Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự qua thực tiễn viện kiểm sát nhân dân huyện nam đàn, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG KIM SƠN

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CỦA VỤ ÁN HÌNH SỰ - QUA THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN HUYỆN NAM ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà nội - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG KIM SƠN

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CỦA VỤ ÁN HÌNH SỰ - QUA THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN HUYỆN NAM ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HOÀNG ANH


Hà nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Đặng Kim Sơn


LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu của bản thân tôi ở
Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và với kinh nghiệm của tôi trong
quá trình công tác thực tiễn.
Tôi xin bảy tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh là người
trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi về chuyên môn
cũng như phương pháp nghiên cứu khoa học và chỉ cho tôi những nghiệm kinh
nghiệm quý giá trong thời gian thực hiện đề tài luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Luật trực thuộc Đại
học Quốc gia Hà Nội và cơ quan công tác, đồng nghiệp, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập cũng như trong quá trình nghiên cứu khoa học.
Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình đã luôn tạo điều kiện tốt
nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Bản thân tôi đã nổ lực, cố gắng để hoàn thành luận văn, song không tránh
khỏi những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của các thầy, cô
giáo, đồng nghiệp và bạn bè để tôi tiếp tục hoàn thiện luận văn này.
Hà nội, ngày 07 tháng 9 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đặng Kim Sơn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CỤM TỪ VIẾT TẮT

CỤM TỪ ĐẦY ĐỦ

ADPL

Áp dụng pháp luật

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra


ĐTV

Điều tra viên

KSV

Điều tra viên

THTT

Tiến hành tố tụng

QCT

Quyền công tố

QCT

Thực hành quyền công tố

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân

i


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT............................................................................ i
MỤC LỤC .........................................................................................................ii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ............................. 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật ...................................................... 8
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật ................................................................... 8
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật ........................................................... 11
1.2. Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ
án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân ............................................................ 15
1.2.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
vụ án hình sự .................................................................................................... 15
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự................................................................ 29
1.2.3. Quy trình hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra vụ án hình sự .................................................................... 33
1.3. Các yếu tố bảo đảm hoạt động áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát nhân
dân trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự ........... 36

1.3.1. Bảm đảm về chính trị ............................................................................. 36
1.3.2. Bảo đảm về mặt pháp lý ......................................................................... 37
1.3.3. Bảo đảm về công tác tổ chức và cán bộ ................................................. 39
1.3.4. Các bảo đảm khác ........................................................................................... 41
ii


KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................... 43
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN NAM
ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2012 ĐẾN NĂM 2016... 44
2.1. Đánh giá kết quả hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An từ năm 2012 đến năm 2016 ..................................... 45
2.1.1. Những kết quả đạt được của hoạt động áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An ................................................................. 45
2.1.2. Những hạn chế của hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An................................................................................... 62
2.2. Nguyên nhân những kết quả đạt được và những hạn chế của hoạt động áp
dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An ..................... 69
2.2.1. Nguyên nhân của những kết quả đạt được ............................................. 69
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế ........................................................... 73
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................... 84
Chƣơng 3 QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT
ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM

SÁT NHÂN DÂN............................................................................................ 85
3.1. Quan điểm về bảo đảm hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự ............................................ 85
iii


3.1.1. Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
vụ án hình sự nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân .................... 86
3.1.2. Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
vụ án hình sự nhằm bảo đảm tinh thần cải cách tư pháp ................................. 87
3.1.3. Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
vụ án hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi pham tội phải được xử lý nghiêm
minh, kịp thời ................................................................................................... 88
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự.................. 89
3.2.1. Nhóm các giải pháp về hoàn thiện pháp luật và giải thích, hướng dẫn thi
hành luật ........................................................................................................... 89
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện áp dụng pháp luật....................... 97
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................. 113
KẾT LUẬN ................................................................................................... 114
DANH MỤC BÀI VIẾT ĐÃ CÔNG BỐ .................................................... 116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 117

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Số hiệu

Tên bảng


Trang

Bảng 2.1

Công tác THQCT và KSĐT trong hoạt động KT vụ án hình sự

47

Bảng 2.2

Công tác THQCT và kiểm sát hoạt động khởi tố bị can

48

Bảng 2.3

Công tác THQCT và kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn

50

chặn bắt, tạm giữ
Bảng 2.4

Công tác THQCT và kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn

51

chặn tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Bảng 2.5


ADPL về tạm đình chỉ điểu tra của CQĐT

55

Bảng 2.6

ADPL về đình chỉ điều tra của CQĐT

59

Bảng 2.7

ADPL trong trả hồ sơ để điều tra bổ sung

61

v


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một trong các hệ thống cơ quan cấu
thành bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có chức năng thực
hành quyền công tố (THQCT), kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật. Cùng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, từ khi thành
lập đến nay, VKSND đã không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, phát huy được vị trí,
vai trò trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, qua đó góp phần quan
trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của nhà nước và bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thì hoạt động áp dụng pháp
luật trong THQC và kiểm sát điều tra (KSĐT) vụ án hình sự trong thời gian qua
còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội trong công cuộc
cải cách tư pháp ở giai đoạn hiện nay như: Vẫn còn xảy ra tình trạng bỏ lọt tội
phạm, khởi tố sai tội danh, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, kéo dài thời hạn điều
tra, phải gia hạn thời hạn điều tra hoặc bị Tòa án cấp trên hủy án để điều tra
lại...; nhiều trường hợp vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng
(THTT), người THTT trong hoạt động điều tra vụ án hình sự chưa được phát
hiện, khắc phục kịp thời. Nguyên nhân chủ yếu là do công tác THQCT và kiểm
sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát
(VKS) có lúc chưa được thực hiện chặt chẽ, chưa được quan tâm đúng mức. Một
số kiểm sát viên (KSV) chưa phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra, còn thụ
động trong việc thực hiện chức năng THQCT và KSĐT vụ án hình sự của Cơ
quan điều tra (CQĐT); không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để đề ra yêu cầu điều
tra sát đúng với vụ án hoặc là bỏ mặc cho điều tra viên tiến hành điều tra một
cách độc lập… Những yếu kém, hạn chế đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến danh dự,
nhân phẩm, quyền con người, quyền công dân. Mặt khác, còn làm ảnh hưởng đến
uy tín của các cơ quan THTT nói chung và ngành kiểm sát nói riêng.
1


Thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Kết luận số 79-KL/TW ngày
28/7/2010 của Bộ Chính trị về đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, VKS
và CQĐT theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Trong đó,
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đặt ra yêu cầu đối với
ngành Kiểm sát: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động

công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố
tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người
vô tội...”.
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát theo tinh thần cải
cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu: Bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, phát huy dân
chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong công tác THQCT và kiểm sát hoạt
động tư pháp nói chung và hoạt động áp dụng pháp luật (ADPL) trong công tác
THQCT và KSĐT vụ án hình sự nói riêng, vai trò của VKSND trong ADPL cần
phải được nâng cao chất lượng, hiệu quả, coi đó là nhiệm vụ trước mắt cũng như
nhiệm vụ lâu dài của ngành tư pháp nước ta. Đó là yêu cầu cấp thiết của ngành kiểm
sát nói chung và VKSND huyện Nam Đàn nói riêng.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra của vụ án hình sự - qua thực tiễn Viện kiểm
sát nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An" làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
THQCT và KSĐT vụ án hình sự là một giai đoạn hết sức quan trọng, có ý
nghĩa quyết định đến toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự. Giai đoạn điều tra
vụ án cần phải làm rõ hành vi phạm tội và người thực hiện hành vi tội phạm, các
2


tình tiết liên quan đến việc giải quyết vụ án, từ đó làm cơ sở cho việc truy tố và xét
xử các bị can, bị cáo bảo đảm đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội,
không bỏ lọt tội phạm; bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Vì vậy, đây là
vấn đề thu hút nhiều nhà lý luận và nhiều nhà hoạt động thực tiễn quan tâm nghiên
cứu. Việc nghiên cứu đề tài này đã được thể hiện trong nhiều công trình khoa học
được công bố trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành, các luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sĩ và một số giáo trình giảng dạy về pháp luật như:
Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sĩ Luật:

- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Hưng Yên, luận văn thạc sĩ Luật học của Ngô Thị
Phi, tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2012).
- Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện Kiểm
sát nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, luận văn thạc sĩ Luật học của Lê
Thị Huyền Ngọc tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2016).
- Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Nghệ An, luận
án tiến sỹ luật học của Tôn Thiện Phương tại Học viện Khoa học xã hội (năm 2017).
Sách chuyên khảo:
- Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế
- Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015.
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai
đoạn điều tra của Lê Hữu Thể - Đỗ Văn Đương - Nông Xuân Trường, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, năm 2008.
- Sổ tay Kiểm sát viên hình sự của Viện Khoa học kiểm sát, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Hà Nội, năm 2006.
- Sổ tay kiểm sát viên hình sự của Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Hà Nội, năm 2011.
- Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2006.
Các bài viết, công trình nghiên cứu được đăng trên các tạp chí chuyên ngành:
3


- GS. TSKH. Đào Trí Úc: Thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật
ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 7/2011
- TS. Đỗ Văn Đương: Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay, Tạp chí nghiên cứu lập pháp 7/2006.
- TS. Trần Công Phàn: Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt
động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân trong tình hình mới và một số vấn đề về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm”, Tạp chí Kiểm sát 8/2011.
- TS. Trần Công Phàn: Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu
cải cách tư pháp, Tạp chí kiểm sát 01/2012.
- TS. Lê Thị Tuyết Hoa: Một số nội dung trọng tâm để thực hiện chủ trương
tăng cường trách nhiệm công tố trong động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp,
Tạp chí Kiểm sát 8/2012.
- TS. Nguyễn Thị Mai Nga: Những dấu mốc quan trọng hình thành, phát
triển chế định thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự, Tạp chí
kiểm sát 7/2016.
- TS. Thái Vĩnh Thắng Viện công tố thay thế Viện kiểm sát nhân dân sẽ được
tổ chức và hoạt động như thế nào, Tạp chí luật học 2/2008.
- Nguyễn Duy Giảng: Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo yêu cầu cải cách tư
pháp, Tạp chí kiểm sát số 14-16/ 2008.
- Vũ Việt Hùng: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm công tố
trong việc đề ra yêu cầu điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí kiểm sát
8/2012.
Như vậy, công tác THQCT và KSĐT vụ án hình sự của ngành kiểm sát đã
được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và làm sáng tỏ. Tuy nhiên, nghiên cứu ADPL
đồng thời đối với hai hoạt động: THQCT và KSĐT vụ án hình sự của VKSND nhất là tại địa bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, thì chưa có một công trình nào
4


nghiên cứu chuyên sâu. Từ tình hình nghiên cứu trên cho thấy đề tài "Áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của vụ án hình sự - qua
thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An" không trùng
lặp với bất kỳ một công trình nào đã được công bố. Tuy nhiên, các công trình khoa
học, các bài viết về đề tài này là những tài liệu tham khảo có giá trị để tác giả

nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý
luận chung và thực trạng ADPL trong công tác THQCT và KSĐT vụ án hình sự của
VKSND huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, từ đó đề xuất các phương hướng, giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động ADPL đối với công tác này trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Nhằm thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận chung về hoạt động ADPL trong
THQCT và KSĐT vụ án hình sự của VKSND.
- Đánh giá thực trạng ADPL trong THQCT và KSĐT vụ án hình sự thông
qua việc phân tích kết quả hoạt động của VKSND huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
trong năm năm (từ năm 2012 đến 2016).
- Đề xuất quan điểm bảo đảm và các giải pháp nâng cao chất lượng ADPL
trong THQCT và KSĐT vụ án hình sự của ngành kiểm sát nói chung và của
VKSND huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những vấn đề lý luận về ADPL nói chung và ADPL trong THQCT và
KSĐT vụ án hình sự.
- Thực tiễn ADPL trong THQCT và KSĐT vụ án hình sự của VKSND huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
5


- Nguyên nhân tồn tại, hạn chế về hoạt động ADPL trong THQCT và KSĐT
vụ án hình sự của VKSND huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Quan điểm và những giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động ADPL

trong THQCT và KSĐT vụ án hình sự nói chung và của VKSND huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An nói riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu hoạt động ADPL trong công tác THQCT và KSĐT vụ
án hình sự, thực trạng thực hiện công tác này nhằm tạo cơ sở đề xuất các phương
hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đối với hoạt động ADPL trong THQCT
và KSĐT vụ án hình sự nói chung và ở VKSND huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An nói
riêng trong giai đoạn hiện nay.
Công tác THQCT và KSĐT vụ án hình sự của VKSND được tiến hành từ khi
bắt, tạm giữ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc từ khi khởi tố vụ án, khởi tố bị
can cho đến khi kết thúc điều tra vụ án.
Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn từ năm 2012 đến năm 2016, tại địa
bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
5. Cơ sở và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về đổi mới nhà nước và pháp luật, về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và các quan điểm
chỉ đạo về cải cách tư pháp.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lê Nin. Các phương pháp nghiên cứu được áp dụng gồm: Phương pháp phân tích,
tổng hợp để nghiên cứu các vấn đề lý luận; phương pháp thống kê, so sánh để thu
thập, phân tích, tổng hợp, đánh giá số liệu. Ngoài ra, việc thực hiện luận văn liên
quan đến thực tiễn hoạt động nghiệp vụ, cho nên luận văn còn sử dụng phương pháp
6


chứng minh thông qua số liệu khảo sát tại VKSND huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
6. Ý nghĩa đóng góp mới của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và có hệ
thống về hoạt động ADPL trong THQCT và KSĐT vụ án hình sự của VKSND
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho VKS đối với việc nghiên cứu, ADPL trong thực tiễn về công tác THQCT và
KSĐT vụ án hình sự, để nâng cao trình độ lý luận và nâng cao chất lượng công tác
chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh đó, Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu một số chuyên đề liên quan, nhất là trong thực hiện chức năng
THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực trạng hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam
Đàn giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016.
Chương 3: Quan điểm và các giải pháp bảo đảm hoạt động áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự.

7


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Nhà nước và pháp luật luôn gắn liền với nhau trong quá trình tồn tại và phát

triển. Nhà nước ban hành pháp luật như là một công cụ hữu hiệu để quản lý xã hội.
Pháp luật là các quy tắc xử sự thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân, do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận, có tính bắt buộc chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện
trên cơ sở kết hợp giáo dục thuyết phục và cưỡng chế nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội.
Để quản lý xã hội một cách có hiệu quả thì nhà nước ngoài việc xây dựng
một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất thì việc thực hiện pháp luật là yếu tố
bảo đảm cho pháp luật được hiện thực hóa trong đời sống xã hội.
Theo GS. TSKH. Đào Trí Úc, thực hiện pháp luật còn được hiểu là:
Một quá trình thực hiện các quy định pháp luật, biến những quy
định ấy thành hành vi tuân theo pháp luật. Ở nghĩa đó, thực hiện pháp
luật cần được xem xét, đánh giá qua lăng kính của sự tương tác giữa
nhiều tác nhân thuộc nhiều nhóm hoạt động khác nhau nhưng trên cùng
một véc-tơ tác động vào ý thức và hành vi của chủ thể thực hiện pháp
luật hoặc hỗ trợ, xúc tác cho quá trình này [37].
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật năm 2015 của GS.TS. Hoàng Thị
Kim Quế - Đại học Quốc gia Hà Nội, thì thực hiện pháp luật được được hiểu là:
“Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định
pháp luật vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể
pháp luật” [20, tr.492].
Thực hiện pháp luật là một giai đoạn quan trọng và không thể thiếu trong cơ
8


chế điều chỉnh pháp luật để pháp luật phát huy được vai trò trong cuộc sống: “Muốn
cơ chế điều chỉnh pháp luật vận hành tốt, pháp luật được phát huy vai trò, giá trị
của mình trong đời sống xã hội thì quan trọng là phải thực hiện pháp luật một cách
đầy đủ, chính xác, triệt để và hiệu quả” [11].
Về mặt lý luận thì thực hiện pháp luật được khoa học pháp lý phân chia thành bốn
hình thức gồm: Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và ADPL.

- Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
không được làm những gì mà pháp luật cấm.
- Thi hành pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình.
- Sử dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
sử dụng đúng đắn các quyền của mình, làm những gì pháp luật cho phép.
- Áp dụng pháp luật: Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật
trong đó nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền tổ
chức cho các chủ thể khác thực hiện các quy định của pháp luật.
Áp dụng pháp luật được hiểu:
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước thông qua các cơ
quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp
luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào
các quy định của pháp luật, ra các quyết định ADPL vào trong những
trường hợp cụ thể của đời sống xã hội [13].
Áp dụng pháp luật mang tính quyền lực nhà nước:
Là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước do các cơ quan, tổ
chức hoặc cá nhân có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật hiện hành vào
những trường hợp cụ thể, đối với các tổ chức, cá nhân cụ thể [14, tr.30].
Việc phân chia thành bốn hình thức thực hiện pháp luật nêu trên có tính chất
tương đối, trên thực tế giữa chúng luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại
lẫn nhau, ngay trong ADPL cũng có sự tuân thủ pháp luật và chấp hành pháp luật,
9


sử dụng pháp luật. Đối với các chủ thể chấp hành pháp luật và ADPL cũng đều có
trách nhiệm pháp lý và nghĩa vụ pháp lý của mình. Giữa các hình thức thực hiện
pháp luật luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thấy rõ
những mối quan hệ này thì chúng ta sẽ có các biện pháp nhằm bảo đảm cho việc

thực hiện pháp luật đạt hiệu quả cao.
Trong bốn hình thức thực hiện pháp luật nói trên thì ADPL là hình thức thực
hiện pháp luật rất quan trọng vì nó là bảo đảm pháp lý cho toàn bộ các hình thức
thực hiện pháp luật khác. Trong nhiều trường hợp, chủ thể thực hiện pháp luật
không muốn hoặc không đủ khả năng thực hiện pháp luật nếu thiếu sự tham gia của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì khi đó cần thiết phải thực hiện ADPL.
Để bảo đảm cho quy định pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống
nhất, điều quan trọng nhất là các quy định pháp luật cần phải rõ ràng, minh bạch,
bảo đảm được quyền, lợi ích và nghĩa vụ, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức,
cũng như quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể của các cơ quan nhà nước
trong thực hiện pháp luật nó chung và ADPL nói riêng.
* Các trường hợp áp dụng pháp luật:
ADPL được tiến hành linh hoạt, sáng tạo bởi chủ thể thực thi pháp luật. Qua
thực tiễn ADPL, có thể khái quát một số trường hợp cơ bản như sau:
- Khi có vi phạm pháp luật xảy ra và cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế
nhà nước hoặc áp dụng các chế tài của pháp luật đối với những chủ thể thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật. Các trường hợp ADPL này chủ yếu ở diễn ra trong vi
phạm pháp luật hình sự, pháp luật hành chính.
- Khi có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể mà họ không
tự giải quyết được. Các trường hợp ADPL này chủ yếu ở diễn ra trong lĩnh vực dân
sự, tranh chấp về kinh doanh thương mại, lao động, hôn nhân gia đình…
- Nhà nước xác định một hành vi, một kết quả hoạt động hoặc một mối quan
hệ xã hội nào đó là hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Chẳng hạn như công chứng, đăng
ký kết hôn…
- Trong trường hợp quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên
10


phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu không có sự can thiệp của nhà nước, chẳng
hạn khi cần phải có quyết định của chủ thể có thẩm quyền thì mới phát sinh quyền

và nghĩa vụ như bổ nhiệm, cách chức, nâng lương...
- Một số trường hợp khác như khi nhà nước thấy cần thiết phải tham gia vào
một số quan hệ pháp luật cụ thể để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham
gia vào quan hệ đó, nhằm bảo đảm việc chấp hành pháp luật của các chủ thể, chẳng
hạn như các quyết định kiểm tra, kiểm sát trực tiếp…
Như vậy, có thể hiểu rằng: Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ
chức, quyền lực của Nhà nước, được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền,
nhằm cá biệt hoá những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các
cá nhân, tổ chức cụ thể.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Thứ nhất: Hoạt động áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực
nhà nước.
- Nhà nước là chủ thể ban hành pháp luật, nên pháp luật là sự thể hiện ý chí
nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật cụ thể, nên hoạt động ADPL được xem
là sự thể hiện ý chí của nhà nước trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng
pháp luật. Vì vậy, việc ADPL không những phải phù hợp với pháp luật thực định
mà còn phải phù hợp với chủ trương chính sách của Nhà nước.
- Hoạt động ADPL là hoạt động do cơ quan nhà nước, nhà chức trách có
thẩm quyền tiến hành hoặc tổ chức khi được nhà nước trao quyền. Đối với mỗi cơ
quan nhà nước, nhà chức trách, người có thẩm quyền tiến hành hoặc tổ chức khi
được nhà nước trao quyền chỉ được tiến hành một số hoạt động ADPL nhất định,
trong lĩnh vực nhất định. Khi cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền đưa ra
quyết định ADPL thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ
chức, nên khi thực hiện ADPL thì mọi tình tiết đều phải được xem xét, cân nhắc
một cách thận trọng trên cơ sở căn cứ vào các quy định quy phạm pháp luật và các
văn bản hướng dẫn để ra các quyết định cụ thể, nhằm bảo đảm tính có căn cứ và
tính hợp pháp.
11



- ADPL được thực hiện chủ yếu theo ý chí đơn phương của nhà nước, thông
qua hoạt động của cơ quan nhà nước hay nhà chức trách, người có thẩm quyền và
không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị ADPL. Trong một số trường hợp đặc biệt
thì việc ADPL chỉ được tiến hành khi có yêu cầu của tổ chức hay cá nhân nhất định.
Chẳng hạn như quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự theo đơn sẽ được cơ quan
Thi hành án ban hành khi người được thi hành án đã có đơn yêu cầu thi hành nhưng
người bị thi hành án không tự nguyện thi hành.
- Quyết định, văn bản ADPL do các chủ thể có thẩm quyền ADPL ban hành
theo quy định của pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước, chẳng hạn như theo quy định
tại khoản 1 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015: “Tạm giam có thể áp
dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng” [24]
hoặc tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật hình sự (BLHS) 2015 quy định: “Khi xử phạt tù
không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ,
nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo
và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm ...” [22]. Theo quy định trên thì
trong một số trường hợp cụ thể việc “tạm giam” hay “cho hưởng án treo” là do ý chí
của người có thẩm quyền - đại diện cho nhà nước quyết định.
- Quyết định, văn bản ADPL mang tính bắt buộc phải thực hiện đối với
những tổ chức và cá nhân liên quan bị áp dụng. Trong những trường hợp cần thiết,
nhà nước có thể cưỡng chế thi hành quyết định, văn bản pháp luật đã có hiệu lực
pháp luật.
Thứ hai: Hoạt động áp dụng pháp luật phải tuân theo quy trình, thủ tục chặt
chẽ do pháp luật quy định.
Việc ADPL đối với chủ thể bị áp dụng và chủ thể có liên quan nếu để xảy ra
oan, sai thì có thể bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến quyền con người, quyền công
dân của họ, đặc biệt là trong lĩnh vực hình sự, có thể họ phải chịu hậu quả rất lớn về
tinh thần và vật chất, nên ADPL là hoạt động phải tuân theo về mặt hình thức và thủ
tục rất chặt chẽ, do pháp luật quy định.
GS. TSKH. Đào Trí Úc đã khẳng định một đặc trưng cơ bản về tuân thủ quy

trình, thủ tục trong ADPL là:
12


Áp dụng pháp luật trong Nhà nước pháp quyền đòi hỏi bảo đảm
tính công khai, minh bạch. Do vậy, thủ tục chặt chẽ, trình tự nghiêm ngặt
(thủ tục tố tụng, thủ tục hành chính v.v…) là đặc trưng quan trọng của
hình thức thực hiện pháp luật này so với các hình thức đã nêu trên, trong
số đó, tính chặt chẽ cao nhất thuốc về quá trình áp dụng pháp luật trong
hoạt động tư pháp [37].
Do tính chất quan trọng và phức tạp của ADPL, đối tượng bị ADPL có thể
được hưởng những lợi ích rất lớn nhưng cũng có thể phải chịu những hậu quả bất
lợi rất nghiêm trọng, nên trong hoạt động ADPL luôn có sự xác định rõ ràng về cơ
sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình
ADPL. Do vậy, các văn bản pháp luật phải quy định đầy đủ, rõ ràng về cả luật nội
dung và luật hình thức, đặc biệt các chủ thể thực hiện ADPL phải tuân thủ quy trình
chặt chẽ do pháp luật quy định để tránh sai sót xảy ra.
Thứ ba: Hoạt động áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh có tính chất
cá biệt.
- Trong hoạt động ADPL thì đối tượng của ADPL là những cá nhân, tổ chức
cụ thể. ADPL được tiến hành dựa trên các quy phạm pháp luật nhất định để giải
quyết vụ việc, qua đó làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của
chủ thể bị áp dụng và các đối tượng liên quan.
- Trên cơ sở những quy phạm pháp luật nhất định, được cá biệt hóa để thực
hiện ADPL vào trong những trường hợp cụ thể. Kết quả của quá trình ADPL là cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, người được nhà nước giao quyền ban hành văn bản
ADPL. Văn bản ADPL cá biệt được thể hiện dưới dạng như các quyết định, bản
án.... Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người được nhà nước giao quyền phải căn
cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật để đưa ra quyết định, bản án... xác định
mức độ vi phạm, tội phạm để quyết định chế tài tương ứng đối với chủ thể bị ADPL

hoặc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của chủ thể bị áp dụng và
người liên quan.
13


Thứ tư: Hoạt động áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo.
Hoạt động ADPL là hoạt động phức tạp, phải tuân thủ quy trình chặt chẽ,
nhưng kết quả của các quyết định ADPL mà chủ thể áp dụng đưa ra phải trong
khuôn khổ của căn cứ pháp luật họ áp dụng. Chủ thể ADPL đòi hỏi phải có sự sáng
tạo chứ không chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật thực định mà còn căn cứ vào
tình hình thực tế. “Tính sáng tạo trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt thủ tục pháp lý,
đó là đặc điểm cơ bản của áp dụng pháp luật” [11].
Đối với trường hợp pháp luật không quy định chẳng hạn như trong giải quyết
vụ án dân sự, nếu luật không quy định thì tòa án có thể áp dụng tập quán, ADPL
tương tự, các nguyên tắc, án lệ, lẽ phải, lẽ công bằng để có thể đưa ra quyết định
đúng đắn, sáng suốt nhất, hợp lý nhất nhưng vẫn trong giới hạn của pháp luật mà họ
phải áp dụng.
Tại Điều 6 Bộ luật dân sự 2015 quy định về áp dụng tương tự pháp luật:
1. Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của
pháp luật dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp luật không có
quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của
pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.
2. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy
định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng. [25].
Khi ADPL, các cơ quan nhà nước hay người có thẩm quyền phải nghiên cứu
kỹ nội dụng vụ, việc, nếu chưa đủ căn cứ thì phải điều tra hoặc yêu cầu điều tra, thu
thập chứng cứ để từ đó lựa chọn quy phạm, ra quyết định, văn bản ADPL và tổ
chức thi hành. Trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ thì
phải vận dụng một cách sáng tạo bằng cách áp dụng tập quán hoặc ADPL tương tự

để giải quyết vụ, việc. Do đó yêu cầu đặt ra là đòi hỏi người ra quyết định ADPL là
người phải có ý thức trách nhiệm cao, có kiến thức vững chắc về chuyên môn,
nghiệp vụ, có khả năng phân tích, tổng hợp, dự báo tình hình, có kinh nghiệm, có
bản lĩnh chính trị vững vàng và có đạo đức tốt.
14


* Kết quả của hoạt động áp dụng pháp luật:
Về hình thức của hoạt động ADPL chủ yếu được thể hiện bằng văn bản
ADPL. Đối với văn bản ADPL trong lĩnh vực hình sự được thể hiện trong những
hình thức như: Quyết định, lệnh, Bản án.
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật năm 2015 của GS.TS. Hoàng Thị
Kim Quế - Đại học Quốc gia Hà Nội viết:
Trong quyết định áp dụng pháp luật thể hiện các quyền, nghĩa vụ
pháp lý cụ thể hoặc những biện pháp trách nhiệm pháp lý nhất định đối
với các cá nhân, tổ chức có liên quan. Bằng quyết định áp dụng pháp
luật, các quyền và nghĩa vụ chung, các chế tài có trong các văn bản quy
phạm pháp luật được cụ thể hóa đối với các cá nhân, tổ chức nhất
định.[20, tr 500].
Văn bản ADPL là những văn bản có tính cá biệt cụ thể, do chỉ áp dụng đối
với một hoặc một số nhóm đối tượng cụ thể, về những vụ việc, trường hợp cụ thể,
để xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý của cá nhân, tổ chức hoặc xác định trách
nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
1.2. Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ
án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ
án hình sự
1.2.1.1. Quyền công tố và thực hành quyền công tố
* Khái niệm quyền công tố
Công tố, trong từ điển tiếng Việt có nghĩa là: “Điều tra, truy tố, buộc tội kẻ

phạm pháp trước Tòa án” [33, tr.204].
Trong từ điển Luật học định nghĩa:“Quyền công tố là quyền buộc tội nhân
danh nhà nước đối với người phạm tội” [34, tr.188].
Quyền công tố ở nước ta đã được thực hiện từ năm 1945 cho đến nay. Tuy
nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử thì có sự khác nhau về cách hiểu cũng như nhiệm
vụ mà cơ quan được nhà nước giao đảm nhận quyền năng pháp lý này. Từ năm
15


1945 đến năm 1959, khi chưa có hệ thống cơ quan VKS, QCT được giao cho Tòa
án, quyền này nằm trong hệ thống toà án, do các thẩm phán buộc tội đảm nhiệm.
Trong giai đoạn trước năm 1960, cơ quan thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố là Công tố viên thuộc Tòa án, sau đó là Viện
công tố các cấp thuộc Chính phủ, nội hàm của thực hành quyền công tố
hầu như chỉ là truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử, hoặc
điều tra, khởi tố trong một số trường hợp, các quy định thuộc nội dung
thực hành quyền công tố còn rất sơ khai [18].
Đến ngày 26/7/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật tổ
chức VKSND, thành lập nên hệ thống VKSND trong bộ máy nhà nước, đây là cơ sở
pháp lý đầu tiên cho việc hình thành một hệ thống cơ quan trong trong bộ máy nhà
nước, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN. Thuật ngữ “quyền công tố” được ghi
nhận lần đầu tiên trong Hiến Pháp 1980, sau đó tiếp tục được ghi nhận trong Hiến
Pháp 1992, BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003, Luật tổ chức VKSND năm
1981, Luật tổ chức VKSND năm 1992, Luật tổ chức VKSND năm 2002 và nay là
Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014.
Quyền công tố gắn liền với sự buộc tội của nhà nước, phát sinh khi có tội
phạm, tức là khi có hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra, do chủ thể có năng lực
trách nhiệm hình sự, xâm phạm tới các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo
vệ. Đó là quan hệ giữa một bên là nhà nước (bên có quyền lực và đứng ra buộc tội),
quyền đó được nhà nước giao cho VKSND và một bên là người thực hiện hành vi

phạm tội hoặc pháp nhân thương mại (là người, tổ chức bị truy cứu trách nhiệm
hình sự).
Quyền công tố là một trong những phương tiện quan trọng của
Nhà nước để thực hiện quyền lực Nhà nước trong đấu tranh và phòng
chống tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của
xã hội, trong đó, VKSND có vai trò to lớn và trách nhiệm nặng nề trong
THQCT Nhà nước, là cơ quan duy nhất đại diện cho Nhà nước truy tố
đối với người phạm tội ra trước Tòa án [16].
16


×