Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nghị luận xã hội về câu tục ngữ Cái răng cái tóc là góc con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.22 KB, 5 trang )

Đề bài: Nghị luận xã hội về câu tục ngữ "Cái răng cái tóc là góc con người"
Bài làm
Người Việt từ xa xưa rất coi trọng hàm răng và mái tóc. Đó là cái nhìn đầu tiên để  đánh 
giá một người đẹp. Câu thành ngữ trên đã nói lên điều đó.
Thuở xưa, khi còn bé, con gái để tóc trái đào, nhưng đến tuổi trưởng thành thì không bao  
giờ  cắt tóc nữa mà cứ  để  cho dài mãi. Có được một mái tóc dài và bóng mượt là niềm  
kiêu hãnh của người con gái. Xưa kia muốn giữ được một mái tóc đẹp thì phải năng gội  
bằng nước bồ  kết cho sạch, gội xong phải xả  lại bằng chanh cho mềm tóc. Muốn tóc  
thơm thì cho lá hương nhu hay lá sả, hạt mùi, đun cùng nước gội đầu. Đứng cạnh người  
đàn bà mới gọi, ta ngửi thấy mùi hương thoang thoảng của đồng nội, của cỏ cây lá ngàn,  
và có biết bao chàng trai chỉ vì những mùi hương ấy mà phải một thời say đắm không dứt  
ra được.  Ở  miền Nam trồng nhiều dừa, người ta còn bôi nhẹ  một lượt dầu dừa lên mái  
tóc để lấy mùi thơm và làm bóng tóc. Ngày nay, những mùi hương đó có chăng chỉ còn lại 
trong hoài niệm của những người lớn tuổi.
Đến nay ta chỉ có những tấm ảnh chụp phụ nữ Việt Nam cuối thế kỷ 19, còn trước đó thì 
chỉ  có những mô tả  mơ  hồ  của các nhà du hành. Đầu thế  kỷ  17, linh mục người  Ý 
Christophoro Borri (1583­1632) đã đến Bình Định, lúc đó thuộc lãnh thổ Đàng Trong dưới 
sự cai trị của các chúa Nguyễn. Viết về cách để tóc của phụ nữ Việt ông nói: “Họ để tóc  
xõa và bồng bềnh trên hai vai, tóc dài đến mức chấm đất, và tóc càng dài, người ta càng  
cho là đẹp. Trên đầu họ đội một thứ mũ rộng vành, rộng đến mức che lấp cả mặt, khiến  
cho mắt nhìn chỉ thấy được có ba bốn bước phía trước, và cái mũ đó được tết bằng lụa 
hay vàng tùy theo thứ bậc của người đội. Sau đấy, các phu nhân để chào hỏi một cách lễ 
độ, phải ngả  mũ ra để  người ta có thể  nhìn thấy trước mặt.” Đoạn văn trên chỉ  cho ta  
những thông tin mơ hồ về cách để tóc của người Việt  ở miền Trung. Riêng cái mũ rộng  
vành thì có lẽ tác giả lầm cái nón chóp nhọn mà phụ nữ phía nam quân đội.
Hơn ba thế  kỷ  sau, bác sĩ quân y Charles­Édouard Hocquard theo quân viễn chinh Pháp 


đến Bắc Kỳ từ tháng 2­1884 đã ghi lại những trang về người phụ nữ mà ông đã gặp trong  
những ngày đầu đến Hà Nội: “Điều khiến tôi ngạc nhiên khi đến xứ sở kỳ lạ này, là khó  
khăn trong thời gian đầu để phân biệt đàn ông và đàn bà từ cái nhìn đầu tiên. Cả hai đều  


để tóc như nhau. Quần áo cũng gần như nhau. Đàn bà cũng quấn khăn như đàn ông […]”  
Tuy quan sát nhầm lẫn như vậy, nhưng Hocquard đã để lại cho chúng ta nhiều ảnh để có  
thể thấy cách để tóc của những đàn bà miền Bắc hồi đó.
Người phụ nữ đất Bắc thường buộc tóc về phía bên thành cuộn dài, bọc bên ngoài bằng  
một cái khăn hẹp mà dài rồi quấn quanh đầu từ phía trước ra phía sau. Đầu mối còn thừa 
thì giắt vào dưới vành khăn, để  xõa sang bên một túm tóc nhỏ  gọi là đuôi gà. Vì vậy mà 
câu “một thương tóc bỏ đuôi gà…” không phải xa lạ với các chàng trai xứ Bắc. Khi đi ra  
ngoài, để  giữ  cho tóc khỏi sổ  người ta thường trùm một cái khăn vuông, vừa là để  che  
nắng vừa chống rét. Người bình dân thường trùm khăn đen, phía trước trán gập nhọn 
giống như mỏ con chim nên được gọi là “khăn mỏ quạ”.
Trong khi đó ở miền Nam có lẽ do ảnh hưởng của người Hoa nhập cư ồ ạt từ các thế kỷ 
17­18, nên phụ nữ lại bới tóc cao sau gáy rồi cài một cái trâm giữ cho tóc khỏi sổ. Khi ra  
ngoài thì quấn quanh đầu một cái khăn rộng dệt ô đen trắng giống như khăn của phụ nữ 
Khmer hay Mã Lai. Người ta gọi đó là chiếc khăn rằn với nhiều công dụng như che nắng,  
lau mặt hay quàng lên người... Vào buổi đầu, đàn bà Việt  ở  thành thị  còn thua kém các 
thím Khách, cho nên cách bới tóc của người Hoa  được coi là mẫu mực, đã được cụ 
Vương Hồng Sển mô tả như sau: “Các ý trong Chợ  Lớn thì đầu bới tóc thả  bánh lái “ba  
vòng một ngọn”, ăn trầu tích toát, để  móng tay dài và mỗi lần xỉa thuốc thường vảnh  
ngón tay cho người ngoài thấy mình có cà rá hột xoàn bự, hay bộ  nhẫn vàng quấn kiểu  
“cửu khúc liên hoàn”. Trên vai mấy  ỷ  thường dắt một cái khăn vằn Nam Vang dùng để 
lau trầu, khác với mấy cô vợ Tây thì quấn chuỗi hột vàng gần gãy cổ, tay đeo kiềng vàng 
chạm kiểu “nhất thi nhất họa”, thêm mặc áo mớ  ba mớ  bảy, tóc xức dầu thơm chánh 
hiệu “Cô Ba”.
Dù để  tóc bới, nhưng người phụ  nữ  Huế  không quên quấn một chiếc khăn gợi nhớ  lại  
mái tóc quấn của người xứ Bắc. Nhưng với phụ nữ quý tộc thì khi vào chốn cung đình  


hay trong các dịp lễ tết, bắt buộc phải quấn khăn vành dây, thân phận càng cao quý thì cái  
khăn càng phải to và rộng. Chiếc khăn vành tồn tại mãi cho đến ngày nay đối với phụ nữ 
khắp ba miền trong các nghi thức đặc biệt và nhất là trong đám cưới.

Sang đầu thế kỷ 20, khi cuộc sống đô thị phát triển, người phụ nữ bắt đầu tham gia công 
việc xã hội, dần dần có mặt ở trường học, bệnh viện và nhiều nơi công cộng khác, khiến 
họ  phải tìm một kiểu tóc hợp lý hơn, thuận tiện trong công việc. Ngoài Bắc kiểu quấn 
tóc bằng khăn vải, dù là khăn nhung sang trọng hơn nhưng vẫn gây điều bất tiện, nên 
nhiều người đã chuyển sang quấn tóc trần khiến đầu tóc nhẹ nhàng mượt mà hơn. Việc  
quấn tóc trần khiến cho độn tóc bằng vải trở thành vô dụng, vì vậy những người tóc thưa  
phải dùng cái độn tết bằng tóc thật. Từ  đấy xuất hiện cái nghề  thu mua tóc rối để  chải  
thẳng ra kết thành cái độn tóc, không những có các cửa hàng chuyên bán tóc độn, mà còn  
có những người đi dọc các phố phường mồm rao “ai tóc rối đổi kẹo không?”
Cái khăn mỏ quạ đã nhường chỗ cho chiếc khăn san nhẹ nhàng bay bổng. Trên báo Ngày  
Nay các số  tháng 1­1935, bà Trịnh Thị  Thục Oanh, một nhà giáo nổi tiếng  ở  trường nữ 
học đã nhận xét rằng “từ  năm 1920 mốt mặc áo màu và quàng khăn san đã ra đời tại Hà 
Nội”. Nhưng rồi quấn tóc trần phải lùi bước dần nhường cho sự du nhập của tóc bới ở 
miền Nam. Chỉ có khác là tóc bới bây giờ buông thõng thấp che kín gáy tạo nên vẻ duyên  
dáng hơn.
Một trong những “cải cách” lớn của cái tóc là rẽ đường ngôi. Xưa kia, người phụ nữ đoan  
trang phải để đường ngôi thẳng chính giữa trán, những người đầu tiên dám rẽ đường ngôi 
lệch đã phải chịu sự dè bỉu của dư  luận. Năm 1937, trên báo Phong Hóa vẫn còn có bài 
chế giễu cô “Gái mới” với câu:
Gớm cô gái mới, mới làm sao!
Các mốt cô không thiếu mốt nào.
Đầu quấn tóc trần, ngôi rẽ lệch,
Chân lê mang cả gót đầm cao…


Nhưng khi  ở thành thị, đường ngôi lệch trở thành phổ  biến, thì ở nông thôn, nhiều cô gái  
trẻ  muốn đỏm dáng một tí vẫn còn chưa dám mạnh dạn. Khi tả một cô gái nửa tỉnh nửa 
quê trong truyện Cái Ve, nhà văn Khái Hưng đã nói đến “cái khăn nhung vấn lẳn vành, mái 
tóc rẽ  hơi lệch như  muốn theo kiểu mới, nhưng còn nhút nhát, rụt rè, chưa dám quả 
quyết”. Tóc vấn trần vẫn được chuộng vì giữ  được vẻ  cao sang hợp với những người 

luống tuổi.
Nhưng với những cô học sinh trẻ  muốn phân biệt mình với các chị  lớn tuổi hoặc đã có 
chồng, lại không bới tóc mà buông dài sau lưng và cặp lại. Mái tóc buông lả  lướt đi với 
chiếc áo dài mềm mại càng làm tăng thêm dáng bay bổng của người con gái ở độ tuổi dậy 
thì. Mặc dầu mái tóc dài vẫn là niềm tự hào của nhiều cô gái, nhưng tóc ngắn xõa ngang  
vai cũng được các cô nữ sinh ưa thích nên mới có câu “tóc thề đã chấm ngang vai”.
Bước sang những năm 1930, trong phong trào “vui vẻ  trẻ  trung”, những cuộc chợ  phiên 
(kermesse) và hội chợ đã được tổ chức ở nhiều thành phố lớn, tuy mục đích là để lấy tiền 
làm công việc từ  thiện (giúp dân bị  lụt, giúp trẻ  em nghèo…), nhưng lại là dịp cho nam 
thanh nữ tú phô bày sắc đẹp, thúc đẩy quá trình Âu hóa trong cách ăn mặc của thanh niên  
Việt Nam. Nhiều kiểu tóc mới đã được báo chí tung ra, tuy lúc đó chưa có tờ  báo nào  
chuyên về thời trang phụ nữ. Có lẽ thay đổi lớn nhất là lối chải tóc bồng phía trước trán,  
từ  chải bồng đơn giản đến quấn sâu kèn khiến cho đầu tóc cao lên, dáng người trở  nên  
chững chạc hơn.
Cho đến gần cuối Chiến tranh Thế giới thứ  hai, đầu tóc uốn xoăn mới xuất hiện, được  
gọi theo tiếng Pháp là “tóc phi dê”. Những người mạnh dạn đi đầu trong kiểu tóc này 
phần lớn là những người lấy Tây, hoặc các cô nữ  sinh “trường đầm”, những người đã 
quen với váy áo của phụ nữ Pháp.
Trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi tiếp đến đất nước bị chia cắt, miền Bắc Việt  
Nam bước vào một thời kỳ  khắc khổ  khiến cho việc để  tóc của phụ  nữ  phải đơn giản  
hóa đến tận cùng. Tóc dài cặp sau lưng tuy đơn giản nhưng vẫn bị  coi là vướng víu, 
không thích hợp với cuộc sống lao động. Tóc tết bím trở  nên phổ  biến từ  thành thị  đến 


thôn quê, vì nó gọn, đơn giản.
Trong khi ở miền Nam, do sự tiếp xúc thường xuyên với các mẫu tóc và các phương tiện  
làm tóc dồi dào, nên việc làm tóc của phụ nữ  trở  nên đa dạng, thì ở  miền Bắc, do thiếu  
phương tiện và không có báo chí thời trang tóc, nên việc làm tóc chỉ có thể dựa vào những  
hình ảnh ít ỏi của các cô diễn viên điện ảnh các nước Đông Âu. Tuy các hiệu làm tóc cho 
phụ nữ ở Hà Nội hay Hải Phòng có thể đếm trên đầu ngón tay, nhưng một số người làm 

tóc đã có nhiều cố  gắng, trong chừng mực cho phép, để  đưa ra những kiểu đầu tóc đẹp.  
Trong thời buổi mà quần ống bó còn bị bài bác, quần ống loe cũng bị cắt, thì tóc phụ nữ 
muốn làm đẹp vẫn còn phải dè dặt, không dám đưa ra những mốt quá mới lạ. Đó cũng là  
những cố gắng của những người thợ làm tóc thời đó, biết sáng tạo trong khuôn khổ  chật 
hẹp.
Phải đợi đến sau ngày đất nước thống nhất, rồi trải qua thời kỳ đổi mới, thì việc làm tóc 
của phụ nữ mới được phát triển một cách tự do. Đáng tiếc là trong những thời gian đầu, 
do không có những tạp chí thời trang tóc để  hướng dẫn, nên các kiểu tóc đưa ra thường 
mang những cái tên quá thô thiển, như “tóc xù mì” (giống như mì ăn liền), “tóc xù tăm”…  
Đến nay thì đội ngũ những người làm tóc chuyên chăm sóc sắc đẹp cho phụ nữ đã trở nên  
đông đảo, người phụ nữ có thể lựa chọn bất cứ kiểu tóc nào cho hợp với dáng vẻ và tuổi  
tác của mình, không còn sợ  những điều cấm kỵ của xã hội, họ  chỉ  theo một tiêu chí duy 
nhất là Đẹp



×