Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Các vị La Hán chùa Tây Phương của Huy Cận: Mỗi người một vẻ mặt con người... Cho đến bây giờ mặt vẫn chau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.72 KB, 4 trang )

Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Các vị La Hán chùa Tây Phương của Huy  
Cận: Mỗi người một vẻ mặt con người... Cho đến bây giờ mặt vẫn chau
Bài làm
Vốn là một nhà thơ trưởng thành từ phong trào Thơ mới, lại sẵn có tấm lòng gắn bó với 
đất nước, quê hương, Huy Cận đã nhanh chóng đến với cách mạng, đem ngòi bút của  
mình phụng sự cách mạng. Từ một tiếng thơ buồn đau, ảo não "mang mang thiên cổ sầu"  
trong tập Lửa thiêng, Huy Cận chào đón cuộc đời mới bằng những tiếng thơ reo vui niềm  
lạc quan khỏe khoắn với các tập: Trời mỗi ngày lại sáng, Bài thơ cuộc đời, Ngôi nhà giữa  
nắng... Tiếng thơ  Huy Cận giờ đây dào dạt niềm vui ngợi ca hạnh phúc của những con 
người  mới  được   đổi   đời,   ngợi  ca   công  lao  của   cách  mạng.   Các   vị   La   hán  chùa   Tây  
Phương chính là tiếng thơ  nhiệt thành, sâu sắc và giàu tính nghệ  thuật trong cảm hứng  
chung đó.
Huy Cận đã có dịp đến chùa Tây Phương từ  những năm trước 1945, nhưng bấy giờ   ấn  
tượng chưa đủ  để  thành thơ. Sau này, ông còn lui tới một đôi lần nữa. Phải đến khi bất  
chợt nhìn thấy sự  có mặt của 18 vị  La Hán tựa như  một cuộc họp vừa ngẫu nhiên, vừa 
hết sức lạ lùng, thì tứ thơ mới đến với Huy Cận. Cả bài thơ chính là sự triển khai tứ thơ 
"Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã" này. Lựa chọn một đề  tài có ý nghĩa tôn giáo, nhà thơ  đã  
mượn đề tài tôn giáo để ca ngợi công lao đổi đời của Đảng. La Hán vốn là một trạng thái  
cuối cùng của quá trình tu hành từ bỏ cuộc đời trần thế để đi vào cõi Niết Bàn. Nhưng tác 
giả Huy Cận nhìn thấy ở đó rằng ngay khi đã trở thành La Hán rồi, các vị vẫn giữ nguyên 
gương mặt khổ  đau, mang những nỗi đau đời sâu sắc. Chính vì thế  mà nhà thơ  tưởng 
tượng ra rằng các vị La Hán này đang ở trong một cuộc họp âm thầm để tìm một lời giải  
đáp cho số phận, không chỉ là cho những số phận riêng, mà còn là số phận chung của toàn  
dân tộc. Ngay câu thơ  đầu tiên, nhà thơ  đã không coi đó là những pho tượng Phật, mà là  
những con người sống động, những kiếp người của cuộc đời.
Mỗi người một vẻ, mặt con người


Câu thơ không chỉ muốn nói lên tài năng của các nhà điêu khắc xưa đã đem lại cho những  
pho tượng sự  sống động sinh động, mà còn cho rằng đây chính là dụng ý của các nhà  
nghệ sĩ thế kỉ XVIII ­ họ đã chạm khắc nên những gương mặt người của một thế kỉ đau  


thương. Cho nên trong câu tiếp theo, ta bắt gặp sự sống đang diễn ra ngay trong những  
pho tượng bất động:
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời
Nhà thơ đã cảm nhận được tất cả những đau khổ bất hạnh mà mỗi con người phải gánh 
chịu dường như vẫn hãn lên rõ rệt và nguyên vẹn trên từng khuôn mặt tượng, dù cho đã  
hai thế kỷ trôi qua. Vậy thì làm thế  nào để thoát khỏi đau thương? Nhà thơ  đã bộc lộ  rõ 
dụng ý nghệ thuật của mình: coi đây là "Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã". Quả thật, đây là 
một cuộc họp quá đỗi lạ lùng, bởi vì họ họp ở cõi Niết Bàn để bàn bạc về cuộc đời trần  
thế; và tất cả những người dự họp ai cũng lao tâm khổ tứ, ai cũng căng thẳng quyết liệt,  
rồi tất cả đều bế tắc, không đi đến một lối thoát khả  dĩ nào. Có thể nói đây là một cuộc  
họp đầy quyết tâm thoát khổ  thoát nạn, cứu vớt cuộc đời, nhưng rốt cuộc, là một cuộc 
họp không "nghị  quyết". Cho đến phút chót, và cho đến tận hôm nay, vẫn còn nguyên  
những dấu hỏi không có lời giải đáp, cho nên Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi".
Tứ  thơ  "cuộc họp lạ lùng" được triển khai kĩ hơn ở  khổ  thơ  tiếp. Nhà thơ  mô tả  những  
dáng điệu của các thành viên thật tội nghiệp và bất lực, tuy bất lực nhưng vẫn quyết tâm  
tìm kiếm. Có thể  nói đó là những nỗ  lực của những con người đầy tâm huyết. Và cũng 
chính vì tâm huyết nhưng bế tắc, cho nên mới sinh ra bi kịch, những bi kịch của lịch sử:
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu.
Tất cả mỗi thành viên đều ra sức tìm kiếm giải pháp cho lịch sử, song đều vô vọng, bởi  
vì họ  chỉ  biết hỏi "trời sâu". Hai chữ  "trời sâu" gợi lên một màn đêm tăm tối, không tia  
sáng, không niềm hy vọng. Vì thế mà các vị La Hán đã rơi vào nỗi tuyệt vọng không tránh 
khỏi:


Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Dấu chấm giữa dòng thơ  chặt câu thơ  ra làm hai. "Một câu hỏi lớn" vang lên quyết liệt,  
thúc bách, chờ đợi căng thẳng. Nhưng như  thể có một cánh cửa sập xuống, đẩy câu hỏi 
vào thế tuyệt vọng. Một dấu chấm thật đắc địa ­ dấu chấm mang nhiều nghĩa. Vì rơi vào 

tình trạng tuyệt vọng, nên trên mỗi gương mặt của Phật vẫn còn nguyên nỗi hận từ  200 
năm trước. Có thể  nói rằng đó là những nỗi hận cao quý bởi đã biết vì cuộc đời, vì dân  
tộc mà nung nấu.
Cùng một mối đồng cảm với các pho tượng La Hán này, nhà thơ  Chế  Lan Viên cũng có 
lần viết:
Cha ông ta từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời.
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời.
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng)
Nếu như ở Chế Lan Viên, các pho tượng được nói đến như một hiện tượng thơ ca mang  
màu sắc triết luận, thì  ở  Huy Cận chúng đã được quan tâm như  một mối đồng cảm sâu  
xa, thấm thía. Tiếng nói của nhà thơ là tiếng nói của một con người được may mắn sống 
trong thời đại cách mạng, suy nghĩ về những kiếp sống ông cha trong thời kì tăm tối nhất 
của lịch sử dân tộc.
Để làm nên những ý tưởng sâu sắc ấy, nhà thơ đã rất thành công trong việc sử dụng bút  
pháp mô tả. Như  chúng ta đều biết, các pho tượng vốn là sản phẩm của một loại hình 
nghệ  thuật điêu khắc, khi chuyển hóa vào trong thơ, sẽ  xảy ra hai khả  năng: hoặc làm 
sống dậy những bức tượng bằng ngôn từ, hoặc làm nghèo nàn xơ cứng, tầm thường hóa 


chúng. Nhà thơ đã dùng thủ pháp động hóa cái tĩnh, tập trung trong việc sử dụng hàng loạt 
động từ, làm cho sự sống vận động như nhìn thấy được: cuồn cuộn, cháy, vật vã, đổ  mồ 
hôi, cúi, nghiêng, ngoảnh, quay, hỏi, chau... Nhờ  vậy, nhà thơ  đã đem lại cho mỗi pho 
tượng một sự  sống có linh hồn, biến những khuôn mặt tượng thành những khuôn mặt 
người. Đây chính là tài năng nghệ thuật của tác giả.
Chỉ  với hai khổ  thơ  không dài trong một bài thơ  khá dài, nhưng đóng một vai trò quan 
trọng  ở  chỗ  đã chứa đựng cái tứ  thơ  "cuộc họp lạ  lùng" của 18 vị  La Hán. Đây là một 
cuộc họp ngẫu nhiên và hoàn toàn bế  tắc. Cũng bắt đầu từ  đây, nhà thơ  đã bộc lộ  mối  
đồng cảm sâu xa của mình với quá khứ cha ông. Đoạn thơ vừa có ý nghĩa kết tinh, vừa có  

ý nghĩa mở ra những suy tưởng sâu rộng và đằm thắm của nhà thơ trước cuộc đời mới.
 
 



×