Góp phần tìm hiểu tư tưởng giáo dục đạo đức
trong triết học Phật giáo
ThS. HỒNG NGỌC PHONG
Trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai
Từ khi du nhập vào nước ta, những tư tưởng tiêu biểu của giáo lý nhà Phật có sự ảnh
hưởng sâu sắc đối với hiện thực đời sống xã hội của mỗi người dân Việt Nam. Trong hệ
thống giáo lý nhà Phật thì tư tưởng về giáo dục đạo đức là một trong những nội dung tiêu
biểu, có thể khái qt đạo đức Phật giáo là từ, bi, hỷ, xả, vơ ngã vị tha, lợi lạc quần sinh,
là sự hướng thiện và khuyến thiện. Trong bối cảnh của xã hội nước ta hiện nay, khi những
nhu cầu tín ngưỡng về đạo Phật ngày càng được nâng cao thì việc nghiên cứu những giá
trị tiêu biểu trong đạo đức Phật giáo là vấn đề có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
Từ khóa: Triết học Phật giáo, giáo lý nhà Phật, giáo dục đạo đức.
1. Mở đầu
Triết học Phật giáo là một
trong những trường phái
triết học tiêu biểu của Ấn Độ
nói riêng cũng như của xã
hội phương Đơng nói chung.
Cũng như các trường phái
triết học khác, cái đích mà
triết học Phật giáo hướng đến
là vì con người và cho con
người. Trong hệ thống triết
học Phật giáo thì tư tưởng
về giáo dục đạo đức là một
trong những nội dung đặc
sắc, có ý nghĩa thiết thực gắn
kết mối quan hệ giữa lý luận
triết học với đời sống xã hội
của mỗi con người hiện thực.
Với giá trị nhân đạo cao cả,
nhân văn sâu sắc, tư tưởng
giáo dục đạo đức trong triết
học Phật giáo có những ảnh
hưởng thiết thực đối với lĩnh
vực giáo dục đạo đức cho thế
hệ người Việt Nam, nhất là đối
với lớp thanh, thiếu niên hiện
nay. Đảng và Nhà nước cần
đào tạo họ thật sự trở thành
những người chủ tương lai
của đất nước vừa “hồng” vừa
“chun”, năng động sáng tạo
trong sản xuất; thật thà lương
thiện, khoan dung độ lượng,
vị tha trong đạo đức lối sống.
Đó chính là những phẩm chất
cao đẹp của con người mới con người vừa có tài, vừa có
đức. Với ý nghĩa đó, việc tìm
hiểu, nghiên cứu và vận dụng
những giá trị triết lý nhà Phật
vào thực tiễn giáo dục đạo
đức ở nước ta hiện nay là vấn
đề mang tính thiết thực.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Tư tưởng giáo dục đạo
đức trong triết học Phật giáo
Cái đặc sắc trong tư tưởng
giáo dục đạo đức của triết học
Phật giáo thể hiện ở chỗ nó
quan tâm đến vấn đề cứu khổ,
cứu nạn, đem lại an lạc cho
tâm hồn con người. Chính vì
vậy đạo đức Phật giáo khái
qt lại là từ, bi, hỷ, xả, vơ ngã
vị tha, lợi lạc quần sinh, là sự
hướng thiện và khuyến thiện.
Hòa thượng Thích Minh
Châu trong diễn văn khai
mạc hội nghị đạo đức Phật
giáo trong thời hiện đại đã
nói: Đạo đức Phật giáo có khả
năng giúp cải thiện cuộc sống
của con người hiện tại và xã
hội hiện tại.
Tinh thần từ bi của nhà
Phật chính là sự cảm thơng
trước nỗi đau của người khác
và mong muốn được chia sẻ
nó. Nói cách khác, từ bi là tình
thương giữa con người với
con người, giữa con người với
mn lồi khơng phân biệt
đẳng cấp, giàu nghèo sang
hèn, nó được đức Phật khơi
dậy ở mọi chúng sinh. Ngay
5
SỐ 01 NĂM 2019
KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
TẠP CHÍ KHOA HỌC CƠNG NGHỆ VÀ MƠI TRƯỜNG
6
KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
từ lúc còn đang tìm đạo Ngài
đã khẳng định: Tình thương
là sợi dây liên lạc giữa người
với người. Khơng có đẳng cấp
trong giọt nước mắt cùng
mặn, khơng có đẳng cấp
trong dòng máu đỏ như nhau,
mỗi người sinh ra khơng phải
đã mang sẵn trong bào thai
dây chuyền ở cổ hay dấu tì ca
ở trán đó sao.
Tinh thần hỷ xả, hiểu một
cách khái qt thì “hỷ” là vui
vẻ với mình, kể cả với nghịch
cảnh và thất bại, vui vẻ với
thành cơng của người khác và
vơ lượng chúng sinh; “xả” là vơ
chấp vơ biên, theo tinh thần
“niềm vui cho đi niềm vui lại
đầy, nỗi buồn cho đi nỗi buồn
lại vơi”. Nhờ đó giúp con người
sống với nhau một cách thân
mật, bác ái, sống vơ ngã vị tha
mở rộng tấm lòng bao dung
độ lượng đối với mn lồi.
Vơ ngã vị tha, lợi lạc quần
sinh là phải giác ngộ vạn
pháp đều vơ thường nên vơ
ngã, ta là vơ ngã vì thế mà hãy
tha thứ, thương u, giúp đỡ
cho nhau, khi có niềm vui, có
lợi ích thì cùng nhau chung
hưởng.
Với tinh thần ấy thì từ, bi,
hỷ, xả, vơ ngã vị tha, lợi lạc
quần sinh khơng chỉ là việc
làm mang lại an lạc cho con
người, đưa con người thốt
khỏi trầm ln mà nó còn
được bắt đầu từ những việc
làm thường nhật ngay trong
các mối quan hệ tự nhiên,
thầy trò, gia đình…vv. Trong
gia đình, Phật dạy cha mẹ là
thiêng liêng nhất đối với con
cái, con cái phải sẵn sàng làm
tròn bổn phận đối với cha mẹ.
Phật giáo coi hiếu với cha mẹ
là đạo đức quan trọng nhất,
là nền tảng đạo đức của một
con người, Phật dạy: “Tột cùng
điều thiện, khơng gì bằng
hiếu. Tột cùng điều ác, khơng
gì bằng bất hiếu”. Điều đó có
nghĩa, đối với một con người
khi đã khơng còn tình thương
đối với cha mẹ thì coi như đã
mất hết nhân tính, khơng còn
tội ác nào làm cho họ run tay,
chùn bước. Trong quan hệ
thầy trò, Phật giáo cho rằng
trò phải kính trọng và vâng
lời thầy, về phần mình thầy
phải tập kiến thức cho trò,
dạy trò biết giữ đạo lý. Đây
là mối quan hệ hai chiều, sự
tương tác qua lại tạo nên cái
thiện, hành thiện ở mỗi con
người. Lời dạy của đức Phật
khơng chỉ đúng trong thời đại
của Ngài mà còn mang tính
thiết thực trong việc xây dựng
nhân cách người trò và người
thầy trong sự nghiệp giáo dục
hiện nay.
Tất cả cho thấy, Phật giáo
đâu chỉ quan tâm tới những
lý tưởng cao xa, những tư
tưởng đạo đức chỉ để chiêm
ngưỡng. Phật giáo đã quan
tâm hết sức căn bản và thiết
thực đến đời sống và hạnh
phúc đích thực của con người.
Khơng thể có hạnh phúc nếu
đặt nó ngồi một cuộc sống
thuần khiết dựa trên nền
tảng những ngun tắc đạo
đức và tinh thần. Vì vậy, Phật
giáo đã đưa ra những quan
niệm về “ngũ giới”, “bát giới”,
“thập giới” để mọi người khắc
phục sửa chữa những sai lầm
của bản thân, làm cho mỗi cá
nhân đều hòa đồng với nhân
sinh.
Trong giáo lý Phật giáo thì
“ngũ giới” là giới luật cơ bản
nhất, “ngũ giới” là khơng sát
sinh, khơng trộm cắp, khơng
tà dâm, khơng nói dối, khơng
uống rượu. Trong “ngũ giới”,
Phật giáo cho rằng thực hiện
được điều nào là tốt điều đó,
nhờ đó mà ngăn chặn được
cái ác, giúp con người xa lánh
được cái xấu, nghiệp xấu, làm
được ngày càng nhiều những
điều thiện. Phật giáo khun
con người phải tích cực thực
hiện “lục độ” để thốt khỏi
bến mê. Trong “lục độ” (sáu
phép tu) thì “bố thí” là một
trong những điều căn bản
nhất, nó bao gồm vật thí, tài
thí và vơ q thí (vật thí tức
là cho nhau những vật phẩm
cần thiết, tài thí nghĩa là đem
tiền và của cho người khác, vơ
q thí là giúp đỡ người khác
mà khơng vụ lợi). Dù có nhiều
nội dung khác nhau nhưng
cả ba điều bố thí đó là rất cần
thiết cho xã hội ngày nay, đạo
đức của Phật giáo với những
ngun tắc ấy đều rất gần với
cuộc sống hiện tại. Đạo đức
Phật giáo vì vậy có thể nói là
đạo đức của tấm lòng đại từ,
đại bi, lấy tình thương bao la
đối với mn lồi mn vật
làm trọng, lấy việc cứu khổ
diệt khổ cho mn lồi mn
người làm mục đích tối cao.
2.2. Đánh giá về tư tưởng
giáo dục đạo đức trong triết
học Phật giáo
Từ những giáo lý cơ bản
nêu trên, đánh giá về đạo đức
Phật giáo ta thấy: cho đến
nay có rất nhiều những quan
điểm khác nhau, có người cho
rằng đạo đức Phật giáo là bi
quan yếm thế hạn chế tính
tích cực của con người đối với
xã hội, mặc dù hướng thiện
nhưng Phật giáo lại loại trừ
ngun nhân tồn tại của con
người. Nhưng có người lại cho
rằng bất luận thế nào thì đạo
đức Phật giáo vẫn là đại từ đại
bi, cứu khổ cứu nạn đối với
con người và chúng sinh…
vv. Theo quan điểm của người
viết thì đạo đức Phật giáo với
tinh thần tất cả vì mọi người,
vì hạnh phúc của nhân loại,
đạo đức Phật giáo khơng phải
là xuất thế mà là nhập thế cứu
đời tạo nên xã hội chân - thiện
- mỹ.
Dưới nhãn quan triết học
Mác - Lênin ta thấy, mặc dù
chưa giải thích đúng bản chất
các hiện tượng xã hội, chưa
tìm ra được ngun nhân đích
thực mà nhân dân Ấn Độ cổ
đại phải gánh chịu, đạo đức
Phật giáo vẫn đứng trên lập
trường của chủ nghĩa duy tâm
chủ quan và cũng vì thế chưa
chỉ ra được con đường và biện
pháp cải tạo xã hội đúng đắn
hiệu quả. Tuy vậy, những gì
mà phật giáo bàn về đạo đức,
về tính thiện thì cũng giúp
cho con người mặc tưởng
chiêm nghiệm điều chỉnh
được hành vi của mình theo
cái thiện, hạn chế và xa lánh
cái ác, vượt qua khỏi vòng
ích kỷ mà hành động vì mọi
người. Mặc dù Phật giáo chưa
bàn đến các vấn đề về kinh tế,
chính trị, “tính thiện” của Phật
giáo chủ yếu bàn về giáo dục.
Thế nhưng, khi một xã hội
đã phát triển, muốn có “dân
chủ, cơng bằng, văn minh” thì
điều quan trọng trước hết đó
chính là vấn đề giáo dục nhân
cách lối sống đạo đức cho con
người và ở phương diện này
đạo Phật đã có những đóng
góp nổi bật.
2.3. Vận dụng tư tưởng
giáo dục đạo đức trong triết
học Phật giáo vào việc giáo
dục đạo đức cách mạng ở
nước ta hiện nay
Ở nước ta hiện nay, dưới
ảnh hưởng của cơ chế thị
trường, đặc biệt sự tác động
mạnh mẽ của cuộc cách
mạng cơng nghiệp 4.0 đã
đặt ra nhiều thời cơ và thách
thức đối với nước ta trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong đó, lĩnh vực giáo dục và
đào tạo, nhất là việc giáo dục
đạo đức cách mạng ở nước
ta hiện nay đang gặp phải
nhiều khó khăn, thách thức
trước sự tác động của cơ chế
thị trường và sự phát triển
của khoa học cơng nghệ. Trên
thực tế, khơng ít bộ phận cán
bộ, đảng viên khơng vượt qua
được những cám dỗ trong đời
sống xã hội đã trở nên thối
hóa biến chất (tham nhũng,
lãng phí, bè phái, tư lợi...
vv) gây nguy hại lớn cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước. Còn đối với thanh,
thiếu niên - thế hệ tương lai
của đất nước, vấn đề đạo đức
cách mạng đang ngày càng
mang tính thời sự nóng bỏng.
Bên cạnh những thanh, thiếu
niên giàu lòng u nước,
quyết đem tất cả tài năng và
tâm huyết của mình cống
hiến cho Tổ quốc thì cũng
tồn tại một bộ phận khơng ít
thanh, thiếu niên chạy theo
những thị hiếu nhất thời của
cá nhân mà qn đi nhiệm
vụ tu dưỡng đạo đức, dẫn
đến lối sống bng thả thiếu
lành mạnh, thậm chí ngang
nhiên vi phạm pháp luật gây
nên những tội ác “kinh hồng”
khơng thể chấp nhận được.
Nguy hại hơn, đối với thế
hệ trẻ hiện nay, nhiều giá trị
thuần phong mỹ tục của dân
tộc bị bỏ qn, sự băng hoại
về đạo đức có chiều hướng
gia tăng, tình trạng vơ cảm
của con người ngày càng phổ
biến..vv. Những trở lực đó là
tác nhân kìm hãm sự nghiệp
xây dựng và phát triển của đất
nước nói chung cũng như đối
với cơng tác giáo dục đạo đức
cách mạng ở nước ta hiện nay
nói riêng.
Trước thực trạng đó, cơng
tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho thế hệ người Việt
Nam hiện nay đang đặt ra bức
thiết, nhằm giáo dục họ trở
thành những người có ích cho
đất nước. Với ý nghĩa đó, trên
cơ sở nhận thức nhất qn
những ngun lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh
vực giáo dục đạo đức, tiếp thu
những nhân tố có giá trị trong
tư tưởng giáo dục đạo đức
của triết học Phật giáo, trong
phạm vi bài viết này tác giả
xin đề xuất một số phương
hướng góp phần nâng cao
hiệu quả cơng tác giáo dục
7
SỐ 01 NĂM 2019
KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
TẠP CHÍ KHOA HỌC CƠNG NGHỆ VÀ MƠI TRƯỜNG
8
KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
đạo đức cách mạng ở nước ta
hiện nay như sau:
Một là, trong cơng tác
giáo dục đạo đức cách mạng
ở nước ta hiện nay, nhất thiết
phải qn triệt chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức cách
mạng đối với mọi tầng lớp
cư dân trong xã hội; giáo dục
cho họ thấm nhuần những
chuẩn mực đạo đức cơ bản
mang tính phổ cập đối với
mọi người. Tiêu biểu là những
chuẩn mực về trung với nước,
hiếu với dân; cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư; thương
u con người, sống có tình
nghĩa và tinh thần quốc tế vơ
sản trong sáng, thủy chung.
Thực hành tốt những chuẩn
mực đạo đức đó góp phần
hiện thực hóa mục tiêu giáo
dục đạo đức cách mạng mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày
cơng vun đắp.
Hai là, tiếp tục phát huy
những giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc Việt Nam
qua hàng ngàn năm lịch sử,
đó là chủ nghĩa u nước, tinh
thần đồn kết, tương thân
tương ái trong khó khăn hoạn
nạn có nhau, đồng cam cộng
khổ, trọng đạo lý làm người
và đặc biệt là văn hóa lấy dân
làm gốc với tinh thần “nhiễu
điều phủ lấy giá gương, người
trong một nước phải thương
nhau cùng”, “bầu ơi thương lấy
bí cùng, tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn”.
Ba là, đẩy mạnh và thực
hiện có hiệu quả cuộc vận
động “học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh” thơng qua
những việc làm thiết thực
thiên về hiệu quả thực tiễn,
tránh tình trạng “thừa khẩu
hiệu, thiếu việc làm”, “nói
nhiều làm ít”; ngược lại, lời
nói phải đi đơi với hành động,
nêu cao hiệu quả thực tiễn
“nói ít làm nhiều”, phải nêu
gương về đạo đức.
Bốn là, khắc phục những
thói hư tật xấu, tình trạng
vơ cảm, thờ ơ giữa người với
người thơng qua cơng tác
thiện nguyện trên tinh thần
“nhường cơm sẻ áo”, “lá lành
đùm lá rách, lá rách ít đùm lá
rách nhiều”, giúp con người
bớt cái tơi vị kỷ mà tích cực
hơn, có trách nhiệm hơn đối
người khác, với xã hội.
Năm là, phát huy những
giá trị tinh túy trong đạo đức
Phật giáo góp phần giáo hóa
con người, giúp cho thế hệ trẻ
vững bước trước cám dỗ của
cuộc đời, khích lệ họ quan
tâm đến số phận của cộng
đồng, sống lương thiện, coi
trọng tính nhân bản, coi trọng
thiên nhiên..vv. Như thế đạo
đức Phật giáo đã đóng góp
những giá trị văn hóa tích cực
vào việc xây dựng đạo đức lối
sống cho con người, nhất là
cho tầng lớp trẻ hiện nay.
3. Kết luận
Có thể nói rằng những tư
tưởng giáo dục đạo đức trong
triết học Phật giáo đã dễ dàng
đi vào lòng người, có tác dụng
hồn thiện nhân cách đạo
đức, hướng con người đến lối
sống giàu lòng vị tha, từ bi,
bác ái. Thực tiễn cho thấy, đạo
đức Phật giáo phù hợp với
đạo đức và lẽ sống của con
người Việt Nam, góp phần
tích cực trong việc xây dựng
một nền tảng đạo đức mới ở
nước ta trong giai đoạn hiện
nay trên nền tảng những giá
trị đạo đức truyền thống của
dân tộc.
Thiết nghĩ, trong xu thế
hội nhập ở nước ta hiện nay
bên cạnh việc giáo dục đạo
đức cách mạng trên nền tảng
của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh thì việc
tiếp thu những giá trị tích cực
trong đạo đức Phật giáo phục
vụ cho nhiệm vụ “rèn đức luyện tài” vì tương lai của đất
nước là việc làm cần thiết. Tất
cả cùng hướng đến xây dựng
một nước Việt Nam phồn
thịnh “dân chủ, cơng bằng,
văn minh”. Với tinh thần ấy,
đạo đức Phật giáo ngày càng
trở thành một bộ phận khơng
thể thiếu cấu thành cốt cách
văn hóa của dân tộc Việt Nam
- văn hóa tiến tiến đậm đà bản
sắc dân tộc./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BS Hồ Hữu Hưng (biên dịch),
Đối thoại giữa triết học và Phật giáo,
Nxb. Tp Hồ Chí Minh, 2002.
2. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2007.
3. Giáo trình Những ngun lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.
4. Hồng Ngọc Vĩnh, Tơn giáo một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam, ĐHKH Huế, 2000.
5. Thích Minh Châu, Những lời
Đức Phật dạy về hòa bình và giá trị
con người, Viện nghiên cứu Phật học
Việt Nam, 1995.
6. Thích Đạo Quang, Đại cương
triết học Phật giáo, Tỉnh hội Phật
giáo Thừa Thiên Huế, 1996.
7. Thích Chơn Thiện, Phật học
khái luận, Nxb. Tp Hồ Chí Minh, 1999.