̀
̣
̣
̣
TRƯƠNG ĐAI HOC KHOA HOC HUẾ
́
̣
̣
KHOA LÝ LUÂN CHINH TRI
-----------------------
́
́
ĐỀ CƯƠNG TOM TĂT
́
ĐỀ TÀ I NGHIÊN CƯU KHOA HỌC SINH VIÊN
“Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo của
Trần Nhân Tơng”
Nhóm sinh viên thực hiện:
Hồng Trần Như Ngọc, Nguyễn Thị Thu Hà
(Nguyễn Thị Tâm)
Lớp: Triết K32
Huế, 12/2011
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đặc sắc của Phật giáo đời Trần là tính tích
cực nhập thế. Trong số những vị vua, các nhà thiền
sư của nhà Trần, thì Trần Nhân Tơng nổi lên là vị
hịa thượng chân tu, một nhà thiền học có cơng lớn
nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Ông sáng
lập ra một tông phái Phật giáo mang bản sắc Việt
Nam - thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Nghiên cứu triết học Phật giáo của Trần
Nhân Tơng có ý nghĩa vơ cùng to lớn cả về thực
tiễn và lý luận. Với những lý do trên chúng tơi chọn
đề tài “Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học
Phật giáo của Trần Nhân Tông” để làm đề tài
nghiên cứu khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam hiện nay có nhiều cơng trình
nghiên cứu về những tư tưởng Phật giáo của
Trần Nhân Tơng. Ở đây có thể nêu lên một số
tác giả tiêu biểu sau: Nguyễn Đức Sự, Lê
Mạnh Thát, Ngũn Tài Thư, Hồng Ngọc
Vĩnh, v.v
Trong q trình thực hiện đề tài “Góp
phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo
của Trần Nhân Tơng” nhóm tác giả đã kế
thừa những thành tựu đã đạt được trong các
cơng trình nêu trên là khẳng định: Phật giáo
Trúc Lâm là nhập thế, phụng sự cho đời sống;
giải thoát tâm linh cũng như giải thốt đời sống
xã hội ln liên quan đến nhau, bổ túc cho
nhau; Phật tại tâm của Trúc Lâm Yên Tử là sự
phát triển đến trình độ gần như hồn thiện
quan niệm Phật tại tâm của Phật giáo…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Góp phần
làm sáng tỏ vị trí vai trị của Trần Nhân
Tông trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, đặc
biệt là tư tưởng về bản thể luận và nhân
sinh quan của Trần Nhân Tơng; những
đóng góp của ơng trong sự phát triển tư
tưởng triết học Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Trình bày cơ
sở hình thành tư tưởng triết học của Trần
Nhân Tông; Làm sáng tỏ một số nội dung
triết học Phật giáo cơ bản của Trần Nhân
Tông như bản thể luận, nhân sinh quan;
Làm rõ những đóng góp của Trần Nhân
Tơng đối với Phật giáo Việt Nam nói riêng,
với đời sống văn hóa Việt Nam nói chung.
4. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lênin; đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước
về vấn đề tôn giáo.
Phương pháp nghiên cứu: Phép biện chứng duy vật, với những
nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể là
phương pháp nghiên cứu xuyên suốt của đề tài; Bên cạnh đó
đề tài cịn sử dụng các phương pháp cụ thể khác như phân
tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, trừu tượng hóa, khái quát
hóa v.v.. để thực hiện đề tài.
5. Đóng góp của đề tài:
Đề tài góp phần làm sáng tỏ giá trị tư tưởng triết học của Trần Nhân
Tông, đặc biệt là bản thể luận và nhân sinh quan của ông; Đề tài là tài
liệu tham khảo cho những người quan tâm đến nền văn hóa Việt Nam
và triết học Việt Nam nói riêng, mà sự quan tâm này là một nhu cầu
cấp bách và to lớn trong xã hội hiện nay.
6. Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu
tham khảo, đề tài được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: Cơ sở hình thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông
Chương 2: Những nội dung cơ bản trong triết học Phật giáo của Trần
Nhân Tông
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TƠNG
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
• Sau kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thắng
lợi, do nhiều nguyên nhân khác nhau như mất mùa,
đói kém làm nhân dân rơi vào tình trạng bần cùng
hóa. Trong khi đó, quan lại, quý tộc nhà Trần chiếm
hết ruộng đất, ăn chơi xa xỉ, khơng quan tâm đến
cuộc sống của người dân.
• Nhận thức được những mâu thuẫn sau kháng chiến
chống quân Ngun-Mơng thắng lợi, tập đồn q
tộc tơn thất nhà Trần đã cố gắng xoa dịu mâu thuẫn.
1.2. Nguồn gốc tư tưởng
• Vinitaruci
• Vơ Ngơn Thơng
• Thảo Đường
• Trần Thái Tơng (1218 - 1277) - “tập đại
thành đầu tiên của Phật giáo Việt Nam”.
• Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291)- ngọn
đèn tổ của Phật hồng Trần Nhân Tơng.
1.3. Phẩm chất đặc biệt của Trần Nhân Tơng
• Khơng phải ngẫu nhiên lịch sử tôn vinh Trần Nhân Tông là vị anh hùng, là nhà văn
hoá của dân tộc. Ơng là vị vua có cơng lớn trong việc lãnh đạo nhân dân Đại Việt
hai lần đánh thắng qn Ngun-Mơng.
• Trần Nhân Tông là nhà thiền sư lớn. Tất cả những tư tưởng của ông đều được
lãnh hội trên tinh thần dung hợp Nho, Phật và coi nó có tính chất chỉ đường cho
cuộc đời hoạt động của chính mình và thế hệ mai sau.
• Ngồi ra, Trần Nhân Tơng cịn là một nhà thơ, nhà văn có những đóng góp cho thơ
văn thời Trần lúc bấy giờ. Đặc biệt là tác phẩm Cư trần lạc đạo phú.
• Xuất gia tu hạnh Đầu Đà nhưng vẫn không tách biệt với xã hội đời thường, chú
trọng đến hình tướng của sự vật, hành động nhiều hơn. Khuynh hướng của ông là
lấy đạo giúp đời và lấy đời giúp đạo.
• Trần Nhân Tơng đã có những đóng góp trong việc tập hợp, xây dựng và củng cố
một giáo hội Phật giáo thống nhất.
CHƯƠNG 2
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA
TRẦN NHÂN TÔNG
2.1. Vấn đề thế giới quan trong tư tưởng triết học
Phật giáo của Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông dùng khái niệm bản và gốc để làm
sáng tỏ vấn đề bản thể của vũ trụ và vạn vật.
• Ơng dùng chữ bản là muốn nói tới cái gốc, cái ngọn
nguồn, cái bản nguyên, cái đầu tiên trong vũ trụ. Điều
này được ơng nói trong bài Cư trần lạc đạo phú .Do
ta quên gốc, “khuấy bản” phải đi cầu Phật. Đến
khi hiểu ra thì chính Phật là ta.
• Nếu ở Trần Thái Tông bản thể sâu trầm, trong lặng
như như, không vương chút niệm lự, trong suốt,
xưa nay khơng gợn một bụi nhơ; cịn Tuệ Trung
Thượng Sĩ bản thể như nhiên tự không tịnh, vằng
vặc chưa hề có mê lầm; thì ở Nhân Tơng bản thể
lặng n trong trẻo.
• Thực ra, tuy diễn đạt có khác nhau, nhưng tư
tưởng của ba ông là một. Nhưng những thiền ngữ
của Trần Thái Tơng thì bóng bẩy, của Tuệ Trung
Thượng Sĩ thì mạnh mẽ, mãnh liệt, cịn của Trần
Nhân Tơng thì thực tế, chững chạc.
Bản thể, Phật tính, theo Trần Nhân Tơng về thực chất thì ai
cũng có đầy đủ, viên thành. Trần Nhân Tơng cho rằng tâm
(hay lịng) là Phật, Phật là tâm (hay lịng), Phật ở trong tâm
(hay lịng), ngồi tâm (hay lịng) khơng có Phật.
Khi đã làm cho Phật tính trong trẻo tròn đầy lại như xưa, tức
là khi đã giác ngộ, thì làm gì cịn tội phúc, nhân quả.
Trần Nhân Tông quan niệm về nguồn gốc xuất hiện thế giới
cảm tính, xuất hiện dường mối, xuất hiện hiện hữu là do
phân biệt kén chọn. Ơng nói: “Chỉ vì phân biệt kén chọn, nên
sinh ra lắm mối nhiều đường”.
Điểm vượt xa hơn Trần Thái Tông và Tuệ Trung
Thượng Sĩ là ở chỗ Trần Nhân Tông đề cập đến
mối quan hệ giữa Phật tính và Pháp thân, giữa
tâm, tính, pháp và Phật.
Theo ơng, Phật tính và Pháp thân như hình
với bóng, khơng lìa nhau, “Pháp tức là tính, Phật
tức là tâm, vậy thì tính nào khơng phải pháp, tâm
nào không phải là Phật? Tâm là Phật mà tâm
cũng là pháp”. Phật tại tâm. Với Trần Nhân Tông,
Phật, tâm, pháp, tính, pháp tính, tính Phật… cũng
chỉ là phương tiện, vấn đề là chứng ngộ.
2.2 Vấn đề nhân sinh quan trong tư tưởng của
Trần Nhân Tông
Trung thành với triết lý Phật giáo, cốt lõi nhân sinh
quan của Trần Nhân Tông là quan niệm về nhân
quả.
• Trần Nhân Tơng đã thấu hiểu nhân quả, song ông
lại giải quyết theo phương pháp “đối cảnh vô
tâm”. Ở trình độ này, chẳng có gì có thể xen vào,
gặp cảnh thì hành xử tự tại, khơng so sánh phân
chia, áp đặt bất cứ một khái niệm, ngôn từ nào.
Xuất phát từ quan niệm tâm chính là Phật (tức
tâm tức Phật), Phật ở trong tâm (Phật tại tâm
trung), Trần Nhân Tông cho rằng, chỉ cần loại
bỏ được vọng niệm, ngay lập tức quay về tâm
thanh tịnh là đạt đến giải thốt.
• Quan niệm tâm chính là Phật của Trần Nhân
Tơng đóng vai trị làm nền tảng lý luận cho giáo
nghĩa của ông.
Đối với Trần Nhân Tông, con đường hiện thực
để thành Phật chính là sự giác ngộ của “bản
tính” trong mỗi một con người, nhấn mạnh đến
truy cầu nội tại từ trong tâm. Phật tính nằm ngay
trong tâm mình, khơng cần phải hướng ngoại,
truy cầu ở sự vật. “Kiến tính thành Phật”, cần
phải tự chứng nghiệm trong tâm thân của mình,
chứ khơng phải là đi lĩnh hội từ sắc thân.
• Trên phương diện này, Trần Nhân Tông xác lập quy tắc
cho Thiền phái Trúc Lâm: chú ý đến các quy phạm đạo
đức, không coi nhẹ tu dưỡng ngôn - hành, chú trọng
mối quan hệ giữa “đốn” và “tiệm”.
Ngoài ra, ơng có những kiến giải mới về sự kết hợp
giữa Nho giáo với Phật giáo và những giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc tạo nên con người Phật giáo
của Thiền Trúc Lâm.
Một trong những tư tưởng khơng thể khơng nói đến khi
đề cập đến tư tưởng thiền chính là học thuyết vơ niệm
của Trần Nhân Tơng. Thiền không phải là kinh viện, mà
là cuộc sống, do đó cần phải “bất lập văn tự”, “trực chỉ
nhân tâm” “kiến tính thành Phật”.
Xu hướng nhập thế là một vấn đề nổi bật trong
quan niệm nhân sinh quan của Trần Nhân Tông. Nó
thể hiện tư tưởng “gắn đời với đạo” của ơng góp
phần đưa Phật giáo tham gia vào đời sống xã hội,
vào sự nghiệp của dân tộc.
• Dù chưa xuất gia nhưng tư tưởng, hành động của
ông đã thấm nhuần triết lý nhà Phật. Là một người
mộ đạo nhưng ông cũng là một vị vua, hơn nữa lại
là một vị vua yêu nước, ông nhận rõ những nguy
cơ đối với sự tồn vong của dân tộc. Khi chiến tranh
nổ ra, ông đã cùng với quân dân nếm mật, nằm gai,
chiến đấu oanh liệt cho đến ngày toàn thắng.
• Tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông đã thể
hiện khuynh hướng nhập thế tích cực với mục đích
cứu nhân độ thế, giải thoát chúng sinh bằng hành
động thực tế là bảo vệ vững chắc nền độc lập của
Tổ quốc, tránh cho nhân dân khỏi cảnh cửa nát,
nhà tan, lầm than, đau khổ.
• Sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm chính là kết quả
của những nỗ lực đưa Phật giáo sát cánh cùng dân
tộc, trở thành hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội.
• Trần Nhân Tơng chủ trương tìm Phật ngay trong
cuộc sống hiện tại, sống giữa đời mà vui với đạo.
Mấu chốt của vấn đề ở đây là “chân lý giải thoát”,
mà chân lý ấy tồn tại ở khắp mọi nơi, nhất là trong
cuộc đời trần tục. Đạo và đời khơng có gì phân biệt
dù ở “thành thị” gánh vác việc đời mà tấm lòng
thanh tịnh thì cũng chẳng khác gì đang phiêu diêu
tự tại chốn “sơn lâm”.
• Tinh thần “vui đạo tùy duyên” mà Trần Nhân Tơng đưa
ra đã khẳng định tu ở giữa đời thì phải giúp ích cho đời
vì làm việc cho đời cũng là làm việc cho đạo. Khuynh
hướng này khuyến khích con người sống “tốt đời đẹp
đạo”, cứu nhân độ thế bằng chính những việc làm có
ích với đời.
• Để thống nhất tư tưởng trong nhân dân tạo cơ sở cho
sự đoàn kết – yếu tố sống còn của dân tộc, Trần Nhân
Tông đứng ra thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử một Thiền phái hoàn toàn mang màu sắc Việt Nam.
• Trần Nhân Tông lấy giáo nghĩa Phật giáo để trị nước,
lấy đạo đức Phật giáo làm tiêu chuẩn cho đạo đức xã
hội. Song, không chủ trương loại bỏ các tơn giáo hay
học thuyết khác để độc tơn Phật giáo.
• Với tinh thần nhập thể cởi mở và khai phóng như vậy,
Trần Nhân Tông đã làm cho giáo pháp thiền phái Trúc
Lâm trở thành cầu nối giữa triều đình và người dân.
Thiền học của ông không chỉ dành riêng cho một tầng
lớp q tộc hay bó buộc trong triều đình, mà đối
tượng của nó thực sự được mở ra cho tất cả mọi
người phù hợp với xã hội Việt Nam.
• Dù ở nơi trần tục trên ngơi cao chín bệ hay ở đỉnh
Yên Tử với cuộc sống thanh tao, đạm bạc, nhưng
tư tưởng và hành động của Trần Nhân Tơng đều
thể hiện khuynh hướng nhập thế hết sức tích cực.
• Cuộc đời của ơng là ngọn đèn Thiền sáng nhất soi
lối cho chúng sinh tới bến bờ giác ngộ, bất kể kẻ
tăng hay tục, đời hay đạo chẳng câu nệ hình thức,
chỉ cần có tấm lịng hướng thiện, vì dân vì nước thì
sẽ tìm ra chân lý giải thốt.
2.3. Đóng góp và ảnh hưởng của Trần Nhân
Tông đối với Phật giáo Việt Nam
• Đóng góp của Trần Nhân Tông về mặt tư tưởng
là ở chỗ, ông là người tổng hợp, tiếp thu, kế thừa
và phát triển những tư tưởng thiền học trước ông
như Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ,..
Triết học Trần Nhân Tông cũng lấy thiền làm căn
bản, làm gốc nhưng đã phát triển lên một bước
mới.
• Đối với Trần Nhân Tông, con người sống giữa
cuộc đời trần tục vẫn có thể tu luyện để đi đến
giác ngộ, vẫn có thể kiến tính tại tâm, thấy được
tính sáng và gìn giữ được tính sáng. Với việc chỉ
ra con đường giác ngộ như vậy, Trần Nhân Tông
đã làm cho Phật giáo Việt Nam mang trong mình
tinh thần yêu nước.
• Một cống hiến quan trọng của Trần Nhân Tông
đối với Thiền học Việt Nam thời Trần là ông đã
nâng tư tưởng nhập thế của Thiền học thời Trần
lên một tầm cao mới. Theo ông, nhập thế không
chỉ là “tại thế gian giác”, mà nhập thế phải là sự
“giúp thế” có hiệu quả và ích cực hơn. Giúp thế là
phải có những đóng góp hết sức mình cho cuộc
chiến tranh giữ nước và xây dựng nền văn minh
Đại Việt hồi ấy.
• Cơng lao lớn nhất của Trần Nhân Tơng là việc tổ
chức, xây dựng thiền phái Trúc Lâm - một tổ
chức thống nhất mang tính cách dân tộc - để lại
dấu ấn đậm nét khơng chỉ trong lĩnh vực chính trị
và văn hóa đời Trần mà cịn cả trong lịch sử Phật
giáo Việt Nam.
Với tinh thần nhập thế, cởi mở và
khai phóng, Trần Nhân Tông đã khiến
giáo pháp Thiền phái Trúc Lâm trở
thành cầu nối giữa triều đình và người
dân. Đối tượng thiền học của ông đã
thực sự mở ra cho tất cả mọi người,
phù hợp với xã hội Việt Nam. Thiền
của ông khơng thốt ly cuộc sống, mà
ngược lại, nó lúc nào cũng mang đẫm
hơi thở của cuộc sống.
̣
C. KẾT LUÂN
Triết học thiền của Trần Nhân Tông là sự kế tục và
phát triển những tư tưởng truyền thống của thiền tơng
Việt Nam với văn hóa Việt Nam:
• Thứ nhất, trên cơ sở nội dung của khái niệm “tâm”
được hình thành ở các thế hệ trước, Trần Nhân Tơng
đã chú trọng đến khía cạnh trạng thái, hình tướng của
cái “tâm” cụ thể hóa nó, làm cho nó phong phú thêm,
dễ hiểu hơn với ý thức phổ cập hóa triết lý Phật giáo
trong quần chúng nhân dân.
• Thứ hai, trong quan niệm về thiền, Trần Nhân Tông
không đi sâu vào quan niệm lý luận, mà chú ý nhiều
đến việc hành thiền. Ơng là người đầu tiên có ý thức
cụ thể hóa các bước đi trong q trình tu thiền, chọn
lọc các kinh nghiệm thiền của các thế hệ trước, và trở
thành tấm gương cho thiền sư Việt Nam học tập, kế
thừa, phát triển.