Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Thực trạng ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.93 KB, 20 trang )

Thực trạng ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
I. Vài nét về ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam:
1. Quá trình hình thành và phát triển của ngành:
Hiện nay ngành dệt may trên thế giới đã đạt được những thành tựu vượt
bậc đó chính là thành quả đáng tự hào của quá trình hình thành và phát triển từ
thời xa xưa của ngành này trên thế giới. Mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển
mạnh mẽ của ngành dệt may là vào thế kỉ 18 khi máy dệt ra đời ở nước Anh và
từ đó sức lao động đã được thay bằng máy móc nên năng suất dệt vải tăng chưa
từng thấy trong lịch sử loài người. Và bắt đầu từ khi cuộc cách mạng công
nghiệp diễn ra thì các thành tựu khoa học kĩ thuật được chuyển giao và có mặt ở
nhiều nước trên thế giới. Kinh tế đời sống xã hội ngày càng phát triển thì nhu
cầu ăn mặc không chỉ dừng lại ở chỗ chỉ để phục vụ cho việc bảo vệ cơ thể, sức
khoẻ con người mà còn để làm đẹp thêm cho cuộc sống.
ở Việt Nam, mặc dù là một nước lạc hậu, kém phát triển nhưng so với
ngành dệt may trên thế giới thì cũng có rất nhiều điểm nổi bật. Trước đây, vào
thời phong kiến khi máy móc, khoa học kĩ thuật chưa phát triển ở nước ta thì
ngành dệt may Việt Nam đã hình thành từ ươm tơ, dệt vải với hình thức đơn
giản thô sơ nhưng mang đầy kĩ thuật tinh sảo và có giá trị rất cao. Sau đó ươm
tơ dệt vải đã trở thành một nghề truyền thống của Việt Nam được truyền từ đời
này qua đời khác nhờ vào những đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ Việt
Nam. Dù những công việc đó rất giản đơn nhưng chính những nghề truyền
thống này đã tạo ra một phong cách rất riêng cho ngành dệt may Việt Nam ta
mà không một nước nào có được.
Ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam bắt đầu phát triển từ những năm
1958 ở miền Bắc và đến năm 1970 ở miền Nam, nhưng mãi tới năm 1975 khi
đất nước thống nhất, ngành dệt may mới được ổn định. Nhà máy được hình
thành ở 3 miền: miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Các nhà máy này đã thu
hút và giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động. Khi đất nước vừa
thoát khỏi ách thống trị, đang còn trong tình trạng kinh tế trì trệ kém phát triển
thì các nhà máy của ngành đóng một vai trò rất to lớn đối với đất nước.
Lúc đầu, các nhà máy chỉ sản xuất hàng hoá để phục vụ nhu cầu trong


nước. Sản lượng sản xuất ra không nhiều vì lúc đó máy móc, thiết bị còn lạc
hậu, toàn là những máy cũ nhập từ các nước xã hội chủ nghĩa, hơn nữa trình độ
quản lý cũng còn rất hạn chế. Ngay cả hàng sản xuất để phục vụ cho nhu cầu
trong nước cũng không đáp ứng đủ yêu cầu về chất lượng, mẫu mã còn nghèo
nàn ít ỏi.
Thời kì từ năm 1975 đến năm 1985 nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ
chế tập trung bao cấp, đầu vào và đầu ra của sản xuất được cung ứng theo chỉ
tiêu của Nhà nước, việc sản xuất và quản lý theo ngành khép kín và hướng vào
nhu cầu tiêu dùng nội địa là chính còn xuất khẩu trong giai đoạn này chỉ thực
hiện trong khuôn khổ Hiệp định và Nghị định thư của nước ta kí kết với khu
vực Đông Âu - Liên Xô trước đây. Do đó ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu
đi nước ngoài chủ yếu là sang thị trường Liên Xô và thị trường Đông Âu. Tuy
nhiên, hàng xuất khẩu chủ yếu là gia công hàng bảo hộ lao động cho hai thị
trường này với nguyên liệu, thiết bị do họ cung cấp. Sản lượng dệt may cho tới
năm 1980 đạt 50 triệu sản phẩm các loại, 80% xuất sang Liên Xô còn lại là
Đông Âu và khu vực II.
n cui nm 1990, khi h thng cỏc nc xó hi ch ngha b tan ró, nc
ta ri vo th hon ton cụ lp so vi nhiu nc ln mnh khỏc, th trng xut
khu b nh hng mnh m. Nn kinh t nc ta tr nờn ỡnh tr, tht nghip
tng, nhiu xớ nghip b úng ca, ngnh dt may cng khụng thoỏt khi tỡnh
trng ny.
Cựng thi gian ú ng v Nh nc ta bt u chớnh sỏch i mi nn
kinh t, chuyn i t kinh t bao cp sang c ch qun lý t hch toỏn kinh
doanh xó hi ch ngha. Thi kỡ ny, ngnh dt may gp nhiu khú khn phi
i mt vi vic: thiu vn, thiu cụng ngh, c bit thiu i tỏc u mi tiờu
th hng hoỏ. Trong nhiu nm qua ngnh ó phi a ra nhiu chin lc, bin
phỏp duy trỡ sn xut, m bo cung cp sn phm cho th trng ni a ỏp
ng nhu cu tiờu dựng ng thi t lo vn i mi thit b, tng cng thit b
chuyờn dựng, ỏp dng khoa hc k thut tiờn tin, hon thin dn h thng qun
lớ t chc

Giai on 1990 - 1995 nh cú chớnh sỏch phỏt trin kinh t hng hoỏ nhiu
thnh phn ó to iu kin thun li cho s phỏt trin ca ngnh dt may Vit
Nam. Mc dự phỏt trin chm hn so vi cỏc nc lỏng ging Chõu ỏ, nhng
ngnh ó t ng dy vn lờn, phỏt trin mt cỏch y n tng. Bc u
nm 1993 kim ngch xut khu t 350 triu USD v n cui nm 1997 xut
khu t 1,35 t USD. Khụng dng li con s ny, hng dt may xut khu ó
tr thnh mt trong 10 mt hng xut khu mi nhn ca Vit Nam nm trong
chin lc phỏt trin CNH, HH ca t nc trong thi gian ti.
Năm 2007, dt may xuất khẩu đạt 7,75 tỷ USD,trong nm 2008 xuất khẩu
dt may đạt đợc xấp xỉ 9,12 tỷ USD,n thỏng 11 nm 2009 t 8,2 t USD và
dự kiến đến cuối năm 2010 xuất khẩu hàng dệt may sẽ đạt đợc 10,5 tỷ USD. Với
tốc độ tăng mạnh của công nghiệp dệt may nớc ta hiện nay, các chuyên gia có thể
khẳng định ngành dệt may có thể đạt mục tiêu 18 tỷ USD xuất khẩu vào năm
2015. (Nguồn: Tng cc thng kờ v tp on dt may Vit Nam).
Các mặt hàng dệt may xuất khẩu cũng tương đối phong phú, đa dạng, mẫu
mã dần dần được cải tiến đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng trong và
ngoài nước. Bước đầu, ngành dệt may Việt Nam đã có tên tuổi trên một số thị
trường lớn trên thế giới: EU, Mĩ, Nhật…tạo nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất
nước.
2. Lợi thế phát triển của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam:
Thực tế cho thấy trong vài năm gần đây quần áo, sản phẩm của ngành dệt
may do các cơ sở trong nước sản xuất, chất lượng ngày càng được nâng cao,
mẫu mã phong phú đa dạng, tiêu thụ với khối lượng lớn trên thị trường. Nhiều
người tiêu dùng đã nhận xét: trong khi chất lượng hàng hoá không kém hàng
ngoại thì kiểu dáng và mẫu mã lại phù hợp hơn, giá cả rẻ hơn. Những thành tựu
mà ngành dệt may xuất khẩu đã đạt được trong thời gian gần đây chủ yếu là nhờ
vào nhiều yếu tố thuận lợi sẵn có của Việt Nam.
Với số dân trên 86 triệu người, tỷ lệ nữ giới lại rất lớn, đó là đội ngũ lao
động rất phù hợp cho ngành dệt may, một ngành đòi hỏi sự tỉ mỉ khéo léo, cần
mẫn. Người dân Việt Nam đặc biệt là phụ nữ Việt Nam nổi tiếng là những người

siêng năng chuyên cần, thông minh, nhanh nhẹn tháo vát, là điều kiện thuận lợi
cho ngành dệt may Việt Nam. ở Việt Nam giá nhân công thấp ở mức 70-
80USD/người/tháng(luật lao động). Chi phí đầu tư thấp nhờ có sẵn nhà xưởng
cho thuê với giá rẻ của các tổ chức Nhà nước và tiếp cận được nhiều chủng loại
thiết bị cơ bản không đắt tiền mới cũng như đã qua sử dụng của một số nước thì
chi phí sản xuất dệt may của Việt Nam là thấp.Ngành dệt may là ngành không
đòi hỏi phải có nhiều vốn đầu tư lớn. Để có thể xây dựng chỗ làm việc cho
ngành dệt may thì vốn bỏ ra không nhiều và thu hồi vốn cũng khá nhanh. Đối
với Việt Nam một quốc gia còn nhiều khó khăn về vốn đầu tư thì đây là một
ngành rất thích hợp để phát triển kinh tế. Cũng chính vì thế mà các cơ sở sản
xuất dệt may xuất khẩu ngày càng tăng và phát triển mạnh.
Ngoài ra, các công ty trong khu vực đóng một vai trò quan trọng trong việc
cung cấp các mối liên kết marketing thiết yếu với thị trường tiêu thụ và cung
cấp gần như toàn bộ nguyên liệu cần thiết. Các đối tác thương mại khu vực
Châu á và liên minh Châu Âu (EU) đã đem đến cho Việt Nam những cơ hội rất
lớn trong việc tiếp cận thị trường nước ngoài, điều này ý nghĩa rất quan trọng
đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, nói vậy không phải ngành dệt may của Việt Nam hoàn toàn chỉ
có thuận lợi trên con đường phát triển. Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế các
nước đang bị giảm sút, thị trường bị co hẹp lại, ngành dệt may bị chịu nhiều ảnh
hưởng lớn của nền kinh tế thế giới. Hơn nữa, ngành dệt may xuất khẩu của Việt
Nam hiện nay vẫn còn nhiều yếu kém như vấn đề về năng lực sản xuất của
doanh nghiệp còn nhỏ bé cả về quy mô lẫn công suất, chất lượng sản phẩm sản
xuất ra chưa thật sự đem lại uy tín cho doanh nghiệp, trình độ công nghệ của
ngành còn lạc hậu so với các nước trong khu vực từ 10 đến 20 năm, nguyên phụ
liệu cho sản xuất cung cấp không ổn định, có rất nhiều nguyên phụ liệu mà
trong nước không sản xuất được nên chủ yếu dựa vào nhập khẩu, vì vậy giá
thành so với các nước trong khu vực còn cao hơn rất nhiều.
Với những yếu kém của ngành dệt may Việt Nam hiện nay đã làm giảm
sức cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường trong khu vực và trên thị trường

quốc tế do đó ngành đang nỗ lực đầu tư, đưa ra các biện pháp nhằm tăng cường
sức cạnh tranh và khẳng định uy tín mặt hàng dệt may của Việt Nam ở thị
trường trong và ngoài nước.
3. Vị trí và vai trò của xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển nền kinh tế
quốc dân:
Ngành dệt may đã tạo ra sản phẩm rất quan trọng không thể thiếu đối với
cuộc sống của mỗi người. Trong 10 năm qua ngành dệt may xuất khẩu đã trở
thành một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, có những
bước tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân
là 20%/năm, vượt lên đứng ở vị trí thứ hai trong cả nước về kim ngạch xuất
khẩu,trị giá và các mặt hàng xuất khẩu tạm tính đến tháng 11 năm 2009 vượt cả
qua ngành dầu khí. Mặt hàng dệt may đã trở thành một trong 10 mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế, góp phần thúc
đẩy nhanh tự do hoá thương mại. Mặc dù hiện nay ngành dệt may Việt Nam còn
nhiều điểm yếu kém, bất cập nhưng cũng có ý nghĩa to lớn đối với sự tăng
trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian qua. Xuất khẩu dệt may tăng lên tạo đà
cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất góp phần giải quyết công ăn việc làm
cho đội ngũ lao động dư thừa ngày càng tăng mạnh của Việt Nam.Trong những
năm qua ngành đã thu hút hơn 1 triệu lao động,dự tính đến 2015 đạt 3,5 triệu
người lao động. Mặt khác nhờ có sự tăng trưởng mạnh của xuất khẩu nên đã
đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, đồng thời góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Vị trí của ngành dệt may xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
Chỉ số Đơn vị 2006 2007 2008 2009
1. Tổng giá trị XK Tỷ USD 39,6 48.4 62,9 56,6
2.XK dệt may Tỷ USD 3,3 7,8 9,1 9
3.Tỷ lệ 2/1 % 8,33 16,11 14,46 16,07
Nguồn:Tổng cục thống kờ
Xut khu mt hng dt may úng mt vai trũ ỏng k vo s tng trng
ca kim ngch xut khu hng hoỏ nc ta trong thi gian qua. Nm 1995 xut

khu dt may ch t 850 triu USD n nm 2007 con s ó tng lờn l 7,8 t
USD v nm 2009 t kim ngach xut khu l 9 t USD.Qua õy ta thy xut
khu mt hng dt may ca Vit Nam trong thi gian gn õy rt cú hiu qu.
II. Khỏi quỏt v tỡnh hỡnh nhp khu, tiờu th hng dt may trờn th gii
Hip nh a si (MFA) c ký kt nm 1974, vi vic thit lp h thng
hn ngch kht khe ca cỏc nc nhp khu. Xu th ton cu húa v t do
thng mi trong Vũng m phỏn Uruguay ó a n vic ký kt hip nh
Dt may (ATC) gia cỏc nc thnh viờn vi vic loi b dn hn ngch t
1/1/1995 v tin ti loi b hon ton vo 31/12/2004.Khi ch hn ngch vi
dt may chớnh thc c bói b. Hnh trang ngnh sn xut quan trng ca
VN bc vo thi k mi l nng lc xut khu hng triu ụla v i ng cụng
nhõn lnh ngh,s chuyờn mụn húa cao.
1. c im mt s th trng nhp khu chớnh:
a.Th trng M:
Thị trờng Mỹ l th trng nhp khu dt may ln nht ca Vit Nam vi
5,1 t USD nm 2008 v 4,9 t USD nm 2009,một thị trờng lớn và năng động
nhất thế giới.Nhu cầu tiêu dùng ở thị trờng này là rất lớn. Với dân số hơn 301
triệu ngời,vi GDP cao nht trờn th gii 13,811,200 t USD(thng kờ nm
2007). Đây là thị trờng lớn mà nhiều năm qua Trung Quốc đang là nhà xuất khẩu
lớn. Mặc dù hàng Việt Nam ó c ci thin nhiu tuy vy vẫn kém chất lợng
so với hàng Trung Quốc,nhng hiện nay ở thị trờng Mỹ những nhà nhập khẩu lớn
đang muốn tìm nhà cung cấp khác thay thế nhà cung cấp Trung Quc. Đây là một
thuận lợi lớn đối với ngành dệt may Việt Nam. Bên phía đối tác Mỹ rất chú trọng
đến thời gian giao hàng và chất lợng sản phẩm.
Ngời tiêu dùng Mỹ là những ngời đã quen dùng hàng hiệu có tên tuổi (mặc
dù sản phẩm đó đã đợc may mặc hay gia công tại Việt Nam). Những hàng hiệu
nổi tiếng là những sản phẩm dễ dàng đợc chấp nhận ở thị trờng này. Tiêu chuẩn
nhập khẩu của thị trờng Hoa Kỳ đặt ra cũng tơng đối khắt khe. Các công ty dệt
may xuất khẩu cần đạt tiêu chuẩn ISO 9.000, ISO 14.000, SA 8000, WRPA,"Ci
tin an ton sn phm tiờu dựng" (CPSIA) Các doanh nghiệp dệt may Việt

Nam đang nỗ lực nâng cao chất lợng sản phẩm, cải tạo điều kiện lao động để đáp
ứng đợc những yêu cầu của thị trờng này.
Ngoài ra, khi thâm nhập vào thị trờng này thì các doanh nghiệp Việt Nam
cần hiểu rằng đây là một thị trờng có hệ thống pháp luật hoàn thiện nhng đầy
phức tạp. Muốn thâm nhập vào thị trờng này cần nắm đợc pháp luật chính sách th-
ơng mại của Mỹ, các án lệ, các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định thơng mại
để giành quyền chủ động. Hiện tại ở Mỹ có 4 loại luật pháp bảo hộ mậu dịch mà
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thờng gặp phải là: Luật quản lý nhập khẩu bảo vệ
kinh tế nội địa bằng các biện pháp trừng phạt hoặc hạn chế nhập khẩu; Luật quản
lý xuất khẩu nhằm hạn chế xuất khẩu những mặt hàng hay bán hàng cho những n-
ớc mà Mỹ muốn hạn chế và khuyến khích xuất khẩu những mặt hàng có lợi cho
Mỹ; Luật quản lý xuất khẩu vì các lý do an ninh chính trị hay an ninh kinh tế;
Luật về tiêu dùng hoá thơng mại và cấm phân biệt đối xử.

×