Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Vai trò của viện kiểm sát đối với việc bảo vệ quyền của bị can trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, từ thực tiễn viện kiểm sát nhận dân huyện tứ kỳ, tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.7 KB, 105 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH THANH

VAI TRò CủA VIệN KIểM SáT ĐốI VớI VIệC BảO Vệ QUYềN
CủA Bị CAN TRONG KIểM SáT ĐIềU TRA Vụ áN HìNH Sự,
Từ THựC TIễN VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN HUYệN Tứ Kỳ,
TỉNH HảI DƯƠNG

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2020


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH THANH

VAI TRò CủA VIệN KIểM SáT ĐốI VớI VIệC BảO Vệ QUYềN
CủA Bị CAN TRONG KIểM SáT ĐIềU TRA Vụ áN HìNH Sự,
Từ THựC TIễN VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN HUYệN Tứ Kỳ,
TỉNH HảI DƯƠNG
Chuyờn ngnh: Lut Hin phỏp v Lut Hnh chớnh
Mó s: 8380101.02

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: GS.TS NGUYN NG DUNG


H NI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Nguyễn Thị Thanh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: BẢO VỆ QUYỀN CỦA BỊ CAN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................ 8
1.1.


Pháp luật tố tụng Việt Nam quy định quyền kiểm sát điều tra
hình sự của Viện kiểm sát................................................................... 8

1.1.1. Những vấn đề chung về quyền của bị can trong giai đoạn điều tra ........... 8
1.1.2. Những vấn đề chung về bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn
điều tra ................................................................................................. 16
1.2.

Vai trò của Viện kiểm sát trong việc bảo vệ quyền của bị can
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ............................................ 22

1.2.1. Các quyền của bị can trong giai đoạn điều tra .................................... 22
1.2.2. Các chủ thể bảo vệ quyền bị can trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự ................................................................................................. 26
1.2.3. Các quy định về vai trò của VKS trong việc bảo vệ quyền của bị
can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .......................................... 29
Chương 2: THỰC TIỄN VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG
VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ....................... 40
2.1.

Huyện Tứ Kỳ và cơ cấu của Viện kiểm sát Tứ Kỳ ........................ 40

2.2.

Hoạt động bảo vệ quyền của bị can trong gia đoạn điều tra vụ
án hình sự ........................................................................................... 41


2.2.1. Thực trạng bảo vệ quyền con người của bị can, trong giai đoạn

kiểm sát điều tra các vụ án hình sự từ năm 2015 - 2019 .................... 41
2.2.2. Thực trạng áp dụng các quy định của BLTTHS về bảo vệ quyền của
bị can, bị cáo trong một số trường hợp cụ thể ....................................... 43
2.2.3. Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng quyền con người chưa
được bảo vệ tốt nhất trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ............... 53
2.3.

Những giải pháp, kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả bảo vệ
quyền bị can trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự ...................... 66

2.3.1. Những yêu cầu về cải cách tư pháp và quan điểm đảm bảo quyền
của bị can trong giai đoạn điều tra tại huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải
Dương hiện nay ................................................................................... 66
2.3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng đảm bảo quyền của bị can
trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự .................................................. 74
2.3.3. Những đề xuất, kiến nghị khác ........................................................... 81
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CAND:

Công an nhân dân


CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CQĐT:

Cơ quan điều tra

CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
ĐTV:

Điều tra viên

HĐND:

Hội đồng nhân dân

KSV:

Kiểm sát viên

LS:

Luật sư

NBC:

Người bào chữa

NTGTT:

Người tham gia tố tụng


NTHTT:

Người tiến hành tố tụng

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
THTT:

Tiến hành tố tụng

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân nhân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Tình hình bắt tạm giữ

50

Bảng 2.2

Bị can bị khởi tố và bắt tạm giam

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục
đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chăm
lo đến con người, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người phát triển toàn
diện trong thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, trong các hoạt động Nhà
nước là những quan điểm cơ bản được thể hiện trong các văn bản của Đảng
và Nhà nước ta, nhất là trong những năm gần đây. Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2030” khẳng định:
Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng
cao, các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công
cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế Xã hội chủ nghĩa, đánh
dấu có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm [4].
Văn kiện Đại hội X của Đảng cũng đặt ra nhiệm vụ: “Xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền
con người”. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng
mới đây cũng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ:
Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa,
trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo
vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người [21].
Hoạt động Tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước liên
quan rất chặt chẽ với quyền con người. Hoạt động Tố tụng hình sự là nơi các
biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp dụng phổ biến nhất. Vì vậy là nơi

1


quyền con người của các chủ thể tố tụng, đặc biệt là bị can, bị cáo, bị hại và
người làm chứng có nguy cơ dễ bị xâm hại nhất. Thực tiễn điều tra, truy tố,
xét xử trong những năm qua cho thấy cũng còn nhiều trường hợp vi phạm
quyền con người trong quá trình tiến hành tố tụng. Những vi phạm đó xảy ra
là do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế,
nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng, các quy định về chế độ trách
nhiệm của Nhà nước, người tiến hành tố tụng đối với công dân. Vì vậy, có thể
nói việc bảo vệ quyền con người của các chủ thể tố tụng nói chung, đặc biệt
của các chủ thể bị can, bị cáo, bị hại và người làm chứng trong Tố tụng hình

sự từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò rất quan trọng
trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ
nghĩa nói chung, trong công cuộc cải cách tư pháp nói riêng ở nước ta.
Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong những năm qua cho
thấy cũng còn nhiều trường hợp vi phạm quyền con người trong quá trình tiến
hành tố tụng. Những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có
bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành
tố tụng, các quy định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, người tiến hành tố
tụng đối với công dân. Vì vậy, có thể nói việc bảo vệ quyền con người của
các chủ thể tố tụng, đặc biệt các chủ thể là bị can, bị cáo, bị hại và người làm
chứng ... trong Tố tụng hình sự từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp
luật có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa nói chung, trong công cuộc cải cách tư
pháp nói riêng ở nước ta.
Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định
của tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn hạn chế tự do hay một số biện
pháp liên quan, ảnh hưởng đến quyền con người. Nếu giai đoạn điều tra thực
hiện đúng pháp luật, sẽ bảo vệ được quyền con người, còn nếu giai đoạn này

2


có bất kỳ sai lầm nào thì nhiều hay ít sẽ dẫn tới hệ quả tiêu cực xâm phạm đến
quyền con người.
Thực tiễn những năm qua ở Việt Nam cho thấy, trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự cơ bản đã bảo vệ quyền con người; tuy vậy, còn xảy ra hành vi
xâm phạm đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Những vi phạm
đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của pháp luật,
cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng, các quy định về chế độ
trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, người tiến hành tố tụng đối với công

dân... Thực tiễn này đòi hỏi phải được nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm,
đề xuất các giải pháp góp phần bảo vệ tốt hơn quyền con người trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian vừa qua, có rất nhiều các công trình nghiên cứu về
quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Tố tụng hình sự gồm có
như: Sách “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự và Tố tụng hình sự ở
Việt Nam”, Trần Quang Tiệp, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004; Sách “Bảo vệ
quyền bào chữa của người bị buộc tội”, Phạm Hồng Hải, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2004; Sách “Bảo vệ An ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các
quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền”, Lê Cảm, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007; Sách “Quyền con người
trong quản lý tư pháp”, Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người
và hội luật sư quốc tế, Nxb Công an nhân dân, 2009. Cùng với đó là các luận
án như: Luận án Tiến sỹ luật học: "Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị
cáo trong Tố tụng hình sự", Hoàng Thị Sơn, trường Đại học Luật Hà Nội,
2003; Luận án tiến sĩ luật học “Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư
pháp ở Việt Nam”, Nguyễn Huy Hoàng, 2005; Luận án tiến sĩ luật học "Bảo vệ
quyền con người trong Tố tụng hình sự Việt Nam", Nguyễn Quang Hiền, Viện

3


Nhà nước và pháp luật – Viện khoa học xã hội Việt Nam, 2008; Luận án tiến
sĩ luật học "Thực hiện pháp luật về quyền con người của phạm nhân trong thi
hành án phạt tù ở Việt Nam", Nguyễn Đức Phúc, Học viện chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2012; Luận án tiến sĩ luật học "Người
bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong Tố tụng hình sự Việt Nam", Lê Nguyên
Thanh, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2012; Luận án tiến sĩ
luật học "Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong

Tố tụng hình sự Việt Nam", Lại Văn Trình, 2011; Luận án tiến sĩ luật học
"Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong Tố tụng hình sự ở Việt Nam",
Lê Minh Thắng, Học viên chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2012; Luận án tiến
sĩ luật học "Bảo vệ quyền có người bào chữa của người bị buộc tội - so sánh
giữa luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ", Lương Thị Mỹ Quỳnh,
2011; Luận án tiến sĩ luật học "Bảo vệ quyền bình đẳng của công dân trong
xét xử hình sự ở Việt Nam hiện nay", Hoàng Hùng Hải, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2012; Luận án tiến sĩ luật học "Bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật Tố tụng hình
sự Việt Nam", Trần Hưng Bình, Viện Khoa học xã hội, 2013.
Nhóm thứ ba - các công trình nghiên cứu là các đề tài nghiên cứu khoa
học, luận văn, luận án liên quan đến bảo vệ quyền con người trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự như: Đề tài khoa học cấp đại học Quốc gia “Bảo vệ
quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do GS,TSKH. Lê Cảm,
TS. Nguyễn Ngọc Chí, Ths. Trịnh Quốc Toản (đồng chủ trì), Hà Nội, 2004;
Đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội: “Quyền con người trong lĩnh
vực tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật” do
GS.TSKH. Lê Văn Cảm (chủ trì), Hà Nội, 2013; Luận án tiến sĩ luật học
“Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của tác

4


giả Hoàng Thị Sơn, bảo vệ tại đại học Luật Hà Nội, 2003; Luận án tiến sĩ luật
học “Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lại Văn Trình, bảo vệ tại đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh, 2011.
Mặc dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực
quyền của bị can trong giai đoạn điều tra, nhưng nhìn chung, những công

trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận chung
về quyền con người, từng lĩnh vực hoạt động cụ thể về quyền con người, về
tổ chức và hoạt động của các bộ máy Nhà nước, về việc xây dựng pháp luật
về bảo vệ quyền con người nói chung. Trong đó, chỉ có một vài khía cạnh
đề cập cụ thể về quyền con người trong hoạt động tư pháp. Những nghiên
cứu về quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở
nước ta hiện nay chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và trực tiếp về
cả lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở nước ta.
Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp góp phần bảo vệ quyền của bị can trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền của bị can, người bị tạm giữ,
tạm giam và bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự;
- Phân tích các quy định của ngành luật tố tụng hình sự liên quan đến
quyền của bị can, người bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự; tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của bất cập trong thực tiễn thi
hành tại Công an tỉnh Hải Dương.
5


- Tham khảo kinh nghiệm của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền của bị
can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự;
- Dự báo tình hình, đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nhằm nâng
cao việc bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận quyền của bị can và bảo vệ quyền
của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở nước ta.
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn
áp dụng để đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc
bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn như sau:
- Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung về
quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự hiện hành và thực tiễn bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự ở nước ta;
- Phạm vi không gian: Luận văn khảo sát, đánh giá thực tiễn bảo vệ
quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại cơ quan công an
tỉnh Hải Dương
- Phạm vi thời gian: tình hình và số liệu thống kê liên quan đến quyền
của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở tỉnh Hải Dương từ năm
2015 năm 2019.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về Nhà nước và pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về

6


bảo vệ quyền con người. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử
dụng những phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành luật hình sự, tố tụng
hình sự và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, so
sánh, đối chiếu, thống kê, khảo sát, thực tiễn...

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Là công trình nghiên cứu tương đối có hệ thống về quyền của bị can
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở nước ta hiện nay; do đó kết quả rút ra
qua nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn; cụ thể là:
Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về quyền của bị can
trong trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
nói riêng. Đồng thời luận văn cùng góp phần nâng cao kiến thức và hiểu biết về
quyền của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và các công cụ pháp lý
để bảo vệ quyền của họ; góp phần thay đổi thái độ, hành vi trong việc đối xử
với bị can, đặc biệt là của một bộ phận cán bộ công chức thực thi pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 02 chương:
Chương 1: Bảo vệ quyền của bị can của Viện Kiểm sát trong kiểm sát
điều tra vụ án hình sự.
Chương 2: Thực tiễn bảo vệ quyền của bị can trong kiểm sát điều tra vụ
án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ.

7


Chương 1
BẢO VỆ QUYỀN CỦA BỊ CAN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Pháp luật tố tụng Việt Nam quy định quyền kiểm sát điều tra
hình sự của Viện kiểm sát
1.1.1. Những vấn đề chung về quyền của bị can trong giai đoạn điều tra
1.1.1.1. Khái niệm, các thuộc tính của quyền con người
Quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cáo nhân sinh
ra đều được hưởng chỉ đơn giản họ là con người. Do đó, các quyền con người

không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của
bất cứ cá nhân, giai cấp tầng lớp, tổ chức cộng đồng hay nhà nước nào. Vì
vậy không một chủ thể nào, kể cả nhà nước có thể ban phát hay tước bỏ
quyền người bẩm sinh. Thừa nhận điều đó, Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân
quyền năm 1948 đã khẳng định: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình
đẳng về nhân phẩm và các quyền. Mọi người đều được tạo hóa ban cho lý trí
và lương tâm, và cần phải đối xử với nhau bằng tình anh em” [16, Điều 1].
Văn phòng Cao ủy của Liên hợp quốc về quyền con người (OHCHR) đã định
nghĩa quyền con người như sau: “Quyền con người là những đảm bảo pháp lý
toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành
động ho c sự b m c mà làm t n hại đến nhân phẩm, những sự được phép và
tự do cơobản của con người”. Như vậy, quyền con người chỉ hiện hữu trên
thực tế nếu nó được đảm bảo bằng pháp luật. Pháp luật đảm bảo quyền con
người cần thể hiện những thuộc tính cơ bản của quyền con người như:
- Tính phổ quát (universal): Tính phổ quát của quyền con người thể
hiện ở chỗ quyền con người là bẩm sinh, vốn có của con người được áp dụng
bình đẳng cho tất cả con người trên trái đất, không có sự phân biệt đối xử vì

8


bất cứ lý do gì, chẳng hạn về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi,
thành phần xuất thân. Điều đó cũng có ý nghĩa quyền con người cần được tôn
trọng, bảo vệ và thực thi ở các quốc gia, với các chế độ chính trị khác nhau,
dù đơn đảng hay đa đảng, dù nhất nguyên hay đa nguyên là như nhau. (Ví dụ:
Các quốc gia trên thế giới đều phải thực thi nghiêm túc quyền không bị tra
tấn). Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý là bản chất của sự bình đẳng về
quyền con người không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ quyền, mà là
bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người. Ở đây, mọi thành viên của
nhân loại để được công nhận có quyền con người, song mức độ hưởng thụ

quyền phụ thuộc vào năng lực của cá nhân từng người, cũng như hoàn cảnh
chính trị, kinh tế, văn hóa... mà người đó đang sinh sống.
- Tính không thể bị tước bỏ (inalienable): Tính không thể tước bỏ của
nhân quyền thể hiện ở chỗ các quyền con người không thể tùy tiện bị tước bỏ
hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và
quan chức nhà nước. Khía cạnh “tùy tiện” nói đến giới hạn của vấn đề. Trong
một số trường hợp nhất định được pháp luật quy định trước, chỉ có những chủ
thể đặc biệt mới có thể hạn chế quyền con người, chẳng hạn như khi một
người phạm tội ác thì có thể bị tước tự do theo pháp luật (bị tạm giữ, tạm
giam, bị giam thi hành án). Ở trường hợp khác không quy định trước như
trong trường hợp khẩn cấp xảy ra đe dọa sự sống còn của quốc gia và đã
chính thức công bố, nhà nước có thể áp dụng những biện pháp hạn chế các
quyền con người như ban bố tình trạng khẩn cấp, thiết quân luật (hạn chế
quyền tự do đi lại, quyền biểu tình). Tuy nhiên các biện pháp này phải mang
tính chất ngoại lệ và tạm thời.
- Tính không thể phân chia (indivisible): Trong suốt thời kỳ chiến tranh
lạnh, các quyền dân sự - chính trị luôn được các nước phương Tây đề cao và
coi trọng trong khi khối các nước xã hội chủ nghĩa, các quyền Kinh tế - văn

9


hóa - xã hội lại được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Tính không thể phân chia của
quyền con người thể hiện ở chỗ các quyền con người có tầm quan trọng như
nhau nên về nguyên tắc không có quyền nào có giá trị cao hơn quyền nào.
Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào để tác động tiêu cực
đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Tuy nhiên, tính chất
không thể phân chia không hàm ý rằng mọi quyền con người đều cần phải
được chú ý quan tâm với mức độ giống nhau trong mọi hoàn cảnh. Trong
từng bối cảnh cụ thể, cần ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định dựa trên

yêu cầu thực tế của việc bảo vệ các quyền đó. Ví dụ, trong hoàn cảnh thiên tai
lũ lụt, quyền được ưu tiên là quyền cung cấp lương thực, thực phẩm.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền: Tính liên hệ và
phụ thuộc lẫn nhau của các quyền thể hiện ở chỗ việc bảo vệ các quyền con
người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động
lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng
tiêu cực đến việc bảo vệ các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo
vệ một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo vệ
các quyền khác.
Theo lĩnh vực của đời sống thì quyền con người được phân thành hai
nhóm chính:
- Nh m các quyền dân sự, chính trị: Bao gồm các quyền và tự do cá
nhân, tiêu biểu như quyền sống, quyền tự do đi lại, quyền hội họp, quyền tự
do tôn giáo, quyền được xét xử công bằng.
- Nh m các quyền về kinh tế, xã hội và văn h a: Nhóm các quyền
này hướng vào việc tạo lập các điều kiện và sự đối xử bình đẳng, công bằng
cho mọi công dân trong xã hội. Các quyền này bao gồm: quyền được hưởng
an sinh xã hội, quyền được giáo dục, quyền lao động, quyền học tập, các
quyền về văn hoá, sáng tạo và hưởng thụ các thành tựu của khoa học kỹ thuật

10


… Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, để bảo đảm quyền con
người, nhà nước có ba nghĩa vụ cụ thể đó là: Nghĩa vụ tôn trọng (obligation to
respect): Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải kiềm chế không can thiệp
không được tùy tiện tước bỏ, hạn chế hay can thiệp, kể cả trực tiếp hay gián
tiếp, vào việc thụ hưởng các quyền con người. Đây được gọi là nghĩa vụ thụ
động bởi lẽ nó không đòi hỏi nhà nước phải chủ động đưa ra các biện pháp
hay sự hỗ trợ để các công dân có thể hưởng thụ quyền.

Nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect): Nghĩa vụ này đòi hỏi cáconhà
nước phải ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của các bên thứ ba. Đây
được coi là một nghĩa vụ chủ động bởi để ngăn chặn sự vi phạm nhân quyền
của bên thứ ba, nhà nước phải chủ động đưa ra những biện pháp và xây dựng
những cơ chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm như xây dựng
phápoluật, tổ chức các cơ quan hành pháp, tư pháp. o
Nghĩa vụ thực hiện (obligationoto fulfil): Nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà
nước phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ công dân trong việc thực hiện các
quyền con người. Đây cũng là nghĩa vụ chủ động, yêu cầu nhà nước phải có
những kế hoạch, chương trình cụ thể để bảo vệ mọi công dân có thể hưởng
thụ đến mức cao nhất các quyền con người như xây dựng chương trình phổ
cập giáo dục, chương trình y tế, chương trình phát triển kinh tế. Nghĩa vụ này
liên quan mật thiết các quyền kinh tế xã hội, văn hóa. Nhưng cũng có liên
quan đến các quyền dân sự, chính trị như tổ chức các điểm bầu cử để thực
hiện quyền bầu cử, xây dựng các nhà tạm giữ, trại tạm giam để đảm bảo việc
không ngược đãi, tra tấn người bị tạm giữ, tạm giam, tù nhân.
Để thực hiện các nghĩa vụ về nhân quyền, pháp luật là một công cụ hữu
hiệu và chủ yếu của nhà nước. Là một phạm trù đa diện, xong quyền con
người có mối liên hệ gần gũi hơn cả với pháp luật. Điều này trước hết là bởi
cho dù quyền con người là bẩm sinh, vốn có song việc thực hiện các quyền

11


vẫn cần có nhà nước và pháp luật. Chỉ khi được ghi nhận bằng pháp luật, các
nghĩa vụ của nhà nước sẽ trở thành quy tắc xử sự chung và được bảo vệ bằng
cưỡng chế thi hành.
Với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người - cùng với quyền, tự do
và nghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó luôn là đối tượng phản
ánh của các hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa

các cá nhân con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân
với tập thể, cộng đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và
tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trò đặc
biệt không thể thay thế trong việc bảo vệ quyền con người.
Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có
tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Thông qua việc được pháp
luật ghi nhận, quyền con người sẽ được tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy. Quyền
con người được pháp luật xác lập sẽ không thể bị tước bỏ, hạn chế một cách
tuỳ tiện vì được bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng
chế của Nhà nước. Trên cơ sở của pháp luật, mọi hành vi vi phạm quyền con
người, đều phải được xử lý nghiêm minh. Đồng thời, việc ghi nhận quyền con
người trong pháp luật (đặc biệt trong Hiến pháp) cũng là cơ sở để xây dựng hệ
thống hành pháp, tư pháp xoay quanh hạt nhân bảo vệ quyền con người.
Bảo đảm quyền con người là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể
nhiều điều kiện khác nhau trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tầm quan
trọng hàng đầu. Để phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của pháp luật trong
việc bảo vệ quyền con người thì ngoài việc pháp điển hóa, đưa những nội
dung bảo vệ quyền con người vào hệ thống pháp luật thì yếu tố rất quan trọng
là phải có và phải có cơ chế bảo đảm cho các quy định đó được thực hiện
trong thực tế, tạo thành đảm bảo pháp lý cho thực hiện quyền con người. Nói
cách khác, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người chính là đảm bảo thực
hiện quyền con người bằng pháp luật.

12


Pháp luật TTHS có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống các
quy định pháp luật bảo vệ quyền con người, thực hiện mục tiêu bảo vệ quyền
con người thông qua việc “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát
hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm

tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”, hướng tới mục đích
“góp phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, đồng thời
giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm”. Những định hướng trên được quán triệt và thể hiện ở tất cả
các quy định của Bộ luật TTHS, tạo thành hệ thống các quy phạm làm cơ sở
cho việc bảo vệ quyền con người, điều chỉnh hoạt động của các CQTHTT,
NTHTT, trong tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án, tạo thành hệ
thống các quy phạm làm cơ sở cho việc bảo vệ quyền con người.
Quyền con người được quy định trong pháp luật TTHS bởi các lý do sau:
Thứ nhất: Pháp luật TTHS là công cụ hữu hiệu nhất của Nhà nước trong
việc thực hiện, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực TTHS;
Thứ hai: Pháp luật TTHS quy định, định hướng, điều chỉnh, chi phối
trách nhiệm, hoạt động của CQTHTT, NTHTT trong việc bảo vệ các quyền
con người, quyền công dân trong khi tiến hành tố tụng. Hoạt động, hành vi tố
tụng của các CQTHTT, NTHTT là những hoạt động dễ xâm phạm đến quyền
con người nhất bởi các chủ thể này đại diện cho Nhà nước, được Nhà nước trao
quyền, trao biện pháp và sức mạnh cưỡng chế. Do đặc thù của hoạt động này,
Nhà nước phải quy định cơ chế đảm bảo tính độc lập, tự chủ của CQTHTT,
NTHTT. Các chủ thể này cũng luôn phải duy trì, thể hiện tính độc lập, chủ
động khi tiến hành các hoạt động, hành vi tố tụng, trong đó có việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế hình sự, trực tiếp tác động, hạn chế, tước
đoạt một hoặc một số quyền con người. Nói cách khác, CQTHTT, NTHTT

13


độc lập, chủ động trong việc tiến hành các hoạt động, hành vi tố tụng tác động
trực tiếp đến quyền con người. Quyền độc lập, tự chủ rất dễ dẫn đến xu hướng
tuỳ tiện, lạm quyền, sai phạm mà hậu quả là bỏ lọt tội phạm, khởi tố, truy tố,

xét xử, tuyên án, áp dụng hình phạt đối với người không có tội, không phù
hợp tính chất, mức độ phạm tội, là quyền con người bị xâm hại hoặc không
được phục hồi. Chính vì vậy, để bảo vệ quyền con người, quyền công dân
trong TTHS, hạn chế sự tuỳ tiện, lạm quyền từ phía CQTHTT và NTHTT, Bộ
Luật TTHS quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể này. Trong
TTHS, các biện pháp bảo vệ pháp lý đối với quyền con người của các chủ thể
tham gia tố tụng bao gồm các nguyên tắc cơ bản của TTHS, các quy định về
thủ tục, trình tự tố tụng, trách nhiệm của CQTHTT, NTHTT. Thực chất là quy
định những căn cứ, điều kiện, hình thức, mục đích, nội dung thực hiện hành vi
tố tụng cụ thể, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể tham
gia tố tụng, bảo vệ tính hợp pháp của các biện pháp cưỡng chế, chống lại sự
tùy tiện, lạm quyền, ngăn ngừa oan sai.
Thứ ba: Pháp luật TTHS quy định rõ về tư cách, quyền, nghĩa vụ của
các chủ thể TTHS khi tham gia các quan hệ TTHS. Trong đó quy định người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa, có
quyền khiếu nại đối với các hành vi tố tụng của người có thẩm quyền tố
tụng, xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của mình, có quyền đưa ra những tài
liệu, đồ vật, yêu cầu … Các quy định này là cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo
vệ quyền con người, quyền công dân đồng thời là công cụ để công dân,
thông qua việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình, tự bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ tư: Quy định về bảo vệ quyền con người của pháp luật TTHS là
một hình thức, phương pháp cụ thể hoá, quốc gia hoá Công ước quốc tế về
quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực TTHS và cũng là một trong

14


những hình thức quan trọng nhất để thực hiện các cam kết giữa các quốc gia
về quyền con người. Bảo vệ quyền con người trong TTHS có những đặc thù

khác với những lĩnh vực hoạt động nhà nước khác. Những đặc thù này chính
là sự phản ánh các tính chất, đặc điểm riêng biệt của hoạt động TTHS - lĩnh
vực hoạt động nhà nước đặc biệt ở bất kỳ quốc gia nào. Để có thể phát hiện ra
tội phạm, ngăn chặn các hành vi phạm tội, tiến hành các hoạt động tố tụng thì
việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là yêu cầu khách quan, mang tính phổ biến
và hậu quả của nó là hạn chế, tác động tiêu cực mức độ nhất định các quyền
cơ bản do Hiến pháp quy định.
Cho đến nay, Nhà nước Việt Nam đã tham gia phần lớn và cam kết
thực hiện ở cả hai phương diện lập pháp và hành pháp các văn kiện, cam kết
quốc tế về quyền con người. Điều đó được thể hiện rất rõ nét trong việc xây
dựng, thực thi pháp luật TTHS của Nước CHXHCN Việt Nam. Bộ luật TTHS
hiện hành có các nguyên tắc: thừa nhận Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền
xét xử các vụ án hình sự; bảo vệ quyền cơ bản của công dân; bảo vệ quyền bất
khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; suy đoán vô tội;
bảo vệ quyền bào chữa, quyền kháng cáo, quyền minh oan…
Như vậy, bảo vệ quyền con người trong TTHS là việc các CQTHTT
thực hiện những biện pháp, hoạt động, trình tự, thủ tục theo quy định của
pháp luật TTHS nhằm bảo vệ quyền con người của các chủ thể tham gia quan
hệ TTHS mà chủ yếu và quan trọng nhất là người bị tạm giữ, tạm giam, bị
can, bị cáo.
Như vậy, có thể hiểu bảo đảm quyền con người chính là việc nhà nước,
ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người thông qua pháp luật.
1.1.1.2. Khái niệm bị can, quyền của bị can trong giai đoạn điều tra
Theo quy định của BLTTHS 2015 thì “Bị can là người ho c pháp nhân
bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực

15


hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của

Bộ luật này” [35, Điều 60]. Tư cách tố tụng bị can sẽ chấm dứt khi CQĐT đình
chỉ điều tra, VKS đình chỉ vụ án, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Khi khởi tố bị can, người bị khởi tố chính thức bị buộc tội, bởi vì theo
quy định tại BLTTHS 2015: “Khi có đủ căn cứ để xác định một người ho c
một pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm
thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can” [35, Điều 179, khoản 1].
Kể từ khi bị khởi tố, một người trở thành bị can và chính thức bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, bị buộc tội bởi nhà nước. Họ có thể bị áp dụng biện pháp
cưỡng chế tố tụng nghiêm khắc nhất là “tạm giam” (có thể kéo dài từ 02 đến
12 tháng) hoặc một số biện pháp ngăn chặn khác như: Cấm đi khỏi nơi cư trú,
Bảo lĩnh, Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo… Đây là điểm khác biệt
rất lớn giữa bị can và người bị tạm giữ.
Bị can phải tuân thủ những nghĩa vụ theo quy định của pháp luật để đáp
ứng yêu cầu giải quyết vụ án, bên cạnh đó họ được trao một số quyền nhất
định để bảo vệ mình trước sự truy cứu trách nhiệm hình sự của các cơ quan,
người THTT.
1.1.2. Những vấn đề chung về bảo vệ quyền của bị can trong giai
đoạn điều tra
1.1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra
Trong ngôn ngữ tiếng Việt, hai từ “bảo vệ” và “đảm bảo” là hai từ đồng
nghĩa. Theo từ điển Tiếng Việt, khái niệm “bảo vệ” được hiểu như sau: “Làm
cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần
thiết”. Tuy nhiên, bảo vệ lại không hoàn toàn đồng nghĩa với “bảo đảm”. Bảo
đảm là “chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn”.
Có thể nói khái niệm “bảo đảm” rộng hơn khái niệm “bảo vệ”, vì trong khái
niệm bảo đảm đã bao hàm bảo vệ và bảo vệ là một hình thức của bảo đảm khi
xảy ra sự xâm phạm.
16



Theo Từ điển tiếng Việt, quyền là “điều mà pháp luật hoặc xã hội công
nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”. Trong lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, khái niệm quyền được hiểu là khả năng về một việc gì đó
do luật thừa nhận cho chủ thể nhưng thực hiện quyền đó như thế nào thì lại
tùy thuộc vào sự lựa chọn của chủ thể. Quyền cơ bản của công dân được quy
định trong Hiến pháp của mỗi quốc gia. Còn quyền của những người tham gia
tố tụng hình sự, trong đó có cả bị can được quy định trong Luật tố tụng hình
sự của mỗi quốc gia.
Chúng tôi cho rằng khái niệm bảo vệ quyền của bị can xuất phát từ khái
niệm bảo vệ quyền. Trong luận án Tiến sĩ của Trần Thanh Hương, khi bàn về
khái niệm “bảo đảm quyền tự do công dân” tác giả đã phân tích khái niệm bảo
vệ quyền. Cụ thể:
- Quyền tự do công dân do Hiến pháp ghi nhận mới chỉ thừa nhận giá
trị xã hội của các quyền đó và tạo tiền đề quan trọng để thực hiện chúng,
song những quyền này nếu thiếu bảo vệ thì mới chỉ tồn tại ở dạng tiềm
năng. Bảo vệ là yếu tố để quyền trở thành hiện thực, không chỉ là tiềm
năng hay hình thức.
- Các quyền tự do của công dân chỉ trở thành hiện thực khi có các yếu
tố xã hội khách quan thuận lợi và những phương tiện, công cụ, phương thức
quan trọng do nhà nước và xã hội tạo ra. Đó là những điều kiện về kinh tế,
chính trị và các điều kiện về xã hội khác hình thành môi trường để mỗi công
dân có khả năng sáng tạo và phát huy năng lực vốn có của mình.
Khái niệm bảo vệ quyền trong khoa học pháp lý được hiểu là các điều
kiện khách quan và phương tiện (công cụ) tổ chức và các công cụ khác không
chỉ là nhằm mục đích công bố, ghi nhận về mặt pháp lý các quyền và tự do cơ
bản của công dân mà còn nhằm mục đích bảo vệ các quyền, tự do cơ bản đó
một cách toàn diện và thực thi chúng trong cuộc sống.

17



Bảo vệ quyền là một hiện tượng xã hội, chính trị và pháp lý quan trọng.
Phạm trù này được thể hiện qua các yếu tố lý luận, thực tiễn và tư tưởng.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu bảo vệ quyền của bị can là những hoạt
động, những công việc tạo ra những điều kiện, tiền đề cần thiết làm cho quyền
của bị can tham gia TTHS được có đầy đủ, để cho quyền đó có tính hiện thực
và không mang tính hình thức.
1.1.2.2. Đ c điểm của bảo vệ quyền của bị can trong giai đoạn điều tra
Thứ nhất, về chủ thể: Bảo vệ quyền của bị can xuất phát từ yêu cầu bảo
vệ quyền con người nói chung. Vấn đề bảo vệ quyền của bị can thực chất là
vấn đề các yếu tố bảo vệ tính hiện thực của quyền đã được pháp luật thừa nhận.
Nhà nước ghi nhận quyền của bị can trong BLTTHS thì Nhà nước đồng
thời phải có nghĩa vụ bảo vệ cho quyền đó thực hiện không chỉ bằng biện
pháp pháp lý mà còn bằng những bảo vệ kinh tế, chính trị và xã hội. Nếu
không có sự bảo vệ thực thi và bảo vệ quyền của bị can thì các quyền đó chỉ
là những khẩu hiệu trống rỗng.
Quan điểm bảo vệ quyền của bị can trong TTHS là quan điểm nhất
quán của nhà nước ta. Nhà nước thực hiện bảo vệ quyền của bị can thông qua
việc xây dựng hệ thống pháp luật TTHS để ghi nhận quyền và bảo vệ quyền
của bị can, đồng thời thông qua những người tham gia tố tụng để bảo vệ
những quyền đó. Việc áp dụng luật nội dung và luật hình thức đồng thời bảo
vệ quyền đó thông qua hệ thống pháp luật hình sự. Các cơ quan Điều tra,
VKS, Tòa án có trách nhiệm bảo vệ quyền của bị can. Cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng bảo vệ quyền cho bị can trong suốt quá trình tố
tụng, quá trình giải quyết vụ án kể từ khi họ bị khởi tố bị can hoặc bị tạm giữ
cho đến khi kết thúc vụ án hình sự. Đồng thời, bảo vệ cho bị can được hưởng
những quyền cụ thể mà luật tố tụng hình sự quy định cho họ được hưởng.
Như vậy, chủ thể bảo vệ quyền của bị can trước tiên thuộc về các cơ quan xây
dựng và áp dụng pháp luật TTHS.
18



×