Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

tình huống bảo hộ quyền tác giả - 9 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.61 KB, 15 trang )

Tình huống sưu tầm về bảo hộ quyền tác giả:
"Năm 1966, ông Bảo là phóng viên làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam đã
chụp tấm ảnh người phi công Mỹ bị bắt tại Hà Bắc và đặt tên bức ảnh là “Từ thần
sấm lộn cổ xuống xe trâu”. Năm 2006, ông Bảo phát hiện NXB Văn hóa dân tộc
xuất bản sách “Việt Nam cuộc chiến 1858-1975”, trong đó có đăng bức ảnh trên
mà không được sự đồng ý của ông Bảo cũng như Thông tấn xã Việt Nam. Đồng
thời, trong cuốn sách cũng không ghi tên ông Bảo là tác giả và khi đăng đã cắt xén
một phần bức ảnh này. Do đó, ông Bảo đã khởi kiện NXB Văn hóa dân tộc tại Tòa
án cùng với yêu cầu đăng cải chính, xin lỗi trên các phương tiện thông tin đại
chúng và bồi thường tổn thất tinh thần 10.000.000 đồng do bức ảnh bị cắt xén gây
ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của ông. Yêu cầu thanh toán tiền nhuận bút
1.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, ông Cần – tác giả của cuốn sách “Việt Nam cuộc chiến 18581975” trình bày: Bức ảnh người phi công Mỹ bị bắt mà ông sử dụng trong sách
của mình được lấy từ cuốn sách “Chỉ có một Việt Nam” của tác giả người
Hungary Gyorgymatto xuất bản năm 1972 chứ không phải từ nguyên gốc bức ảnh
của ông Bảo. Trong cuốn sách này, tác giả Hungary không ghi tên ông Bảo là tác
giả đồng thời cũng đã cắt xén bức ảnh trên.
Xem xét các chứng cứ, Tòa án nhận thấy bức ảnh sử dụng trong sách của
ông Cần và tác giả Hungary là giống nhau, bên cạnh đó đều không ghi tên tác giả
là ông Bảo. "

Trên cơ sở phân tích vụ việc trên, hãy làm rõ:
1. Điều kiện để bảo hộ quyền tác giả trong tình huống trên là gì?


2. Các hành vi xâm phạm quyền tác giả?
3. Bình luận hoặc đưa ra hướng giải quyết của nhóm đối với tình huống trên? Nêu
rõ các căn cứ pháp lý đối với cách giải quyết của nhóm?

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong đời sống hàng ngày có vô vàn tác phẩm được tạo ra, đi ngược lại với


sự sáng tạo đó luôn là các hành vi đã, đang và sẽ sẵn sàng vi phạm việc sáng tạo ra
quyền tác giả. Hành vi này dù đôi khi vô tình hay cố ý nhưng tất cả các hành vi đều
gây thiệt hại và ảnh hưởng đến hoạt động sáng tạo của tác giả. Tìm hiểu những vụ
việc tranh chấp liên quan sẽ cho chúng ta cái nhìn cụ thể, rõ ràng hơn về vấn đề
bảo hộ quyền tác giả.
Như tình huống trên đã nói lên việc vi phạm về quyền tác giả và loại hình cụ
thể ở đây là “tác phẩm nhiếp ảnh” một trong các loại hình tác phẩm được bảo hộ về
quyền tác giả theo quy định tại Điều 14 luật SHTT năm 2005 sửa đổi bổ sung
2009. Để làm rõ vấn đề vi phạm ở tình huống trên chúng ta cùng đi tìm hiểu những
vấn đề xung quanh quyền tác giả, bảo hộ quyền tác giả trong luật SHTT.


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I.

Khái quát về quyền tác giả.
1. Một số khái niệm liên quan:
1.1Tác phẩm.

Tại khoản 7 điều 4 Luật SHTT có quy định: “Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo
trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kì phương tiện
hay hình thức nghệ thuật nào”. Một đối tượng được coi là tác phẩm khi đáp ứng đủ
tính sáng tạo và được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định.
Điều 14 Luật SHTT và nghị định của Chính phủ số 100/2006/NĐ-CP, ngày
21/9/2006, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số quy định của Bô luật
dân sư, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, trong đó có xác
định về việc phân loại tác phẩm theo các tiêu chí sau:
Dựa theo lĩnh vực sáng tạo (tác phẩm văn học, tác phẩm nghệ thuật, khoa học.).
Dựa vào nguồn gốc hình thành có thể phân chia thành: tác phẩm gốc (nguyên sinh

và tác phẩm phái sinh ( Tác phẩm dịch thuật, tác phẩm phóng tác, tác phẩm cải
biên, tác phẩm chuyển thể.), ngoài ra còn có tác phẩm tuyển tập và hợp tuyển. Các
loại hình tác phẩm được bảo hộ quy định tại điều 14 Luật SHTT hiện hành. “Điều
14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được
thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;


b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
c) Tác phẩm báo chí;
d) Tác phẩm âm nhạc;
đ) Tác phẩm sân khấu;
e) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây
gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
h) Tác phẩm nhiếp ảnh;
i) Tác phẩm kiến trúc;
k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, công trình khoa học;
l) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
m) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
2. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu
không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác
phẩm phái sinh.
3. Tác phẩm được bảo hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải do tác giả
trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm
của người khác.
4. Chính phủ hướng dẫn cụ thể về các loại hình tác phẩm quy định
tại khoản 1 Điều này.”.
1.2. Tác giả.



Trong bất kì lĩnh vực nào, văn học, khoa học hay nghệ thuật, hàng ngày hàng giờ
đều nảy sinh những sáng tạo. Người định hình, tạo ra những sáng tạo ấy, chúng ta
gọi là tác giả. Nói cách khác tác giả là một trong những chủ sở hữu quyền tác giả
theo quy định của pháp luật.
Về phân loại, có thể dựa vào những tiêu chí khác nhau để phân loại tác giả. Dựa và
số lượng tác giả có thể chia thành tác giả đơn nhất, đồng tác giả và tập thể tác giả.
Thông thường, đồng tác giả thể hiện sự thống nhất ý chí của các tác giả đối với các
tác phẩm. Ngược lại, tập thể tác giả không có sự thống nhất ý chí chí này, mỗi tác
giả làm nên một phần riêng biệt đóng góp thành tác phẩm. Dựa và nguồn gốc tác
phẩm có thể chia thành tác giả của tác phẩm gốc và tác giả của tác phẩm phái sinh.
I.3.

Quyền tác giả.

Theo khoản 2 điều 4 Luật SHTT (sửa đổi bổ sung năm 2009): “Quyền tác giả là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”.
Như vậy, quyền tác giả phát sinh từ sự sáng tạo hoặc tính sở hữu của một chủ thể
nào đó đối với một tác phẩm bất kì. Quyền SHTT không những được bảo hộ tại
nước có người sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ đó mà còn được bảo hộ ở các nước
thành viên của các điều ước quốc tế về SHTT, các thành quả của lao động trí tuệ
đều có tác dụng nâng cao trình độ hiểu biết về quyền tác giả còn có nhưng đặc
điểm riêng biệt sau: Thứ nhất, quyền tác giả là quyền được bảo hộ không phụ
thuộc vào nội dung và giá trị nghệ thuật.Thứ hai, quyền tác giả thể hiện hình thức
bảo hộ tác phẩm.Thứ ba, hình thức xác lập quyền tác giả theo cơ chế bảo hộ tự
động. Thứ tư, quyền tác giả không được bảo hộ một cách tuyệt đối.
I.3.1. Nội dung quyền tác giả
Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân thân bao
gồm các quyền đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm,



được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố sử dung; bảo vệ sự
toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác
phẩm dưới bất kì phương thức nào gây phương hại uy tín, danh dự đối với tác giả,
quyền công bố hoặc cho người khác công bô tác phẩm.
Quyền tài sản bao gồm các quyền như làm tác phẩm phái sinh, biểu diễn tác
phẩm trước công chúng, sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc
bản sao tác phẩm; truyền đạt tới công chúng; cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác
phẩm, chương trình máy tính, quyền được hưởng nhuận bút, quyền hưởng thù lao
khi tác phẩm được sử dụng; Quyền hưởng lợi ích vật chất từ việc cho người khác
sư dụng tác phẩm dưới các hình thức: Xuất bản , tái bản, trưng bày, triển lãm, biểu
diễn, phát thanh, truyền hình, ghi âm , ghi hình, chụp ảnh, dịch, phóng tác, cải
biên, chuyển thể, thuê; Quyền nhận giải thưởng đối với tác phẩm mà mình là tác
giả, trừ trường hợp tác phẩm không được nhà nước bảo hộ. Tác giả hoặc chủ sở
hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện quyền
tài sản…
I.3.2. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả:
Pháp luật Việt Nam luôn thừa nhận và bảo vệ các quyền của các chủ thể đối với
sản phẩm trí tuệ do họ sáng tao ra, các sản phẩm trí tuệ khi được sử dụng ngoài
việc mang lại những lợi ích nhất định cho người sáng tạo ra nó, còn nhằm thỏa
mãn các như cầu chung cua xã hội và nhân loại. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
được quy định tại điều 27 Luật SHTT và được hướng dẫn ở Điều 26 Nghị định số
100/2006/NĐ-CP theo đó, ta có quyền tác giả có những thời hạn bảo hộ như
sauCác quyền được pháp luật bảo hộ vô thời hạn là các quyền nhân thân gắn liền
với tác giả, không thể chuyển dịch bao gồm: Quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền
đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác


phẩm được công bố, sử dung; Quyền được bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không

cho người khác sửa chữa cắt xén, hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bât kì hình thức
nào, gây phương hại đến danh dự, uy tín của tác giả. Đối với quyền nhân thân (loại
trừ quyền công bố và cho phép người khác công bố tác phẩm), thời hạn bảo hộ là
vĩnh viễn.
Các quyền đối với tác phẩm được pháp luật bảo hộ có thời han bao gồm: Quyền
nhân thân có thể chuyển dịch ( quyền công bố hoặc cho ngườ khác công bố tác
phẩm.) và các quyền tài sản. Đối với quyền tài sản và quyền công bố, cho phép
người khác công bố tác phẩm, thời hạn bảo hộ như sau: tác phẩm điện ảnh, nhiếp
ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm
năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh,
nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm
năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ
khi tác phẩm được định hình; Đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về
tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp
theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ
chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;Thời hạn
bảo hộ chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời
hạn bảo hộ quyền tác giả.
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, các nhân đối với tác phẩm do mình sáng
tạo ra hoặc sở hữu.Quyền tác giả được ghi nhận cho các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học như sách, bài giảng, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm sân khấu, tác
phẩm điện ảnh, tác phẩm tạo hình và mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, tác
phẩm kiến trúc, phần mềm máy tính.Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm
được bảo hộ quyền tác giả.


Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực
tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại các điều từ Điều
37 đến Điều 42 của Luật Sở hữu trí tuệ.
Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả quy định gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam;

tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam
mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt
Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu
tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt
Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên.
I.4.

Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả.

“Điều 15 luật SHTT quy định các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ
quyền tác giả: Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin; Văn bản quy phạm pháp luật, văn
bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của
văn bản đó; Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số
liệu.
Các hành vi sau đây bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả Điều 28 luật
SHTT quy đinh;
“1. Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
2. Mạo danh tác giả.
3. Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả.
4. Công bố phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác
giả đó.


5.Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây
phương hại đến danh dự, uy tín của tác giả.
6. Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền (trừ
trường hợp có quy định điểm a,đ khoản 1 điều 25 Luật SHTT).
7. Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh trừ trường hợp có quy

định tại điểm i khoản 1 điều 25 của luật này.
8. Sử dụng tác phẩm mà không dược phép của chủ thể quyền, không trả nhuận bút,
thù lao, quyền lợi ích vật chất khác theo quy định của pháp luât (trừ trường hợp
quy định tại khoản 1 điều 25 luật này).
9. Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất
khác cho tác giả, hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.
10. Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến
công chúng qua mạng truyền thông hoặc các phương tiện kỹ thuật số mà không
được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
11. Xuất bản tác phẩm không được phép của chủ sở hữu quyên tác giả.
12. Cố ý huỷ bỏ, làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả
thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
13. Cố ý xoá bỏ, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong
tác phẩm.
14. Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu hoặc cho thuê thiết
bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu biện pháp kỹ thuật để bảo
vệ quyền của tác giả đối với tác phẩm của mình.


15. Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo.
16. Xuất khẩu, nhập khẩu bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu
quyền tác giả.


II. Phân tích tình huống.
Trong tình huống trên ông Bảo cho rằng NXB Văn hóa dân tộc và ông Cầntác giả quyển sách “ Việt Nam cuộc chiến 1858-1975” đã xâm phạm đến quyền tác
giả của mình. Cụ thể là bức ảnh “Từ thần sấm lộn cổ xuống xe trâu”, do đó ông
Bảo đã khởi kiện Nxb Văn hóa dân tộc tại Tòa án cùng với yêu cầu đăng cải chính
xin lỗi trên các phương tiên truyền thông đại chúng và bồi thường tổn thất tinh thần
10 triệu đồng do bức ảnh bị cắt xén gây ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của ông,

đồng thời yêu cầu thanh toán tiền nhuận bút là 1 triệu đồng.
Tại khoản 1 điều 739 BLDS 2005 “ Quyền tác giả phát sinh kể từ ngày tác
phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định”.
Trong vụ việc trên chủ thể có quyền tác giả đối với bức ảnh chụp người phi công
Mỹ là ông Bảo- người chụp bức ảnh: “Từ thần sấm lộn xuống xe trâu”. Căn cứ
theo điểm a,khoarn1 Điều 8 Nghị Định 100/2006/ND-CP và khoản 2 điều 14 luật
SHTT thì hành vi của ông Cần có xâm phạm tới quyền sở hữu trí tuệ đối với bức
ảnh trên vì sử dụng tác phẩm mà không xin phép chủ sở hữu là ông Bảo,không trả
tiền nhuận bút thù lao và các quyền lợi ích vật chất khác theo quy định của pháp
luật đồng thời trước khi xuất bản quyển sách thành tác phẩm hoàn chỉnh cả ông
Cần và Nxb Văn hóa dân tộc đã không ghi tên ông Bảo là tác giả và cũng đã cắt
xén bức ảnh trên.
Cũng theo tình huống thì tác giả cuốn sách “Chỉ có một Việt Nam” của tác giả
người Hungary Gyorgymatto cũng đã vi phạm quyền tác gỉa đối với bức ảnh vì đã
sử dụng bức ảnh mà không xin phép cũng như ghi rõ nguồn gốc và tác giả.
III. Giải quyết tình huống.
1.Đối với ông Bảo – chủ sở hữu bức ảnh:
Trong trường hợp nay do tác phẩm nhiếp ảnh của ông bị sử dụng một cách trái
pháp luật nên ông có thể yêu cầu pháp luật can thiệp để giải quyết cụ thể tại điều
202 Luật SHTT, áp dụng các biện pháp dân sự:


“Điều 202, các biện pháp dân sự:
Tòa án áp dụng biện pháp dân sự sau đây để xử lý tổ chức cá nhân có hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ: 1. Buộc chấm dựt hành vi xâm phạm; 2. Buộc xin lỗi
cải chính công khai; 3. Buộc thực hiển nghĩa vụ dân sự; 4. Bồi thường thiệt hại; 5.
Buộc tiêu hủy, hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sư dụng không nhằm mục đích
thương mại đối với hang hóa nguyên liệu vât liệu và phương tiện sử dụng chủ yêu
để sản xuất kinh doanh hang hóa xâm phạm quyều sở hữu trí tuệ với điều kiện
không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sơ hữu trí

tuệ”. Như vậy việc ông Bảo yêu cầu ông Cần bồi thường thiệt hại về tinh thần và
yêu cầu Nxb Văn hóa dân tộc trả tiền nhuận bút là hoàn toàn có cơ sở. Theo điều 7
sửa đôi bổ sung một số điều của luật sở hữu trí tuệ “ 1. Tổ chức phát sóng sử dụng
tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ quảng cáo hoạc thi tiền dưới bât kì
hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút thù lao cho chủ
sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút thù lao quyền lợi vật chất
khác và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận; trường hợp không thỏa
thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ, hoặc khởi kiện tại tòa án
theo quy định của pháp luật”.
2.Đối với ông Cần và Nxb Văn hóa dân tộc, tác giả người Hungary:
Căn cứ điều 27 luật SHTT quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả thì “…
tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời
hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm công bố lần đâu tiên; Đối với
tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời
hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là
một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh,
khi các thong tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định
tại điểm b của khoản này; …”.Đồng nghĩa với việc tại thời điểm kiện ra tòa án thì
bức ảnh của ông Bảo vẫn còn thời gian bảo hộ quyền tác giả theo điều 27 luật


SHTT nên ông Cần và NXB Văn hóa dân tộc, tác giả ngời Hungary phải có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại và trả tiền nhuận bút cho ông Bảo theo đúng quy định
của pháp luật nếu không có thỏa thuận khác. Ngoài ra ông Bảo cũng có thể thực
hiện quyền tự bảo vệ sảm phẩm SHTT của mình theo quy định tại tại điều 198 luật
SHTT.
IV.Bình luận.
Từ tình huống trên đã cho thấy tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền tác
giả, vì thế việc bảo hộ quyền tác giả là hết sức cần thiết để bảo vệ tác giả cũng như
khuyến khích các hoạt động sang tạo trí tuệ:

- Bảo hộ quyền lien quan đến quyền tác giả có ý nghĩa quan trọng đối với
quốc gia, bởi vì cùng với việc bảo đảm thực thi bảo hộ quyền SHTT tạo
động lực thức đẩy kinh tế và góp phần thu hút đầu tư nước ngoài, từ đó dễ
dàng xây dựng và phát triển kinh tế quốc gia.
- Bảo hộ quyền tác giả có y nghĩa quan trọng về mặt quản lý nhà nước, nhằm
tạo ra một môi trường tốt nhất tạo điều kiện khuyến khích hoạt sang tạo, để
tạo ra sản phẩm sang tạo
- Việt Nam hiện đang là thành viên của tổ chức thương mai thế giới (WTO),
và một số công ước, hiệp ước song phương và đa phương. Với tư cách đó
Việt Nam phải xây dưng một bộ khung phát lý phù hợp bảo đảm, thực thi
quyền sơ hữu trí tuệ.
KẾT LUẬN
Hoạt động sáng tạo là một hoạt rất đáng để khuyến khích, vì tầm quan trọng
của việc sáng tạo, sáng chế trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Tuy
nhiên khi sang tạo cũng phải cần chú ý đến việc phù hợp cũng như tính hợp pháp.
Đối với các tác phẩm phái sinh, điều đặc biệt cần phải lưu ý đối với tác giả là việc
sử dung tác phẩm gốc để tạo ra tác phẩm pháp sinh đó cần phải phù hợp theo quy
định của pháp luật về SHTT. Góp phần tránh, cũng như hạn chế đến mức thấp nhất


việc tranh chấp liên quan đến quyền tác giả. Đảm bảo cho việc sáng tạo,cũng như
tâm lý an toàn, thoải mái của các tác giả trong các lĩnh vực sáng tạo khác nhau. Ở
Việt Nam,tuy là một quốc gia thuộc nhóm đang phát triển nhưng việc bảo về
quyền lợi của các tác giả, đảm bảm cho các tác phẩm là sản phẩm trí tuệ của người
sở hữu nó. Chính vì vây một khung pháp lý về lĩnh vực sỡ hữu trí tuệ ra đời đó là
việc luật SHTT năm 2005 và sửa đổi bổ sung năm 2009, đánh dấu bước phát triển,
cũng như nhà nước thấy được tầm quan trọng của việc đảm bảo về mặt pháp lý cho
một loại tài sản. Nhà nước ta đã hòa nhập cùng sân chơi với thế giới trong việc
bảo vệ quyền tàn sản trong thời đại mới, kiến thiết cho những tác giả sáng tạo ra
những sản phẩm, tác phẩm có ích giúp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.



Tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam,Nxb Công an Nhân dân.
2. Bộ luật Dân sự 2005, Nxb chính trị quốc gia sự thật.
3. Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009. Nxb lao động.
4. Luật sở hữ trí tuệ 2013.
5. Nghị định của Chính phủ số 100/2006/NĐ-CP, ngày 21/9/2006, quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số quy định của Bô luật dân sư, Luật
sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan.



×