ là những bài
báo mang tính chất giới thiệu, đánh giá về các tác phẩm khi mới ra đời.
Chúng ta có thể kể ra một số bài báo tiêu biểu đánh giá về các tác
phẩm kí của Hà Minh Đức nh-:
Bài bình luận của Trần Khánh Thành Bản lĩnh của một ngòi bút
trong Ba lần đến n-ớc Mỹ (Báo Văn Nghệ - tháng 4/2001) về tập Ba lần
đến n-ớc Mỹ. Tác giả khẳng định đây là tác phẩm của một ng-ời có
bản lĩnh. Tác phẩm có sức hấp dẫn do tìm đ-ợc cách tiếp cận vấn đề
ở nhiều góc độ khác nhau hòa trộn với cách viết giàu xúc cảm.
Bài viết Một lần đọc Ba lần đến n-ớc Mỹ của Đỗ Quang Hạnh
(Báo Lao Động - Tháng 10/2000) khẳng định đây là một cuốn sách
đáng đọc. Tác giả đã ghi chép một cách chân thực cảm nghĩ công
việc trong những lần đến với n-ớc Mỹ. Bởi yêu thơ và làm thơ nên mỗi
trang viết của ông đều có chất văn, giàu cảm xúc
Bài viết của L-u Khánh Thơ về tập Ng-ời của một thời đăng
trên báo Công an nhân dân có tính chất giới thiệu về tác phẩm trong
lần xuất bản. Tác giả đã đánh giá tập kí này đã hoàn thiện những
mục đích ban đầu đ-ợc đ-a ra, không chỉ tái hiện cuộc sống và
những con ng-ời một thời mà còn thể hiện đ-ợc bản chất cuộc sống.
4
Bài viết Bút kí và hồi kí thời kỳ đổi mới của Lý Hoài Thu
(vienvanhoc.org.vn) đã xem xét những đặc tr-ng, những thành tựu
của bút kí và hồi kí văn học trong hoàn cảnh lịch sử mới. ở đó, tác giả
đã dẫn ra các tập kí của Hà Minh Đức nh- những dẫn chứng tiêu biểu
cho những giá trị của thể loại trong thời hiện đại.
Ngoài ra còn có thể kể đến các bài viết của Đào Duy Hiệp và một
số tác giả khác mang tính chất giới thiệu về các tập ký khi mới xuất bản.
Nh- vậy, có thể nói, các bài viết này đã nêu bật đ-ợc những đặc
tr-ng tiêu biểu và quan trọng nhất trong các tác phẩm kí của Hà Minh
Đức là đã phản ánh một cách khách quan, chân thực về cuộc đời, nắm
bắt đ-ợc bản chất của cuộc sống với lối viết giản dị, chân thực nh-ng
cũng giàu chất thơ. Tuy nhiên, sự nhìn nhận, đánh giá còn ch-a thật
cụ thể và hệ thống.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với việc chọn đề tài Thế giới nghệ thuật trong ký của Hà Minh
Đức, chúng tôi muốn đi vào việc tìm hiểu cuộc sống, con ng-ời đ-ợc
phản ánh trong các tác phẩm và nghệ thuật viết ký của ông. Từ đó, đóng
góp một phần nhỏ vào việc khám phá một khía cạnh mới của một tác giả
từ lâu đã quen thuộc trên lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học. Đồng
thời góp phần tìm hiểu một cái nhìn mới về thể loại ký trong cảm quan
của một nhà phê bình văn học. Từ đó, có thể tìm hiểu một cách hoàn
thiện và đầy đủ hơn về thể loại ký trong thời hiện đại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là các tác phẩm ký của Hà Minh Đức. Tuy
nhiên, có sự so sánh, đối chiếu với các tác giả tr-ớc đây và các tác giả
cùng thời để có cái nhìn tổng thể và toàn diện hơn.
Các tập kí của Hà Minh Đức đ-ợc khảo sát trong luận văn:
5
-
Vị giáo s- và ẩn sĩ đ-ờng (NXB Văn Học, 1999).
-
Ba lần đến n-ớc Mĩ (NXB Văn Học, 2000).
-
Tản mạn đầu ô (NXB Văn Học, 2002).
-
Đi một ngày đàng (NXB Văn Học, 2004).
-
Ng-ời của một thời (NXB Văn Học, 2009).
4. Ph-ơng pháp nghiên cứu
Khi tiến hành thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phơng pháp nghiên cứu nh-: Ph-ơng pháp phân tích, tổng hợp; Ph-ơng
pháp thống kê, phân loại; Ph-ơng pháp lịch sử - xã hội.
4.1. Ph-ơng pháp phân tích, tổng hợp
Đây là ph-ơng pháp quan trọng nhất. Ph-ơng pháp này giúp cho việc
nghiên cứu, phân tích các vấn đề, các chi tiết về cả nội dung và nghệ thuật.
Từ đó, khái quát nên những ý nghĩa nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc.
4.2. Ph-ơng pháp thống kê, phân loại
Ph-ơng pháp này giúp cho việc tìm hiểu những khía cạnh về
cuộc sống và con ng-ời đ-ợc tác thể hiện trong tác phẩm.
4.3. Ph-ơng pháp lịch sử - xã hội
Ph-ơng pháp này cho thấy những đặc tr-ng về nội dung và
nghệ thuật trong các tác phẩm kí Hà Minh Đức có sự kế thừa từ
truyền thống và không nằm ngoài dòng chảy chung của thể loại kí
trong văn học hiện đại Việt Nam.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, luận văn gồm ba ch-ơng:
Ch-ơng1: Khái l-ợc về ký và hành trình sáng tác ký của Hà Minh Đức
Ch-ơng 2: Cuộc sống và con ng-ời trong ký của Hà Minh Đức
Ch-ơng 3: Nghệ thuật ký Hà Minh Đức
6
Ch-ơng 1
Khái l-ợc về kí và hành trình sáng tác kí
của Hà Minh Đức
1.1. Khái l-ợc về kí
1.1.1. Khái niệm và những đặc điểm thể loại
Bakhtin từng nói: Trong văn học, các thể loại luôn đ-ợc đặt trong
mối quan hệ bình đẳng về giá trị nghệ thuật song mỗi thể loại là sự
thể hiện một thái độ thẩm mỹ với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn
nhận, giải minh thế giới và con ng-ời.
Từ tr-ớc đến nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau khi xem xét
lịch sử phát triển của văn học. Trong đó, một số ý kiến cho rằng lịch sử
phát triển của văn học chính là lịch sử ra đời của các thể loại. Bởi vì mỗi
thời đại có những đặc điểm lịch sử khác nhau nên cũng đặt ra các yêu
cầu khác nhau với các tác giả sáng tác. Vì thế, không chỉ nội dung phản
ánh mà hình thức của các tác phẩm cũng phải thay đổi để phù hợp với
nội dung, cũng là đáp ứng những nhu cầu khác nhau của thời đại và con
ng-ời. ý kiến trên của Bakhtin cũng có thể nói là sự đồng ý với quan
điểm: lịch sử văn học là lịch sử ra đời của các thể loại. Chính vì vậy,
không thể khẳng định rằng thể loại nào hiện đại và quan trọng hơn
thể loại nào, mà chỉ có thể khẳng định rằng trong một giai đoạn lịch
sử nhất định, thể loại nào phù hợp hơn. Nh- vậy, có thể nói, mỗi thời đại
đã sản sinh ra dạng thức văn học mang đặc tính của nó. Trong đó, kí
văn học là dạng thức văn học mang đặc tính thời đại của chúng ta: bận
rộn, đa dạng và nhiều biến hoá.
Có thể nói, kí là tên một nhóm thể tài nằm ở phần giao thoa giữa văn
học và cận văn học (báo chí, chính luận, ghi chép t- liệu các loại), chủ
7
yếu là văn xuôi tự sự. Xét về mặt từ vựng, ký là sự ghi chép những điều
trông thấy, những điều đ-ợc chứng kiến, mắt thấy tai nghe hay những sự
thật, việc thật. Bởi vậy, xét về mặt lịch sử, ký ra đời từ rất sớm. Tr-ớc khi
có báo chí đã có các tác phẩm ký, chẳng hạn các tác phẩm ký của văn học
Trung Quốc hay với xã hội Nga vào giữa thế kỉ XIX có nhiều hỗn loạn, chế
độ nông nô sụp đổ, quý tộc suy đồi, tầng lớp hạ l-u bị bần cùng hoá, ký là
một trong những thể loại chủ đạo của văn học. Trong xã hội Anh đầu thế kỉ
XVIII, khi các tạp chí đăng những bài phác họa chân dung và cảnh sinh hoạt
với mục đích châm biếm đã trở thành ngọn nguồn cho sự nở rộ của thể
loại ký. Xã hội càng hiện đại, ký càng trở nên quan trọng bởi vì nó bắt kịp
và đáp ứng đ-ợc sự thay đổi nhanh chóng, từng ngày.
Xét về mặt phân loại, có thể chia ký thành nhiều loại khác
nhau, trong đó, các thể loại chính có thể kể đến là: ký sự, hồi ký, bút
ký, tuỳ bút. Trong đó, ký sự là một thể của kí thiên về tự sự, ghi chép
các sự kiện hay kể lại câu chuyện vừa mới xảy ra. Ký sự có cốt truyện
hoàn chỉnh hoặc t-ơng đối hoàn chỉnh, cũng là loại thể có các yếu
tố trữ tình xen lẫn với chính luận, yếu tố phi cốt truyện không nhiều.
Ký sự là bức tranh toàn cảnh trong đó sự việc và con ng-ời đan chéo,
những g-ơng mặt nhân vật không thực sự rõ nét.
Bút kí là một thể loại của ký, nằm trung gian giữa ký sự và tuỳ
bút. Bút ký thiên về ghi lại những cảnh vật mà nhà văn mắt thấy tai
nghe trong các chuyến đi. Bút ký tái hiện con ng-ời và sự việc một
cách phong phú, sinh động, qua đó, biểu hiện khá trữ tình khuynh hớng cảm nghĩ của tác giả, có màu sắc trữ tình.
Hồi ký là sự ghi lại diễn biến của câu chuyện, nhân vật theo bớc đi của thời gian qua sự hồi t-ởng của con ng-ời. Hồi ký là những ghi
chép có tính chất suy t-ởng của cá nhân về quá khứ. Sự kiện trong
hồi ký có thể do tác giả t-ởng t-ợng thêm.
8
Tùy bút là một dạng khá đặc biệt của ký. Cũng là sự biểu hiện
và phản ánh hiện thực cuộc đời, đặc biệt là những sự vật, hiện t-ợng
hay những sự kiện đã và đang diễn ra, song ở thể loại tùy bút, ng-ời
nghệ sĩ khá tự do trong việc biểu hiện cái tôi cá nhân riêng biệt và
độc đáo của mình thông qua các thủ pháp nghệ thuật, việc điều
chỉnh và sử dụng ngôn từ. Tùy bút nghiêng hẳn về phía trữ tình với
điểm tựa là cái tôi cá nhân của tác giả.
Nh- vậy, có thể nói, mặc dù bao gồm nhiều tiểu loại khác nhau
song một điểm chung có thể thấy ở ký đó là những yêu cầu về chất
hiện thực và nhiệm vụ nắm bắt đ-ợc hơi thở của thời đại.
Tr-ớc đây, ký th-ờng bị xem nhẹ. Một số quan niệm cho rằng những
nghệ sĩ không thể sáng tác các thể loại khác thì mới đi vào viết ký. Tuy
nhiên, sự tồn tại và phát triển không ngừng của kí đã khẳng định điều ngợc lại hoàn toàn. Trong quá trình viết ký, để viết đ-ợc hay là điều cực kì
khó khăn bởi vì tác giả vừa phải phản ánh một cách chân thực về hiện thực
đ-ợc chứng kiến, vừa phải tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn cho độc giả.
Về đặc tr-ng nghệ thuật của ký cũng còn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại, ký là một thể loại nằm giữa văn học và báo
chí. Chính vì vậy, nó vẫn bao gồm đặc tr-ng của cả hai thể loại này. Có
thể nói, ký có mối liên hệ chặt chẽ, sâu xa với hiện thực xã hội. Nguyên tắc
tiếp cận và phản ánh cuộc sống là cơ sở để tìm hiểu đặc điểm của thể
loại ký. Ký quan tâm đến đời sống ở nhiều chiều, nhiều đặc tính.
Nguyên tắc tôn trọng tính xác thực của đối t-ợng miêu tả là yêu cầu quan
trọng của thể loại này. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là kí loại bỏ
hoàn toàn sự h- cấu của tác giả. ở ký, sự h- cấu cần đ-ợc kiểm soát và vận
dụng có chừng mực, hợp lí. Giá trị của tác phẩm kí không nằm ở chỗ tác
phẩm đó h- cấu nhiều hay ít mà là việc tác giả vận dụng h- cấu đó nhthế nào để truyền tải t- t-ởng đến ng-ời đọc, ng-ời nghe. Chính vì những
9
đặc tr-ng hết sức quan trọng ấy, kí đã v-ợt qua báo chí, trở thành
một thể loại văn học vừa chính thống, vừa mang tính t- t-ởng cho thời
đại. Đọc các tác phẩm kí văn học, chúng ta có thể thu nhận đ-ợc nhiều
hơn những đặc tính của thời đại, của hiện thực xã hội đang diễn ra
bởi khả năng lôi cuốn và thu hút ng-ời đọc của kí là điều không cần
phải khẳng định thêm. Ngay trong ý thức của các nhà văn khi sáng tác
bằng thể loại kí, chắc hẳn đều xác định đ-ợc điều này bởi nếu
không, tác phẩm kí không hơn gì sự ghi chép một cách đơn thuần
về những gì đang diễn ra xung quanh con ng-ời.
Ký cho phép tái hiện những thời đoạn lịch sử đã qua trong tiến trình
phát triển xã hội thông qua những bình diện mà nó đề cập. Có những tác
phẩm chủ yếu miêu tả các phong tục tập quán, có những tác phẩm chú ý
miêu tả những nét tính cách xã hội, có những tác phẩm mang tính triết lý,
có những tác phẩm mang âm h-ởng trữ tình. Kết cấu của ký rất đa dạng,
có thể là mô hình ng-ời kể chuyện để tạo sự thống nhất cho các thành
phần, câu chuyện trong tác phẩm cũng có thể lấy các đoạn mô tả, các
đoạn bình luận để làm ph-ơng tiện ráp nối các sự kiện.
Nh- vậy, có thể nói, ký là một thể loại văn học gắn liền với sự
thay đổi và những biến động của cuộc sống con ng-ời trong những
giai đoạn và hoàn cảnh khác nhau. Với những đặc tr-ng rất riêng của
mình, ký không chỉ làm phong phú thêm cho các thể loại văn học mà
còn ngày càng khẳng định đ-ợc vai trò và tầm quan trọng của mình
trong việc biểu hiện và phản ánh thế giới.
1.1.2. Thể kí trong văn học Việt Nam
Nh- trên đã nói, ký xuất hiện từ rất sớm. Và, cũng nh- các thể loại
khác, qua từng thời kì khác nhau, ký cũng có sự bién đổi để phù hợp
hơn với tr-ớc hết là nhu cầu thể hiện và phản ánh của ng-ời nghệ sĩ,
sau nữa là đáp ứng những nhu cầu khác nhau của độc giả.
10
ở
Việt Nam, ký cũng xuất hiện sớm, từ thời kỳ văn học trung đại
d-ới sự ảnh h-ởng sâu sắc và toàn diện của văn học Trung Quốc.
Trong văn học trung đại Việt Nam, những tác phẩm ký tiêu biểu có thể
kể đến đó là: Th-ợng kinh kí sự (Hải Th-ợng Lãn Ông Lê Hữu Trác),
Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ)
Cùng với sự phát triển của văn học qua các thời kì lịch sử của dân tộc,
ký cũng không ngừng phát triển. Với tính chất là một thể loại coi trọng tính
khách quan và khả năng phản ánh hiện thực cuộc sống, một điều tất yếu là
ký luôn luôn gắn liền với những thăng trầm, đổi thay của lịch sử dân tộc.
Thời kỳ 1930 - 1945 đã chứng kiến sự phát triển mạnh của thể loại phóng
sự, đặc biệt là phóng sự về các tệ nạn xã hội. Đó là Tôi kéo xe (Tam
Lang), Cạm bẫy ng-ời, Kỹ nghệ lấy Tây (Vũ Trọng Phụng), Việc làng,
Tập án cái đình (Ngô Tất Tố). Đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến vệ
quốc vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cùng với các thể loại khác
nh- tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ ca, ký đã tạo nên một diện mạo mới cho
văn học Việt Nam hiện đại, nắm bắt đ-ợc một cách kịp thời, chính xác
những đổi thay cũng nh- hơi thở của thời đại. Thời kỳ này, các tác phẩm ký
đã xuất hiện với số l-ợng lớn, chất l-ợng cao nh-: Ký sự Cao Lạng (Nguyễn
Huy T-ởng, 1951), Truyện và ký sự (Trần Đăng, 1954), Nhật kí ở rừng
(Nam Cao, 1956). Trên văn đàn Văn học Việt Nam thời kỳ này, đã khẳng
định tên tuổi Nguyễn Tuân - một tác giả văn học xuất sắc, một nghệ sĩ
ngôn từ. Đặc biệt, ở thể loại tùy bút, những tác phẩm của ông cho đến nay
và mãi về sau này nữa, khó ai có thể v-ợt qua đ-ợc. Từ một nhà văn lãng mạn
thời kỳ tr-ớc Cách mạng tháng Tám, sau khi Cách mạng thành công, ông đã
tham gia phục vụ kháng chiến với những tác phẩm xuất sắc, gắn liền với
những chuyển biến của lịch sử dân tộc nh-: Bút kí Đ-ờng vui (1949),
Tình chiến dịch (1950), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)...Sau ngày đất
n-ớc hoàn toàn giải phóng, các tác phẩm của
11
Nguyễn Tuân nói chung và các tác phẩm kí của ông nói riêng cũng đã
đi vào việc phản ánh những đổi thay của cuộc sống mới, con ng-ời mới
và ông cũng ghi dấu ấn đậm nét với tùy bút Sông Đà bằng những
trang văn hết sức độc đáo.
Từ sau khi đất n-ớc hoàn toàn giải phóng, ký phát triển mạnh mẽ,
có nhiều b-ớc đột phá trong việc phản ánh cuộc sống mới, con ng-ời mới.
Và, không phải là ngẫu nhiên khi trong giai đoạn này, kí lại là thể loại có
sức phát triển mạnh mẽ nhất. Điều này có thể lý giải bằng một nguyên
nhân cụ thể, chủ yếu. Đó là trong thời kỳ hòa bình, đời sống xã hội
đang có những biến đổi mạnh mẽ đã tác động trực tiếp đến cuộc sống
của những con ng-ời cụ thể. Con ng-ời tr-ớc đây sống vì cộng đồng, vì
dân tộc với khát vọng cống hiến sức mình cho mục tiêu cao cả mang tầm
vóc quốc gia thì ngày nay, bắt đầu h-ớng về bản thân mình và h-ớng tới
hiện thực cuộc sống đang diễn ra xung quanh. Con ng-ời muốn có
những tác phẩm văn học phản ánh một cách chân thực và toàn diện về
cuộc sống đang ngày càng có nhiều đổi thay. Với -u thế xuất phát từ
hiện thực và tôn trọng hiện thực cuộc sống, kí đã phát triển và khẳng
định tầm quan trọng của mình trên văn đàn nh- một điều tất yếu.
Chính vì vậy, thể loại này đã có những b-ớc phát triển mạnh mẽ hơn
nhiều so với các thời kì tr-ớc đó. Từ cuối những năm 80, đầu những năm
90, trên văn đàn văn học Việt Nam đã xuất hiện một số tác phẩm kí có
giá trị cả về nội dung và nghệ thuật nh-: Các tác phẩm kí của Hoàng
Phủ Ngọc T-ờng: Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng
sông (1984) Đây chính là những t- liệu quý giá không chỉ cho việc
tìm hiểu một giai đoạn lịch sử đáng nhớ của dân tộc mà còn đánh dấu
cho nhu cầu tự thể hiện của mỗi ng-ời nghệ sĩ.
Trong b-ớc phát triển chung đó của thể loại ký, cho đến cuối những
năm 90 của thế kỷ XX, bút ký và hồi ký lại có b-ớc tiến mạnh mẽ hơn cả. Sở
dĩ nh- vậy là vì hai tiểu loại này có -u thế lớn trong việc phản ánh hiện
12
thực. Với bút ký là sự ghi lại những điều mắt thấy tai nghe của nhà văn
trong những chuyến đi hay những câu chuyện, con ng-ời đ-ợc tiếp
xúc ngay trong cuộc sống th-ờng nhật. Với hồi ký là sự ghi lại những sự
kiện theo b-ớc chuyển của thời gian qua sự hồi t-ởng của con ng-ời.
Các đề tài đ-ợc quan tâm đến đó là những đề tài vĩ mô nh- tái hiện
bức tranh hào hùng của dân tộc qua hai cuộc chiến tranh vĩ đại
hoặc ký ức về những sự kiện, các biến động lớn của các dân tộc nhng mang tầm vóc và sự ảnh h-ởng đến toàn cầu.
Bên cạnh việc khai thác các đề tài mang tầm vĩ mô về đất n-ớc, dân
tộc, các tác giả đã chuyển sang bám sát và phản ánh cuộc sống vi mô với
muôn mặt đời th-ờng của con ng-ời. Ch-a bao giờ cuộc sống cá nhân của
con ng-ời với những gì bình th-ờng nhất đ-ợc quan tâm nhiều nh- lúc này.
Nhà văn đã tái hiện cuộc sống với tất cả những gì ngổn ngang, bề bộn
nhất, bởi đó chính là thực tế mà con ng-ời đang phải đối mặt. Điều này
đã dẫn đến một hệ quả tất yếu là các nhân vật trong kí lúc này là những
con ng-ời rất đỗi bình th-ờng, quen thuộc trong đời sống mỗi chúng ta
hoặc là những số phận nhỏ bé của cuộc sống thực tại. Có thể thấy rất rõ
điều này trong các tác phẩm tiêu biểu nh-: Cát bụi chân ai (Tô Hoài),
Chân dung và đối thoại (Trần Đăng Khoa), Từ bến sông Th-ơng (Anh
Thơ), Bốn m-ơi năm nói láo (Vũ Bằng)Họ là những số phận, những cá
nhân độc lập và mang đậm những nét tính cách riêng biệt, mang bản sắc
cá nhân rất rõ nét. Từ đó, chúng ta có thể có cái nhìn đa dạng, nhiều
chiều hơn về con ng-ời và cuộc sống, về những điều t-ởng nh- đã quá đỗi
quen thuộc. Với đề tài này, một điều khá đặc biệt là chúng ta bắt gặp
khá nhiều những tác phẩm viết về những con ng-ời hoạt động trong lĩnh
vực văn ch-ơng nghệ thuật giống nh- là việc các tác giả xây dựng lại những
bức chân dung về tri âm, tri kỉ, mang lại những hình ảnh về họ là những
tài năng nghệ thuật nh-ng cũng là những con ng-ời rất đỗi bình th-ờng với
đời sống tinh thần vô cùng phong phú nh-ng cũng hết sức gần gũi đối với
mỗi chúng ta. Đó
13
là những Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Hoàng Trung
ThôngViệc tái hiện những hình ảnh của họ trong tác phẩm cũng
chính là sự nhớ lại những giai đoạn khó phai mờ trong lịch sử một thời.
Với những nhu cầu phản ánh đa dạng và phong phú ấy, một hệ
quả đã dẫn đến về mặt tính chất của thể loại kí trong thời kỳ hiện
đại đó là sự giao thoa, gia nhập, pha trộn, chuyển hóa lẫn nhau của
các thể loại. Nói nh- nhà văn Nguyên Hồng: Bây giờ, chúng ta có thể
đọc một bài bút kí trong đó không thiếu những đoạn viết theo lối
phóng sự lẫn hồi kí và có cả truyện ngắn [22; 45]. Điều này đã
minh chứng cho sự phát triển ngày càng linh hoạt và năng động của
thể loại ký trong từng thời điểm khác nhau.
Trong những năm gần đây, đã xuất hiện một số tác phẩm ký gây đợc sự chú ý, quan tâm của ng-ời đọc. Đó là tập nhật kí của nữ anh hùng
- bác sĩ Đặng Thùy Trâm hay của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Những tác
phẩm này đã không chỉ tái hiện một cách chân thực, sinh động một thời
kỳ lịch sử vẻ vang của dân tộc với những hình t-ợng con ng-ời bất khuất,
anh dũng và đầy lý t-ởng mà còn giúp thế hệ trẻ ngày nay tự nhìn nhận
lại mình trong mối quan hệ và trách nhiệm với quốc gia, dân tộc. Bên
cạnh đó, còn là những tập hồi kí của những ng-ời của công chúng cũng
gây đ-ợc sự tò mò, chú ý cho ng-ời đọc nh-: Lê Vân yêu và sống
Nh- vậy, có thể nói, ký là một thể loại văn học đặc biệt. Cũng giống
nh- các thể loại văn học khác, ký xuất phát từ cuộc sống và quay trở lại phục vụ
cuộc đời. Tuy nhiên, điểm đặc biệt khiến cho ký khác với các thể loại khác đó
chính là ký đòi hỏi cao về tính khách quan và khả năng phản ánh hiện thực.
Ký không hẳn hoàn toàn là một thể loại văn học mà còn có sự giao thoa và
mối quan hệ khăng khít với báo chí. Không thể phủ nhận những ảnh h-ởng
của báo chí đến ký, nh-ng không nên xem ký là kết quả của sự thâm nhập
của báo chí vào văn học. Điểm phân biệt giữa ký văn học và kí báo chí
chính là ở màu sắc trữ tình và sự h- cấu của tác giả. Tuy
14
nhiên, nói vậy không có nghĩa là ký văn học đ-ợc quyền h- cấu một
cách thoải mái, tự do. Sự h- cấu này vẫn phải có giới hạn, đảm bảo
đặc tr-ng riêng của thể loại. Chính vì vậy, việc tìm hiểu ký trong
những sáng tác của một tác giả cụ thể là việc làm cần thiết để mang
lại cho chúng ta cái nhìn toàn diện và đa chiều hơn về thể loại này.
1.2. Hành trình sáng tác kí của Hà Minh Đức
Hà Minh Đức nguyên là viện tr-ởng Viện Văn học, nguyên chủ
nhiệm khoa Báo chí - Đại học Tổng hợp. Ông sinh ngày 3/5/1935 tại
Vĩnh Lộc - Thanh Hóa.
Ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn - Đại học Tổng hợp (Nay là Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội) năm 1957. Từ
năm 1957 đến nay, ông lần l-ợt đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng
nh-: tr-ởng bộ môn Lý luận văn học, phó chủ nhiệm khoa Văn học, Chủ
nhiệm khoa Báo chí, Viện tr-ởng Viện Văn học, Tổng biên tập Tạp
chí Văn học. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và hội viên
Hội Nhà báo Việt Nam.
Từ tr-ớc đến nay, Hà Minh Đức luôn đ-ợc biết đến trong vai trò là
một nhà lý luận, phê bình văn học xuất sắc với các tác phẩm có giá trị lớn,
có vai trò quan trọng đối với những ng-ời học tập, nghiên cứu và hoạt
động trong lĩnh vực văn học. Các tác phẩm của ông không chỉ đề cập
đến việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung chung mà còn đề
cập đến việc nghiên cứu, tìm hiểu các trào l-u, tác giả, tác phẩm cụ thể.
Từ đó, không chỉ đ-a ra sự định h-ớng đối với ng-ời đọc, ng-ời tìm
hiểu mà còn mang đến cái nhìn mới với những đánh giá, nhận xét hết
sức tinh tế, sâu sắc. Một số tác phẩm nghiên cứu tiêu biểu của Hà Minh
Đức có thể kể đến là: Nhà văn và tác phẩm (1971), Thơ và mấy vấn
đề trong thơ Việt Nam hiện đại (1974), Nam Cao - đời văn và tác
phẩm (1986), Thời gian và trang sách (1987), Lý luận văn học (1992),
Văn ch-ơng - tài năng và phong cách (2001)
15
Với t- cách là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt
Nam, Hà Minh Đức còn đ-ợc biết đến trong vai trò là tác giả của các tập thơ
và kí đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Có thể kể đến một số tập
thở tiêu biểu của ông nh-: Đi hết một mùa thu (NXB Văn học, 1999),
ở
giữa ngày đông (NXB Văn học, 2001), Những giọt nghĩ trong
đêm
(NXB Văn học, 2002), Khoảng trời gió cát bay (NXB Văn học, 2007). Không
chỉ sáng tác thơ, ông còn sáng tác cả ở thể loại ký và đã tạo nên một phong
cách khá độc đáo, mới mẻ. Có thể nói, nếu các tác phẩm thơ là những cảm
xúc trong tâm hồn tác giả tr-ớc cuộc đời và con ng-ời với tất cả những gì
đang diễn ra thì kí lại là sự ghi nhận, tái hiện của tác giả về hiện thực
cuộc đời. Sự ghi nhận, tái hiện này không đơn thuần là sự ghi chép một
cách đơn giản chung chung mà cao hơn nữa, nó thể hiện sự chắt lọc từ
hiện thực những gì t-ởng nh- bình th-ờng, giản dị, đang hàng ngày diễn
ra để từ đó, tác giả gửi gắm những cảm nhận, suy nghĩ rất riêng và cả
những suy t-, trăn trở về cuộc đời và con ng-ời. Cho đến nay, tác giả đã cho
xuát bản năm tập ký với những giá trị nội dung và nghệ thuật lớn. Tr-ớc hết là
tập ký Vị giáo s- và ẩn sĩ đ-ờng (NXB Văn Học, 1999) chủ yếu viết về
kỉ niệm với những ng-ời thầy, ng-ời bạn thân thiết, gần gũi bên cạnh tác giả
hoặc đã gắn bó với ông trong suốt một thời gian dài. Đồng thời, tập kí này
còn thể hiện cảm nhận về những miền đất đã qua và những câu chuyện
xung quanh những con ng-ời tác giả đã gặp và đ-ợc tiếp xúc. Nội dung này
tiếp tục đ-ợc triển khai trong các tập kí về sau nh-: Tản mạn đầu ô (NXB
Văn Học, 2002), Đi một ngày đàng (NXB Văn Học, 2004), Ng-ời của một
thời (NXB Văn Học, 2009). Riêng tập ký Ba lần đến n-ớc Mĩ (NXB Văn
Học, 2000), giống nh- tiêu đề, tập kí này tái hiện ba cuộc hành trình của
tác giả đến n-ớc Mỹ trong thời gian khoảng 20 năm (1982 - 1999) đồng thời,
thể hiện những cảm nhận rất riêng, tinh tế về đất n-ớc này. Tập bút ký Ngời của một thời là tập bút
16
ký mới nhất của tác giả, có sự tập hợp một số bài viết đã đăng trong các
tập sách tr-ớc, có sự chỉnh sửa, bổ sung và một số bài viết mới. Chính
vì vậy, có thể nói, đây là sự lắng lòng của tác giả, sự hồi t-ởng lại một
thời đã qua giữa cuộc sống hối hả, nhộn nhịp thời hiện đại. Tr-ớc khi đ-ợc
in thành các tập sách, các bài ký của ông đã đ-ợc đăng rải rác trên các báo
trung -ơng và địa ph-ơng nh-: báo Văn nghệ, Tạp chí Hà Nội ngày nay,
báo Văn hóa, Tạp chí Văn học, Tạp chí Xứ Lạng...Khi tập hợp thành tập
sách, ông đã lựa chọn những tiêu đề phù hợp và rất độc đáo. Có thể nói,
tiêu đề của các tập bút kí của ông đã phần nào thể hiện đ-ợc những nội
dung chủ yếu đ-ợc biểu hiện và đề cập đến trong các bài viết. Và, một
điều nữa cần phải khẳng định ở đây chính là những tập kí của Hà
Minh Đức cũng không đi ra ngoài những nội dung chính của kí văn học
Việt Nam thời kỳ hiện đại. Tuy nhiên, các tác phẩm của ông hầu hết tập
trung vào đề tài cuộc sống bình dị, quen thuộc với những con ng-ời,
những câu chuyện rất đỗi gần gũi và những miền đất đã qua. Đây
cũng chính là đề tài phổ biến hơn cả trong kí văn học thời kỳ này
Trong lời tựa cho tập bút ký Vị giáo s- và ẩn sĩ đ-ờng, tác giả đã từng
viết: Ghi lại chuyện đời th-ờng gần gũi với mình, phải chăng là lặp lại lần
nữa sự buồn tẻ trên trang sách. Tôi không nghĩ thế. Cho dù là những mảnh
nhỏ, mảnh vỡ của cuộc sống, nh-ng nếu biết chắp nối lại, theo dòng kỉ
niệm và mạch tình cảm gắn bó, vẫn có thể tìm thấy trong những góc lãng
quên hình bóng chân thực của cuộc đời. Nh- vậy, ở đây, Hà Minh Đức đã
khẳng định một cách rõ ràng ký là một thể loại có nguồn gốc từ hiện thực
cuộc đời, từ những điều t-ởng nh- là rất nhỏ bé, vụn vặt. Nhiệm vụ của
ng-ời nghệ sĩ là phải phát hiện ra những điều t-ởng nh- là rất nhỏ bé ấy
và tìm thấy trong đó những mối liên hệ nội tại để từ những điều t-ởng nhlà rất nhỏ bé, vụn vặt ấy, chúng ta có thể tìm thấy hình bóng chân thực
của cuộc đời. Đồng thời, đây cũng chính là lời nhận định của
17
ông về khuynh h-ớng sáng tác kí của mình, đó là viết về những điều đơn
giản nhất, gần gũi nhất trong đời sống hàng ngày của con ng-ời. Đây không
phải là lần đầu tiên ông thể hiện những suy nghĩ, quan điểm của mình về
vấn đề này bởi vì trong cuốn Lí luận văn học (NXB Giáo dục, 2006) do ông
chủ biên, và viết phần ch-ơng IV: Các thể kí văn học, ông đã trình bày rất kỹ
càng về thể loại này xét về mặt lí luận. Tuy nhiên, có thể coi lời tựa cho Vị
giáo s- và ẩn sĩ đ-ờng là quan điểm sáng tác cụ thể, ngắn gọn, rõ ràng của
Hà Minh Đức và đây cũng chính là sự định h-ớng cho chúng ta trong sự tìm
hiểu tất cả các tác phẩm kí của ông. Ng-ợc lại, việc tìm hiểu các tác phẩm kí
này cũng chính là sự hiện thực hóa những vấn đề lí luận mà ông đã nêu
trong các công trình nghiên cứu của mình.
Nh- vậy, tựu trung lại, có thể khẳng định thể loại kí với những tiểu
loại của nó không phải là một thể loại mới trong văn học. Với đặc tr-ng là một
thể loại đề cao sự khách quan, chính xác trong việc miêu tả và biểu hiện,
dù ở thời kì nào, kí cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu và
khám phá cuộc sống con ng-ời. Tr-ớc đây, chúng ta đã từng quá quen thuộc
với tên tuổi Nguyễn Tuân - ng-ời đ-ợc xem là tác giả xuất sắc nhất trong
thể loại này - với những câu văn điêu luyện, giàu hình ảnh và mang đậm
bản sắc cái tôi cá nhân thì ngày nay, kí cũng ghi dấu ấn của rất nhiều tác
giả với những đặc tr-ng riêng về phong cách. Trong thời kỳ hiện đại, cuộc
sống càng có nhiều thay đổi, nhu cầu biểu hiện, khám phá và tìm hiểu
ngày càng cao, vai trò của kí ngày càng trở nên quan trọng. Và, hơn lúc
nào hết, những đặc tr-ng về thể loại càng đ-ợc chú trọng và nhấn mạnh,
phục vụ cho việc tìm hiểu và khám phá.
Có thể nói, hành trình sáng tác ký của Hà Minh Đức là hành trình của
một ng-ời nghệ sĩ tìm đến hiện thực cuộc đời với tất cả những biểu hiện
nhỏ bé, tinh vi của nó. Từ đó, để có cái nhìn hoàn thiện hơn, đa dạng hơn.
Đồng thời, sáng tác dù ở thể loại này hay thể loại khác thì cũng nhằm
18
đáp ứng một cách tốt hơn nhu cầu đ-ợc biểu hiện của ng-ời nghệ sĩ
tr-ớc những điều cảm nhận đ-ợc từ hiện thực cuộc sống đang diễn ra
xung quanh. Mỗi thể loại đều có những -u điểm và hạn chế riêng
trong việc đáp ứng những nhu cầu đ-ợc thể hiện của con ng-ời. Điều
quan trọng là mỗi ng-ời nghệ sĩ tìm thấy cho mình một h-ớng đi
riêng, thỏa mãn nhu cầu nội tại của tâm hồn.
Từ hai vấn đề trên, đòi hỏi chúng ta khi tìm hiểu về các sáng
tác ký của Hà Minh Đức không chỉ cần quan tâm đến đặc tr-ng thể
loại mà còn cần quan tâm đến sự vận động của bản thân tâm hồn
ng-ời nghệ sĩ trong quá trình sáng tác.
19
Ch-ơng 2
Cuộc sống và con ng-ời trong kí của Hà Minh Đức
2.1. Thế giới nghệ thuật và thế giới nghệ thuật ký Hà Minh Đức
Với đề tài Thế giới nghệ thuật trong kí của Hà Minh Đức, khái niệm
đầu tiên cần tiếp cận, tìm hiểu là khái niệm thế giới nghệ thuật và biểu
hiện, cấu trúc của nó trong tác phẩm. Có thể nói, khái niệm thế giới nghệ
thuật xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1964 từ bài viết của Likhachôp do
yêu cầu muốn tiếp cận tác phẩm văn học d-ới dạng một chỉnh thể.
Từ khi đó cho đến về sau này, có nhiều quan điểm khác nhau
về khái niệm thế giới nghệ thuật. Có ý kiến cho rằng: Thế giới nghệ
thuật của nhà văn hiểu đúng nghĩa của nó là một chỉnh thể, đã là
chỉnh thể tất phải có cấu trúc nội tại theo những nguyên tắc thống nhất,
cũng có nghĩa là quan hệ nội tại giữa các yếu tố phải có tính quy luật
[29;78]. Trong khi đó, theo quan điểm thi pháp học thì khái niệm thế
giới nghệ thuật chỉ chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (Một tác phẩm,
một loại hình tác phẩm, sáng tác của một tác giả hay một trào l-u văn học).
Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh một thế giới riêng đ-ợc sáng tạo ra theo
các nguyên tắc t- t-ởng và nghệ thuật, khác với thế giới thực tại vật chất
hay thế giới tâm lý của con ng-ời mặc dù nó phản ánh thế giới ấy. Thế
giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, quy luật tâm lý riêng,
quan hệ xã hội, quan niệm đạo đức, những thang bậc giá trị riêngchỉ
xuất hiện một cách -ớc lệ trong sáng tác nghệ thuật mỗi thế giới nghệ
thuật ứng với một quan niệm về thế giới, một cách cắt nghĩa về thế
giới. Nh- vậy, khái niệm thế giới nghệ thuật giúp chúng ta hình dung
tính độc đáo về t- duy nghệ thuật của sáng tạo nghệ thuật có cội
nguồn trong thế giới quan, văn hóa chung, văn hóa mục đích và cá tính
sáng tạo của nghệ sĩ. [16; 201-202].
20
Nh- vậy, có thể nói, thế giới nghệ thuật xét đến cùng chính là thế giới
hình t-ợng hiện ra nh- một chỉnh thể sống động, chứa đựng một quan niệm
nhân sinh và thẩm mỹ nào đó, đ-ợc xây cất bằng vật liệu ngôn từ. Chính vì
vậy, cũng có thể khẳng định rằng cấu trúc của thế giới nghệ thuật
ở tác phẩm văn học chính là quan niệm nghệ thuật về cuộc đời và
con ng-ời trong không gian và thời gian đã đ-ợc tác giả xây dựng. Điều
này cũng đồng nghĩa với việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong một
tác phẩm văn học chính là tìm hiểu về cuộc sống và con ng-ời đã đợc nhà văn khám phá và thể hiện. Qua đó, chúng ta cũng có thể có
những hiểu biết nhất định về cái nhìn về cuộc sống hiện thực của
tác giả đ-ợc thể hiện trong tác phẩm.
Tiếp cận với bất kỳ một tác phẩm văn học thuộc một thể loại bất kỳ, ta
có thể thấy đ-ợc quan điểm, cách nhìn của nhà văn với những gì đang
diễn ra xung quanh. Với Hà Minh Đức cũng vậy, với quan điểm ký là sự ghi
chép những điều vụn vặt trong đời sống, tiếp cận với ký của ông, chúng
ta có thể thấy một cách rõ ràng hiện thực cuộc sống, con ng-ời đang diễn
ra hàng ngày. Đó là những con ng-ời, những câu chuyện mà bất kỳ ai trong
chúng ta cũng có thể bắt gặp. Nh- ở phần hành trình sáng tác của Hà
Minh Đức đã nói, các tập bút kí của ông mặc dù ra đời trong các khoảng
thời gian khác nhau song một đặc điểm chung có thể nhận thấy là nội
dung của các tập kí ấy đều thống nhất ở một điểm là viết về thầy cô,
bạn bè, những ng-ời quen thuộc, gần gũi với ông trong cuộc sống hàng ngày
và những câu chuyện đã đ-ợc chứng kiến hoặc trải qua với những miền
đất thuộc về quê h-ơng hay những nơi đã in dấu chân ông. Nh- vậy, tóm
lại, trong tác phẩm kí của Hà Minh Đức, ông tập trung khai thác ở ba đề tài
chính: Thứ nhất là đề tài thầy cô, bạn bè, mái tr-ờng; Thứ hai là đề tài
những miền đất n-ớc và n-ớc ngoài; Thứ ba là đề tài chuyện đời th-ờng.
Qua ba đề tài này, cuộc sống đã đ-ợc khái quát lên một cách chân thực, gần
gũi và đa chiều. Nh- vậy, việc
21
tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong các tác phẩm kí của Hà Minh Đức
chính là tìm hiểu về cuộc sống và con ng-ời đ-ợc thể hiện ở các tác
phẩm ấy thuộc ba đề tài đã đ-ợc đề cập ở trên.
2.2. Đề tài nhà tr-ờng, thầy cô, bạn bè
2.2.1. Hình bóng chân thực của con ng-ời và của một thời
Có thể nói, trong ba đề tài sáng tác của Hà Minh Đức, đây đ-ợc
xem là đề tài gần gũi nhất trong cuộc đời tác giả cũng nh- trog cuộc
sống của mỗi chúng ta. Đối với bất kỳ một tác giả nào khi sáng tác ở thể
loại này, có thể gọi là dạng hồi ức, hồi ký về những ngày đã qua và về
những ng-ời thân thiết, gần gũi trong cuộc đời. Tuy nhiên, với tác giả Hà
Minh Đức, đây là một đề tài đặc biệt. Nó đặc biệt ở chỗ ông vốn là
một giáo s-, là một ng-ời có uy tín và thâm niên trong lĩnh vực nghiên
cứu văn học. Chính vì vậy, những tác giả, những ng-ời thầy, ng-ời bạn
xuất hiện trong hồi ức của ông cũng đều là những ng-ời đặc biệt quan
trọng (Chúng ta có thể dùng từ ngữ là những ngời nổi tiếng). Bởi vậy,
họ không hề xa lạ với độc giả, thậm chí, nếu chỉ cần đọc qua tác
phẩm của Hà Minh Đức một lần, ta có thể kể lại một cách dễ dàng và
trôi chảy tên tuổi của những nhân vật đã xuất hiện trong các trang viết
của ông. Tên tuổi của những con ng-ời ấy, chúng ta có thể bắt gặp
hàng ngày trên các mặt báo hay trong các bài nghiên cứu về văn học.
Đặc biệt, với những ng-ời tham gia vào những công việc liên quan đến
lĩnh vực văn học, những t- t-ởng, quan điểm của những con ng-ời ấy
chính là sự định h-ớng, dẫn đ-ờng cho chúng ta.
Chính vì những lý do trên mà đề tài này trong sáng tác của Hà Minh
Đức vừa là đề tài quen thuộc bình th-ờng, vừa là một đề tài mới lạ. Những
sáng tác của tác giả không đơn thuần chỉ là sự nhớ lại, hồi t-ởng hoặc làm
sống lại một miền ký ức đã qua hay tái hiện trong tác phẩm hình ảnh những
con ng-ời đã trở nên quen thuộc. Quan trọng hơn cả và cũng là điều