Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Xây dựng mô hình sử dụng bã rơm đã qua trồng nấm và bèo lục bình để nuôi giun quế làm thức ăn cho ếch bố mẹ tại Xã Hương Phong – Hương Trà – Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.27 KB, 45 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Hơn mười năm trở lại đây, ngành thủy sản đã có những bước phát triển
vượt bậc, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khối nông, lâm nghiệp và thủy
sản (năm 2009 là 4,28%). Ðến nay, thủy sản Việt Nam có vị trí cao trong nghề
cá thế giới, đứng thứ 12 về khai thác thủy sản, thứ ba về nuôi thủy sản và thứ
sáu về giá trị xuất khẩu thủy sản. Năm 2009, mặc dù có nhiều khó khăn do tác
động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, thiên tai, lũ lụt và dịch bệnh, ngành
thủy sản vẫn duy trì được nhịp độ sản xuất, sản lượng thủy sản đạt 4,85 triệu
tấn, tăng 5,8% so với năm 2008. Giai đoạn 1991- 2000, tốc độ tăng sản lượng
thủy sản trung bình là 7,31%, giai đoạn 2001- 2009, tốc độ tăng sản lượng
thủy sản là 10,20%. Ðến năm 2009, sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã có
mặt tại gần 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, trong đó có
những thị trường quan trọng như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và Nga.
Thừa Thiên Huế có hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai với vùng đất
ngập nước phân bố trên chiều dài gần 70km, có tổng diện tích 248,7km
2
,
chiếm khoảng một nửa tổng diện tích đầm phá ven bờ Việt Nam (480,5km
2
).
Đây là tiềm năng rất lớn để phát triển nghề nuôi trồng thủy sản.
Nằm ở vị trí trung tâm của hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, xã
Hương Phong là vùng hợp lưu của các con sông chính như sông Hương, sông
Bồ, sông Ô Lâu và cửa biển Thuận An, tạo thành hệ sinh thái thuận lợi cho sự
sinh trưởng các loại thuỷ sản có giá trị cao. Vì vậy, nghề nuôi trồng thuỷ sản
thực sự trở thành nghề mới có hiệu quả cao, thu hút nhiều người dân, nhiều
gia đình tham gia. Nghề nuôi trồng thủy sản đã tạo ra công ăn việc làm, tăng
thu nhập cho người dân. Nhiều gia đình đã thoát nghèo, đời sống đã được cải
thiện, một số hộ gia đình trở nên khá và có điều kiện vươn lên làm giàu.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được thì vẫn còn một số khó
khăn như tình hình dịch bệnh xảy ra ngày càng phức tạp, giá cả các vật tư,


dịch vụ nuôi trồng thủy sản ngày càng tăng cao. Những hộ chăn nuôi bằng
thức ăn công nghiệp tuy có chất lượng tốt nhưng với giá thành cao do đó
ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập và lợi nhuận của hoạt động sản xuất, đặc
biệt đối với những hộ chăn nuôi nhỏ, ít vốn thì càng gặp khó khăn trong
1
việc đầu tư cho chăn nuôi với quy mô hợp lý. Cần phải nghiên cứu một số
mô hình mới nhằm giảm chi phí đầu vào và nâng cao hiệu quả kinh tế cao
hơn trong nghề nuôi trồng thủy sản. Với những lý do đó, được sự cho phép
của khoa Thủy sản - Trường Đại học Nông Lâm Huế tôi đã thực hiện đề tài
“ Xây dựng mô hình sử dụng bã rơm đã qua trồng nấm và bèo lục bình để
nuôi giun quế làm thức ăn cho ếch bố mẹ tại Xã Hương Phong – Hương
Trà – Thừa Thiên Huế”.
Đề tài thực hiện nhằm các mục tiêu như sau:
- Tìm hiểu sự sinh trưởng, tăng sinh khối của giun quế trong hai
môi trường khác nhau là bèo lục bình và rơm đã qua trồng nấm.
- Thử nghiệm giun quế làm thức ăn nuôi vỗ ếch bố mẹ.
- Tập làm quen với công tác nghiên cứu khoa học.
Do thời gian thực hiện đề tài hạn chế và trình độ kiến thức bản thân
chưa cao nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý
thầy cô và các bạn có những ý kiến đóng góp và bổ sung để bài viết được
hoàn thiện hơn.
2
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Thông tin chung về xã Hương Phong
1.1. Tài nguyên thiên nhiên
* Đặc điểm địa lý:
Xã Hương Phong là một xã nằm phía Tây Bắc huyện Hương Trà tỉnh
Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế 12 km.
Phía Bắc giáp xã Hải Dương
Phía Đông giáp thị trấn Thuận An

Phía Tây giáp xã Quảng Thành huyện Quảng Điền
Phía Nam giáp xã Hương Vinh, huyện Hương Trà
Tổng diện tích tự nhiên là 1570,7 ha, xã nằm vị trí đặc biệt, hai mặt giáp
sông, một mặt giáp phá Tam Giang thuận lợi trong phát triển nông nghiệp và
khai thác nuôi trồng thủy sản.
* Địa hình và đất đai:
Toàn xã có 6 thôn, phân bố thành 9 cụm dân cư với 2.095 hộ, 10.997
khẩu, tỷ lệ nữ chếm 55%, tỷ lệ sinh 1,34% , tỷ lệ nghèo 21,6%.
Hoạt động sản xuất chủ yếu là Nông nghiệp và khai thác nuôi trồng
thủy sản và các ngành nghề phụ khác.
Xã Hương Phong là một xã có diện tích đất tự nhiên tương đối lớn
1570,7 ha (năm 2008) mang đặc điểm địa hình ven biển nên chia diện tích
đất thành vùng ven phá với diện tích đất chiếm 1/3 đất nông nghiệp, vùng
này nhiễm mặn và thiếu nước ngọt vào mùa hè, mùa mưa bị ngập úng. Đây
là vùng sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, thường chỉ cấy được một
vụ, năng suất thấp hoặc bỏ hoang.
* Nguồn nước:
Bao bọc xung quanh xã Hương Phong là sông ngòi và đầm phá nên tài
nguyên nước là khá phong phú. Phía Tây xã Hương Phong giáp với sông Bồ,
phía Đông giáp sông Hương. Hai con sông này là nguồn cung cấp nước quan
trọng cho sản xuất nông nghiệp cũng như nước sinh hoạt cho người dân địa
phương. Tuy nhiên, do hệ thống thủy lợi chưa hoàn chỉnh và đồng bộ nên
chưa khai thác hết tiềm năng của nguồn nước ngọt này.
3
Bên cạnh đó, phía bắc giáp đầm phá Tam Giang. Đây là nguồn nước lợ
phục vụ cho nuôi trồng thủy sản của địa phương. Diện tích nuôi trồng thủy
sản của xã Hương Phong hiện nay đã lên đến 163,5 ha. Tuy nhiên vào những
thời gian nắng nóng và khô hạn, do sát với biển Thuận An nên nồng độ muối
trong các ao nuôi cao ảnh hưởng đến việc nuôi trồng thủy sản.
Trước đây nguồn nước sinh hoạt chủ yếu của người dân được lấy từ

sông Hương và sông Bồ; nhưng hiện nay nguồn nước sinh hoạt được cung cấp
từ hệ thống nước máy của thành phố.
Nguồn nước ngầm ở xã Hương Phong được thăm dò năm 1978, trữ
lượng nước ngầm khác lớn. Hiện nay nước ngầm được khai thác dưới dạng
giếng đào và giếng khoan để phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống. Tuy nhiên
theo đánh giá của các cơ quan chức năng chất lượng nước ngầm không bảo
đảm do nhiễm phèn và lưu huỳnh.
* Điều kiện khí hậu, thủy văn:
Xã Hương Phong nói riêng và tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung đều nằm
trong khu vực nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu chuyển
tiếp của 2 miền Bắc – Nam nên mỗi năm có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và
mùa khô.
* Nhiệt độ:
Mùa khô bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8; nhiệt độ trung bình thấp nhất
là 21,6
o
C, nhiệt độ trung bình cao nhất là 30,1
o
C. Mùa mưa thường bắt đầu
từ tháng 8 đến tháng 1 năm sau.
* Lượng mưa:
Xã Hương Phong có lượng mưa tương đối lớn so với cả nước. Lượng
mưa trung bình 469,9 mm. Tuy nhiên lượng mưa phân bố không đều trong
năm. Lượng mưa cao nhất vào tháng 9 với 510,4 mm; lượng mưa thấp nhất
là tháng 6 với 13,1 mm. Nhưng lượng mưa trong năm tập trung vào những
tháng 8,9,10; trong thời gian này lượng mưa có thể chiếm tới 70 -75%
lượng mưa cả năm; đồng thời đây là thời gian thường xảy ra lũ lụt gây nên
hiện tượng ngập úng, sạt lở đất dọc theo bờ sông, làm ảnh hưởng đến đời
sống của người dân. Số ngày mưa của các tháng trong năm là 146 ngày;
trong đó tháng có nhiều mưa nhất là tháng 2 với 14 ngày và tháng có ít

ngày mưa nhất là tháng 6,7,9 với 7 ngày.
4
* Độ ẩm:
Độ ẩm trung bình hàng năm là 85%; trong đó tháng có độ ẩm cao nhất
là tháng 1 với 92% và tháng có độ ẩm thấp nhất là tháng 7 với 76%.
* Gió:
Do Hương Phong là xã nằm ven đầm phá Tam Giang và gần với biển
nên hằng năm chịu ảnh hưởng của gió biển thổi vào. Xã thường chịu tác động
của các hướng gió chính sau:
Hướng Tây Nam: thường xuất hiện từ tháng 4 đến tháng 8 hàng năm.
Hướng gió Đông Bắc, Tây Bắc lạnh, ẩm thường kéo dài từ tháng 9 đến
tháng 3 năm sau.
Ngoài ra ở xã Hương Phong còn có một nguồn lợi tự nhiên chưa được
đầu tư và khai thác sử dụng đó là rừng ngập mặn Rú Chá và mỏ khoáng nước
nóng đây là một nguồn lợi quý giá cho việc phát triển kinh tế xã hội và
chuyển đổi sinh kế cho người dân.
1.2. Đặc điểm điều kiện kinh tế.
1.2.1. Tình hình chung
Với đặc điểm địa hình và điều kiện diện tích đất đai rộng và tiếp giáp
với đầm phá Tam Giang, hoạt động sinh kế của người dân chủ yếu là sản
xuất nông nghiệp, khai thác nuôi trồng thủy sản và các ngành nghề phụ
truyền thống khác của địa phương, nhằm tận dụng các lợi thế về tài nguyên
nguồn lợi sẵn có ở địa phương để từng bước xóa đói giảm nghèo và nâng
cao đời sống cho người dân địa phương.
1.2.2. Tình hình đánh bắt thủy sản.
Các đối tượng đánh bắt thủy sản bao gồm tôm cua, các loại cá khác
nhau. Mùa vụ đánh bắt thủy sản tập trung từ tháng 1 đến tháng 3 và
tháng 8, tháng 9 hàng năm. Ngoài đánh bắt các nguồn thủy sản tự nhiên
trên sông, đầm phá còn có đánh bắt hải sản ven bờ và đánh bắt hải sản
xa bờ. Đánh bắt thủy sản đã đem lại một nguồn thu nhập đáng kể cho hộ

gia đình và địa phương, tuy nhiên vấn đề cần quan tâm ở đây là một số
hộ gia đình sử dụng các phương tiện đánh bắt có tính hủy diệt như dùng
điện, mắt lưới có kích thước nhỏ. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân gây suy giảm nguồn lợi tự nhiên.
5
1.2.3. Tình hình nuôi trồng thủy sản
Nuôi trồng thủy sản được xem như là ngành kinh tế chính theo kế hoạch
phát triển của xã. Nuôi tôm là hoạt động nuôi trồng thủy sản chính với sự
tham gia của nông dân các thôn Thuận Hòa và Vân Quật Đông ven phá Tam
Giang. Theo người dân địa phương, đây là một hoạt động sinh kế đem lại lợi
nhuận cao nhưng cũng dễ gặp rủi ro và tổn thất khi tôm bị bệnh.
Người dân địa phương đang đối mặt với nhiều khó khăn do bệnh về
tôm, ô nhiễm nguồn nước, giá tôm không ổn định và nguồn lợi bị suy giảm do
sử dụng công cụ đánh bắt hủy diệt. Các hoạt động nuôi cá nước ngọt cũng
kém phát triển, một số hộ dân nuôi cá trên ruộng lúa có năng suất thấp.
1.3. Đặc điểm về điều kiện xã hội.
1.3.1. Nguồn lực con người.
Xã Hương Phong có nguồn lực con người rất dồi dào với 2095 hộ,
10.997 người. Sống tập trung ở 6 thôn chia thành 9 cụm dân cư: Thanh
Phước, Thuận Hòa, Vân Quật Thượng, Tiền Thành, Vân Quật Đông, An Lai,
tổng số lao động 5.549 người chiếm 50% dân số.
Số người tham gia lao dộng ở xã Hương Phong tương đối lớn, đây cũng
là thuận lợi của xã giúp cho người dân làm nhiều ngành nghề khác nhau tăng
thêm thu nhập.
1.3.1. Nguồn lực vật chất.
Theo số liệu thống kê, khoảng 97,9% các hộ gia đình sử dụng điện và
nước sạch. 90% đường được bêtông hóa và các cơ sở hạ tầng đang trong điều
kiện tốt.
2. Tổng quan về đối tượng giun quế.
2.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước.

2.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới.[18]
Từ rất lâu người ta đã nghiên cứu giun đất và vai trò của nó trong tự
nhiên như Aristote, Darwin … nhưng nhiều nghiên cứu liên quan đến giun tập
trung nhất vào những năm thuộc thế kỷ 20.
6
Bonche (1972), Pussard, Fayolle (1983) nghiên cứu về phân loại, khả
năng tăng trưởng sinh sản của giun đất và môi trường sinh sống của chúng. Từ
việc nuôi giun đất để nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát hiện ra những loài
giun dễ nuôi trong điều kiện nhân tạo. Từ đó họ bắt đầu nghiên cứu nuôi giun
vì mục đích kinh tế và cải tạo môi trường.
Công việc nuôi giun đất đơn giản, không cần những kỹ năng và trình độ
văn hóa cao. Trẻ em, người già, người tàn tật đều nuôi giun được. Người ta đã
nuôi giun ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Canada, Pháp, Ý, Úc, Nhật, Hàn
Quốc, Trung Quốc … ở những nước này giun được nuôi để làm thức ăn cho
gia súc, các loài thủy sản đặc sản, làm thức ăn cho người (cháo giun, lương
khô) và thuốc trị bệnh cho người.
Nghề nuôi giun đất công nghiệp khai sinh từ Mỹ và phát triển nhất cũng ở
Mỹ. Sau đó đã nhanh chóng chinh phục nhiều nhà chăn nuôi trên nhiều quốc gia
khác nhau như Pháp, Canada, Italia, Úc, Trung Quốc, Philippines, Việt Nam…
Ban đầu giun được nuôi để tạo mồi câu phục vụ nghề nuôi cá nơi du
lịch nhưng khi phát triển nuôi giun với tốc độ nhanh thì người ta nghĩ tới
hướng khai thác giun đất trong các lĩnh vực khác.
Nuôi và chế biến giun đất đã trở thành một nghành công nghiệp chăn
nuôi phục vụ cho nghành trồng trọt, xử lý chất thải, bảo vệ môi trường và làm
thức ăn cho gia súc, gia cầm, thuỷ đặc sản. Giun đất còn được sử dụng để chế
tạo mỹ phẩm, dược phẩm Đông và Tây y.
Trong những năm gần đây, nuôi trùn đất đã trở thành một nghành sản xuất
kinh doanh khá quy mô ở nhiều nước như Mỹ, Canada, Phipippines, Ấn Độ…
2.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam.
Nghiên cứu cơ bản về giun đất ở Viêt Nam đã triển khai từ trước năm

1979: Thái Trần Bái và các cộng sự ở Đại học Sư phạm I Hà Nội. Nghiên cứu
sử dụng giun làm dược liệu: có giáo sư Đỗ Tất Lợi đã sưu tầm những bài
thuốc có sử dụng giun. Trước năm 1975, có dược sĩ Hồ Thị Thu đã nghiên
cứu sản xuất những dược phẩm từ giun. Năm 1987 trường Đại học Y dược TP
Hồ Chí Minh nghiên cứu những hoạt chất chủ yếu, thành phần đạm, các acid
amin, khoáng vi lượng trong thịt giun.
7
Nghiên cứu nuôi giun: năm 1983 tiến sĩ nông hóa Nguyễn Văn Chuyển,
một Việt kiều ở Nhật đã giới thiệu trên đài truyền hình TP Hồ Chí Minh kỹ
thuật nuôi giun đất để lấy đạm động vật. Năm 1986, nghiên cứu nuôi giun
sớm nhất ở Viêt Nam là phòng sinh học thực nghiệm, Đại học Sư phạm I Hà
Nội, nghiên cứu thành công việc thuần hóa giun quế, Perionyx excavatus, có
trong tự nhiên ở Việt Nam, thành vật nuôi. Tiến sĩ Nguyễn Văn Bảy, trường
Cán bộ quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn TP Hồ Chí Minh đã nhập
giun quế về Việt Nam để nghiên cứu nhân giống từ năm 1995. Một nhóm tác
giả khoa sinh, Đại học Khoa học tự nhiên TP Hồ Chí Minh đã thí nghiệm nuôi
giun bằng chất thải từ nghề trồng nấm. [18]
Đến nay việc nuôi giun đất đã được triển khai tại nhiều tỉnh, Thành Phố
– từ năm 1990 các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Bắc Thái; 1996 ở Bảo Lộc –
Lâm Đồng, TP Hồ Chí Minh, Long An, các tỉnh miền Tây Nam bộ. Nhiều nơi
thành trang trại, nuôi theo công nghiệp.
2.2. Đặc điểm sinh học giun quế.
2.2.1. Đặc điểm hình thái cấu tạo.
Giun quế có tên khoa học là Peryonyx excavatus, Giun quế là loài có
kích thước nhỏ, giun trưởng thành dài khoảng từ 10 - 15 cm, thân mảnh giống
sợi len hơi dẹt, bề ngang của con trưởng thành có thể đạt 0,1 – 0,2 cm, có màu
từ đỏ đến màu mận chín (tùy theo tuổi), màu nhạt dần về phía bụng, hai đầu
hơi nhọn. Cơ thể giun có hình thon dài nối với nhau bởi nhiều đốt, trên mỗi
đốt có một vành tơ. Khi di chuyển, các đốt co duỗi kết hợp các lông tơ phía
bên dưới các đốt bám vào cơ chất đẩy cơ thể di chuyển một cách dễ dàng.[1]

Giun quế hô hấp qua da, chúng có khả năng hấp thu Oxy và thải CO2
trong môi trường nước, điều này giúp cho chúng có khả năng sống trong nước
nhiều tuần, thậm chí trong nhiều tháng.[1]
2.2.2. Đặc điểm dinh dưỡng, sinh trưởng.
Giun quế thích nghi với phổ thức ăn khá rộng, chúng ăn bất kỳ chất thải
hữu cơ nào có thể phân hủy trong tự nhiên (rác đang phân hủy, phân gia súc,
gia cầm…). Tuy nhiên, những thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao sẽ hấp
dẫn chúng hơn, giúp cho chúng sinh trưởng và sinh sản tốt hơn.
8
Giun quế nuốt thức ăn bằng môi ở lỗ miệng, lượng thức ăn mỗi ngày
được nhiều nhà khoa học ghi nhận là tương đương với trọng lượng cơ thể của
nó. Sau khi qua hệ thống tiêu hóa với nhiều vi sinh vật cộng sinh, chúng thải
phân ra ngoài rất giàu muối dinh dưỡng, những vi sinh vật cộng sinh có ích
trong hệ thống tiêu hóa này theo phân ra khỏi cơ thể giun nhưng vẫn còn hoạt
động ở “màng dinh dưỡng” trong một thời gian dài[1]. Đây là một trong
những nguyên nhân làm cho phân giun có hàm lượng dinh dưỡng cao và có
hiệu quả cải tạo đất tốt hơn dạng phân hữu cơ phân hủy bình thường trong tự
nhiên. Hệ thống bài tiết bao gồm một cặp thận ở mỗi đốt. các cơ quan này bảo
đảm cho việc bài tiết các chất thải chứa đạm dưới dạng Amoniac và Urê.
Giun không có phổi mà hô hấp qua da, nếu da bị khô thì giun sẽ chết vì
vậy trong quá trình nuôi phải thường xuyên duy trì độ ẩm của chất nền.
Những ngày trời mưa giun ngoi lên khỏi mặt đất vì vậy khi nuôi giun phải
tránh để nước mưa rơi xuống luống. Giun là loài sợ ánh sáng vì vậy khi xây
dựng chuồng trại phải đảm bảo không bị ánh sáng rọi trực tiếp và sử dụng đặc
tính này trong việc thu hoạch giun.
2.2.3. Đặc điểm sinh lý
Giun quế rất nhạy cảm, chúng phản ứng mạnh với ánh sáng, nhiệt độ
và biên độ nhiệt cao, độ mặn và điều kiện khô hạn. Nhiệt độ thích hợp nhất
với giun quế nằm trong khoảng từ 20 – 30
o

C, ở nhiệt độ khoảng 30
o
C và độ
ẩm thích hợp, chúng sinh trưởng và sinh sản rất nhanh. Ở nhiệt độ quá thấp,
chúng sẽ ngừng hoạt động và có thể chết; hoặc khi nhiệt độ của luống nuôi
lên quá cao giun cũng bỏ đi hoặc chết. Chúng có thể chết khi điều kiện khô
và nhiều ánh sáng nhưng chúng lại có thể tồn tại trong môi trường nước có
nhiều Oxy.[1]
Giun quế quế rất thích sống trong môi trường ẩm ướt và có độ pH ổn
định. Qua các thí nghiệm thực hiện cho thấy chúng thích hợp nhất vào khoảng
7,0 – 7,5, nhưng chúng có khả năng chịu đựng được phổ pH khá rộng, từ 4 – 9,
nếu pH quá thấp, chúng sẽ bỏ đi.
Trong tự nhiên, giun quế thích sống nơi ẩm thấp, gần cống rãnh, hoặc
nơi có nhiều chất hữu cơ dễ phân hủy và thối rữa như trong các đống phân
động vật, các đống rác hoai mục. chúng rất ít hiện diện trên các đồng ruộng
9
canh tác dù nơi đây có nhiều chất thải hữu cơ, có lẽ vì tỷ lệ C/N của những
chất thải này thường cao, không hấp dẫn và không đảm bảo điều kiện ẩm độ
thường xuyên.
2.2.4. Đặc điểm sinh sản
Giun quế sinh sản rất nhanh trong điều kiện khí hậu nhiệt đới tương đối ổn
định và có độ ẩm cao. Theo nhiều tài liệu, từ một cặp ban đầu trong điều kiện
sống thích hợp có thể tạo ra từ 1.000 –1.500 cá thể trong một năm.
Giun quế là sinh vật lưỡng tính (có cả bộ phận sinh dục đực và cái trên
cùng một cơ thể) tuy nhiên chúng không thể tự thụ tinh mà sinh sản thông qua
việc thụ tinh chéo giữa 2 cơ thể khác nhau. Chúng sinh sản quanh năm và thời
gian thành thục ngắn nên sản lượng giun nuôi thu được khá cao. Chúng có đai
và các lỗ sinh dục nằm ở phía đầu của cơ thể, có thể giao phối chéo với nhau
để hình thành kén ở mỗi con, kén được hình thành ở đai sinh dục, trong mỗi
kén mang từ 1 – 20 trứng. Kén áo hình dạng thon dài, hai đầu túm nhọn lại

gần giống như hạt bông cỏ, ban đầu có màu trắng đục, sau chuyển sang xanh
nhạt rồi vàng nhạt. Mỗi kén có thể nở từ 2 – 10 con.
Khi mới nở, con nhỏ như đầu kim có màu trắng, dài khoảng 2 – 3mm,
sau 5 – 7 ngày cơ thể chúng sẽ chuyển dần sang màu đỏ và bắt đầu xuất hiện
một vằn đỏ thẫm trên lưng. Khoảng từ 15 –30 ngày sau, chúng trưởng thành
và bắt đầu xuất hiện đai sinh dục (theo Arellano, 1997); từ lúc này chúng bắt
đầu có khả năng bắt cặp và sinh sản. Con trưởng thành khỏe mạnh có màu
mận chín và có sắc ánh kim trên cơ thể.
2.3. Một số phương pháp ủ chất nền nuôi giun.
2.3.1. Phương pháp ủ nóng:
Xếp một lớp độn thực vật có trộn vôi bột (rơm, rạ, lá cây…) dày 20 cm,
một lớp phân gia súc dày 10cm. Vừa xếp vừa tưới nước, lớp dưới tưới ít lớp
trên tưới nhiều hơn để đống chất nền có hàm lượng nước độ 50-60%. Cứ làm
như vậy cho đến hết nguyên liệu. Khi đánh đống không nên nén nguyên liệu
quá chặt để các loại vi khuẩn hiếu khí có thể phát triển nhanh chóng. Trên
cùng dùng một tấm nilon phủ kín để giữ nhiệt và độ ẩm thích hợp. Dùng một
cọc tre nhọn có tiết diện 5-10 cm xuyên một lỗ thủng từ đỉnh xuống đáy để
làm chổ tưới nước cho đống ủ.
10
Ủ độ 2-3 ngày thì nhiệt độ đống ủ tăng dần, sau 4-7 ngày nhiệt độ
trong đống ủ có thể lên đến 70-80
0
C. Sau đó nhiệt độ xuống 60
0
C thì đảo
đống ủ. Khoảng 15 ngày thì đảo đống ủ một lần, đảo lớp dưới lên trên và lớp
trên xuống dưới. Đồng thời trộn đều và tưới thêm nước để thúc đẩy vi sinh
vật phát triển, làm đống nguyên liệu mau hoai mục. Khi nhiệt độ hạ xuống,
sờ tay vào đống ủ không thấy nóng tay là hoàn thành việc ủ nguyên liệu làm
chất nền.

Thời gian ủ tốt từ 30 - 45 ngày hoặc hơn 90 ngày mới hoai hoàn toàn
(đối với nguyên liệu còn mới). Đối với phân gia súc cũ và rơm rạ cũ chỉ cần ủ
trong vòng 12 - 15 ngày cho hoai thêm và hết nóng là được. Dùng cào, xẻng
phá vỡ đống ủ, làm tơi và trộn đều. Rải mỏng một lớp nơi mát để cho nguội,
nhả khí độc nếu có và xua đuổi kiến và côn trùn có hại, ta sẽ có chất nền thích
hợp để nuôi giun.
2.3.2. Phương pháp ủ nguội:
Phân gia súc và chất độn xếp lớp và đánh đống như đã mô tả trong
phương pháp ủ nóng (không dùng vôi bột). Sau khi đánh đống xong phủ một
lớp rơm, rạ mỏng và tưới nước cho ẩm. Tiếp theo lấy bùn trát kín đống ủ. Sau
3 tháng có thể đem sử dụng.
2.3.3. Phương pháp ủ hỗn hợp:
Phân chất độn xếp lớp và đánh đống như phương pháp ủ nóng. Sau 4 – 6
ngày nhiệt độ trong đống phân lên cao 70
0
C. Tưới nước cho ẩm rồi lấy bùn
trát kín. Sau 2 tháng có thể đem sử dụng.
2.4. Các mô hình nuôi giun quế phổ biến.
2.4.1 Nuôi trong khay chậu
Áp dụng cho những hộ gia đình không có đất sản xuất hoặc muốn tận
dụng tối đa các diện tích trống có thể sử dụng được, mô hình này có thể sử
dụng các dụng cụ đơn giản và rẻ tiền như các thùng gỗ, thau chậu, thùng xô…
Các thùng gỗ chỉ nên có kích thước vừa phải (vào khoảng 0,2 – 0,4 m
2
với
chiều cao khoảng 0,3m). Các dụng cụ này nên được đặt trên những cái khung
nhiều tầng để dễ chăm sóc và tận dụng được không gian.
11
Các dụng cụ nuôi nên được che mưa gió, đặt nơi có ánh sáng hạn chế
càng tốt. Chúng phải có lỗ thoát nước, những lỗ này cần được chặn lại bằng

bông gòn, lưới… để không bị thất thoát con giống.
Mô hình nuôi này có ưu điểm là dễ thực hiện, có thể sử dụng lao động
phụ trong gia đình hoặc tận dụng thời gian rãnh rỗi. Công tác chăm sóc cũng
thuận tiện vì dễ quan sát và gọn nhẹ. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là tốn
nhiều thời gian hơn các mô hình khác, số lượng sản phẩm có giới hạn, việc
chăm sóc cho giun phải được chú ý cẩn thận hơn.
2.4.2 Nuôi trên đồng ruộng có mái che
Thích hợp cho quy mô gia đình vừa phải hoặc mở rộng, thích hợp cho
những vườn cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm có bóng râm vừa phải.
Các luống nuôi có thể đạt độ ẩm trong đất hoặc làm bằng các vật liệu nhẹ
như bạt không thấm nước, gỗ…, có bề ngang từ 1 – 2m, độ sâu (hoặc cao)
khoảng 30 – 40 cm, bảo đảm thoát nước được nước và thông thoáng. Mái che
nên làm ở dạng cơ động để dễ di chuyển, thay đổi trong những điều kiện thời
tiết khác nhau. Độ dày chất nền ban đầu và thức ăn nên được bổ sung hàng
tuần. Luống nuôi cần được che phủ để giữ ẩm, kích thích hoạt động của giun
và chống các địch hại.
2.4.3 Nuôi trên đồng ruộng không có mái che
Đây là phương pháp nuôi truyền thống ở các nước đã phát triển công
nghệ nuôi giun như Mỹ, Úc.. và có thể thực hiện ở quy mô lớn. Luống nuôi có
thể nổi hoặc âm trong mặt đất, bề ngang khoảng 1 – 2m, chiều dài thường
không giới hạn mà tùy theo diện tích nuôi. Với phương pháp này, người nuôi
không phải làm lán trại, có thể sử dụng các trang thiết bị cơ giới để chăm sóc
và thu hoạch sản phẩm. Nếu cho lượng thức ăn ban đầu ít và bổ sung hàng
tuần thì việc thu hoạch cũng khá dễ dàng. Tuy nhiên, phương pháp nuôi này
bị tác động mạnh bởi các yếu tố thời tiết, có thể gây tổn hại đến giun và cần
một diện tích nuôi tương đối lớn.
2.4.4 Nuôi trong nhà với quy mô công nghiệp và bán công nghiệp
Là dạng cải tiến và mở rộng của luống nuôi có mái che trên đồng ruộng
và nuôi trong thau chậu. Các khung nuôi có thể được xây dựng kiên cố trên
12

mặt đất có kích thước rộng hơn hoặc được sắp thành nhiều tầng. Việc chăm
sóc có thể thực hiện bằng tay hoặc các hệ thống tự động tùy theo quy mô.
Phương pháp này có nhiều ưu điểm là chủ động được điều kiện nuôi. Chăm
sóc tốt, nuôi theo quy mô lớn nhưng chi phí xây dựng cơ bản và trang thiết bị
cao. Hiện nay, quy mô nuôi công nghiệp với những trang thiết bị hiện đại
được áp dụng khá phổ biến ở các nước phát triển như Mỹ, Úc, Canada.
2.5. Một số sản phẩm ứng dụng của giun quế.
2.5.1.Thức ăn tươi sống
Giun quế là một loại thức ăn giàu đạm cao cấp dùng cho vật nuôi, theo
nhiều tài liệu, trong cơ thể giun quế hàm lượng đạm chiếm tới 70% trọng
lượng khô. Đối với các loài thủy sản như các loại cá, baba, lươn, chình, ếch,
giun quế là một trong những loại thức ăn tươi sống hấp dẫn nhất. Khi chưa
qua giai đoạn chế biến thì toàn bộ chất dinh dưỡng của giun được giữ nguyên
khi thu hoạch và cho ăn. Vì vậy, giun tươi sống là loại thức ăn tốt, giàu đạm
cho các loại thủy sản. Còn đối với các loài gia súc, gia cầm thì giun quế là
một loại thức ăn bổ dưỡng, việc bổ sung giun quế vào khẩu phần ăn sẽ góp
phần đẩy nhanh tốc độ tăng trọng của vật nuôi.[12]
2.5.2. Phân giun
Phân do giun quế thải ra sau khi sử dụng các loại phân gia súc là một
nguồn phân hữu cơ sạch và đồng nhất được gọi là vermicompost hay là
earthwormcompost. Phân giun có thể được sử dụng làm phân bón bằng cách
pha loãng với nước và tưới cho cây trồng hay sử dụng trực tiếp làm giá thể để
trồng cây. Phân giun là loại phân hữu cơ tự nhiên duy nhất hiện nay có chứa
đầy đủ hàm lượng các chất cần thiết cho các loại cây trồng, đặc biệt cho các
loại cây ngắn ngày.[16]
Phân giun còn chứa các khoáng chất cho cây như: Nitrat, Photpho,
Magie, Kali, Calci, Nitơ.... Đặc biệt là các khoáng chất này lại được cây trồng
hấp thụ một cách trực tiếp; không như những loại phân hữu cơ khác phải được
phân hủy trong đất trước khi cây hấp thụ.
Chất mùn trong phân giun loại trừ những độc tố, nấm có hại và vi

khuẩn trong đất nên nó có thể đẩy lùi những bệnh của cây trồng.
13
Phân giun gia tăng khả năng giữ nước của đất vì phân giun có dạng
hình khối. Phân giun còn là loại phân hữu cơ sinh học có hàm lượng dinh
dưỡng cao, thích hợp cho nhiều loại cây trồng, yêu cầu cất trữ dễ dàng, đặc
biệt thích hợp cho các loại hoa kiểng, làm giá thể vườn ươm và là nguồn phân
thích hợp cho việc sản xuất rau sạch.
Một số ứng dụng cụ thể:
Cho sự nẩy mầm: Dùng 20 – 30 % phân giun trộn với đất, xem như một
hỗn hợp nẩy mầm tốt đảm bảo cho cây phát triển không ngừng trong 3 tháng
mà không cần bất cứ thức ăn nào khác. Có khả năng làm tăng tỷ lệ nẩy mầm
của hạt, giúp cây con phát triển nhanh và có tỷ lệ sống cao.
Phân bón: Bón trực tiếp phân giun quanh gốc cây (không gây hư hại cây
nếu sử dụng nhiều) bón lót cho cây, rau, quả các loại sẽ tạo ra một loại thực
phẩm sạch, an toàn và đạt năng suất cao.
Có thể pha trộn với nước theo tỷ lệ 1/5, hỗn hợp chất lỏng này có thể sử
dụng như một loại phân bón cao cấp và có khả năng kiểm soát sâu bọ khi
phun trực tiếp vào thân, lá.
Cải tạo đất: Vì phân giun chứa đựng hàng ngàn kén giun nên khi ta bón
phân giun vào đất, gặp điều kiện thuận lợi, kén giun sẽ nở ra và sinh sống trên
đất canh tác, và giúp đất tơi xốp, nếu bón phân giun và tưới nước thường
xuyên vào một vùng đất cằn cỗi đã được cuốc lên, thì lớp đất này sẽ được cải
tạo đáng kể về độ màu mỡ (2000 – 2500 kg /ha).[16]
2.5.3. Giun quế đông lạnh.[16]
Giun quế sau khi làm sạch, được đóng gói, được tiến hành cấp đông và
bảo quản trong kho lạnh
Giun quế đông lạnh là thức ăn tăng cường đạm rất tốt cho thủy, hải sản,
gia súc, gia cầm.
* Ưu điểm: Thuận tiện, dễ dàng trong vận chuyển, bảo quản và cho ăn.
Bảng 2.1: Thành phần của sản phẩm giun quế đông lạnh

Đạm Chất béo Chất xơ Calcium P
12% - 17,6 % 1,4 % 1 % 0,46 % 0,23 %
14
2.5.4. Giun quế sấy khô.[14]
Giun được làm sạch ruột, nhưng vẫn đảm bảo con giun vẫn còn sống
trước khi đem vào sấy. Sau đó, giun được sấy bằng công nghệ sấy lạnh tiên
tiến để sản phẩm đạt được độ khô và sạch gần 99%, nhưng vẫn giữ được
màu sắc, hàm lượng các Amino Acid, khoáng chất và Protein.... Công nghệ
đóng gói rút chân không giúp cho sản phẩm bảo quản được lâu và an toàn
trong vận chuyển cao nhất.
Bảng 2.2: Thành phần dinh dưỡng của giun quế sấy khô
Đạm Chất béo Chất xơ Calcium P
62% - 71,5% 2,8% 3,3% 0,88% 0,54%
2.5.5. Bột giun quế.[18]
Bột giun quế làm tăng khả năng tăng trưởng, phát triển cơ, tăng trọng,
bồi đắp lượng Protein và Acid amin thiếu hụt, tăng cường khả năng giao phối,
ngon miệng và làm cho thức ăn có vẻ hấp dẫn hơn đối với vật nuôi. Vì thế sẽ
tránh được trường hợp thừa thải thức ăn và việc chăn nuôi có hiệu quả kinh tế
cao hơn.
Bảng 2.3: Thành phần dinh dưỡng trong bột giun chế biến
Protein 65,8%
Fat 8,7%
Calcium 0,4%
Phosphorus 0,9%
Fibre 0,7%
Carbohydrate 7,6%
Total Ash 6,3%
15
3.Tổng quan về đối tượng ếch.
3.1.Tình hình nghiên cứu về ếch.

3.1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước.
Trong những năm qua, ếch (đặc biệt là ếch đồng) được xem là một
trong những loài thủy sản nội địa có giá trị kinh tế cao ở đồng bằng sông Cửu
Long nói riêng và cả nước nói chung. Vì vậy, việc khai thác loài ếch bản địa
đã làm nguồn lợi ếch ngày càng một cạn kiệt, nên việc nghiên cứu đầu tư quy
trình sản xuất từ sinh sản nhân tạo đến nuôi ếch thương phẩm để thay thế
nguồn ếch bản địa ngoài tự nhiên là hết sức cần thiết. Câu hỏi được đặt ra là:
loài ếch nào là phù hợp để tham gia vào quy trình sản xuất nói trên?
Trước đây, Việt Nam đã du nhập nhiều loài ếch khác nhau từ nhiều
nguồn khác nhau (như Cuba, Mexico, Brazil,…) nhưng khả năng thích nghi
của các loài này kém nên không phát triển rộng rãi ở Việt Nam, vì thế mà loài
ếch đồng Việt Nam vẫn tiếp tục bị khai thác mạnh mẽ. Nhưng cho đến 2 năm
trở lại đây, Việt Nam đã du nhập một loài ếch mới từ Thái Lan. Theo ý kiến
của ông Lê Thanh Hùng và Ban Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu sản xuất
giống thủy sản An Giang cho biết, loài ếch Thái Lan này là loài thích hợp để
đưa vào quy trình sản xuất hàng loạt ở An Giang nói riêng và đồng bằng sông
Cửu Long nói chung, bởi đặc điểm sinh trưởng của ếch Thái Lan là rất phù
hợp với điều kiện môi trường ở đây, đặc biệt là điều kiện nuôi giữ và ăn mồi
tĩnh như thức ăn viên hay thức ăn tự chế.
Từ những nhu cầu ngày càng lớn của thị trường tiêu thụ ếch thương
phẩm và sự thích nghi tốt của loài ếch Thái Lan này, Sở Khoa học và Công
nghệ An Giang đã tiếp nhận chuyển giao quy trình sinh sản nhân tạo ếch Thái
Lan từ Trường đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh cho đơn vị tiếp
nhận là Trung tâm Nghiên cứu sản xuất giống thủy sản An Giang. Cho đến
nay, trung tâm đã triển khai được 5 đợt bố trí thí nghiệm sinh sản nhân tạo và
sản xuất giống ếch Thái Lan thành công và ổn định quy trình với 147 cặp ếch
bố mẹ tham gia sinh sản và kết quả đạt được như sau: tỷ lệ sinh sản, tỷ lệ thụ
tinh, tỷ lệ nở và tỷ lệ sống trung bình qua 5 đợt bố trí lần lượt là 90, 80, 75,
70%. Qua kết quả đạt được cho thấy, chỉ có tỷ lệ sinh sản và tỷ lệ sống là đạt
các chỉ tiêu kỹ thuật theo hợp đồng chuyển giao công nghệ sinh sản nhân tạo

và sản xuất giống Thái Lan.[20]
16
Hiện nay, Trung tâm Sản xuất giống vẫn tiếp tục đầu tư nhập thêm 300
cặp ếch bố mẹ từ Thái Lan để tiếp cho sinh sản nhân tạo nhằm mục đích vừa
cung ứng con giống cho một hộ nông dân lành nghề và vừa chọn lựa một thế
hệ bố mẹ mới trong tương lai để gia tăng nguồn ếch bố mẹ chuẩn bị cho vụ
sinh sản ở năm sau mà không cần phải nhập ếch bố mẹ từ Thái Lan.
Trước những kết quả đáng khích lệ như đã nói ở trên là nguồn động lực
để Sở Khoa học và Công nghệ kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu sản xuất
giống thủy sản tiếp tục tiến hành thực hiện các mô hình khảo nghiệm nuôi
thương phẩm ếch Thái Lan trong tương lai ở một số điểm trình diễn trong địa
bàn tỉnh An Giang, với 3 mô hình nuôi như nuôi ếch trong ao đất, trong bể xi
măng và trong giai hay đăng quầng, nhằm chọn ra mô hình nuôi thâm canh
ếch thương phẩm hiệu quả nhất, để từ đó có thể nhân rộng sản xuất đại trà ở
các hộ nông dân, giúp nông dân có thêm nguồn thu nhập mới từ giống ếch
Thái Lan còn mới mẻ này.
Năm 2005 là thời điểm đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của phong trào
nuôi ếch Thái Lan ở nhiều tỉnh, thành. Nếu năm 2004 tại TP.HCM chỉ lác đác
một số ít hộ nuôi loại ếch này mang tính thử nghiệm, thì đến cuối năm 2005
qua thống kê sơ bộ đã có đến khoảng 300 hộ nuôi ếch Thái Lan với các qui
mô khác nhau.[20]
Đây là tốc độ phát triển rất nhanh đối với loại vật nuôi còn rất mới - các
nhà chuyên môn của Trung tâm Nghiên cứu khoa học kỹ thuật và khuyến
nông TP.HCM nhận định. Không những vậy, phong trào nuôi ếch Thái Lan
nhanh chóng lan ra nhiều tỉnh, thành cả nước và khu vực đồng bằng sông Cửu
Long cũng là một trong những nơi có số lượng nuôi lớn.
Ông Đặng Ái Việt - chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng và bảo
vệ nguồn lợi thủy sản TP.HCM - cho biết chỉ trong năm 2005 lượng ếch giống
nhập qua cửa khẩu TP.HCM khoảng trên 4 triệu con và ếch bố mẹ trên 8.000
con. Còn ở 17 trại ếch giống khu vực TP.HCM đã xuất bán ra thị trường

khoảng 2,5 triệu con, gồm giống sản xuất tại chỗ và nhập khẩu.
17

×