Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhà văn Kim Lân đã nói về truyện ngắn Vợ nhặt: Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống. Hãy chứng tỏ điều đó qua các nhân vật trong Vợ nhặt của ông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.39 KB, 6 trang )

Đề  bài: Nhà văn Kim Lân đã nói về  truyện ngắn Vợ nhặt: "Những người đói, họ 
không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống". Hãy chứng tỏ điều đó qua các nhân 
vật trong Vợ nhặt của ông
Bài làm
Vợ  nhặt là tác phẩm  ưu tú của nhà văn Kim Lân và cũng là một trong những thành tựu  
xuất sắc của nền văn học cách mạng. Tác phẩm ra đời cách đây đã trên bốn mươi năm,  
viết về một giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc: nạn đói năm 1945 ­ từ Quảng Trị 
đến Bắc Bộ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói; thế nhưng, tác phẩm không mang tính  
nhất thời và sẽ bất tử với thời gian bởi giá trị nhân văn cao cả: niềm tin không bao giờ tắt  
hướng về  con người. Trong tác phẩm, niềm tin  ấy được thể  hiện  ở  chỗ: những người  
đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.
Như nhiều tác phẩm trước đó viết về  nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm  
trước những số phận lương thiện và cùng khổ. ông không dành nhiều trang viết mô tả kĩ  
hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ ­ người chết đói như ngả rạ ­ mà chủ tâm thể hiện vẻ đẹp  
tinh thần ẩn giấu trong cái bề  ngoài xác xơ  vì đói khát của những người nghèo khổ. Cốt 
truyện Vợ  nhặt thật đơn giản: Một anh chàng nghèo khổ  ­ tên Tràng ­ độc thân, chỉ  với 
mấy câu "hò chơi cho đỡ nhọc", đã có được cô "vợ nhặt" ­ đang sống dở, chết dở vì đói. 
Họ thành vợ thành chồng giữa cái cảnh "tối sầm lại vì đói khát". Đêm tân hôn của họ âm  
thầm trong bóng tối, giữa tiếng hờ  khóc tỉ  tê của những nhà có người chết đói theo gió  
đưa lại. Bữa cơm cưới của đôi vợ  chồng trẻ  và người mẹ  già chỉ  có cháo loãng, muối 
hột, nhưng ăn uống rất ngon lành, trong hồi trống thúc thuế. Ba mẹ con vừa ăn cơm, vừa 
bàn chuyện Việt Minh phá kho thóc chia cho dân nghèo. "Trong óc Tràng, vẫn thấy đám 
người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới".
Ngay từ đầu, câu chuyện đã hiện lên đượm màu sắc tang thương tử khí: "Cái đói đã tràn  
đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ  
lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp 
lều chợ. Người chết như  ngả  rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm 


đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi  ẩm 
thối của rác rưởi và mùi gây của xác người". Thực không còn gì ảm đạm hơn bức tranh  


quê ấy. Trong khi trước đó không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, "cái xóm ngụ cư tồi tàn  
ấy lại xôn xao lên được một lúc" còn bây giờ, cái đói đã đè nặng lên vai mỗi người; ngay 
cả  bọn trẻ  ­ những đứa bé hồn nhiên, vô tư  nhất cũng mất đi sự  tự  nhiên, ngây thơ  của 
mình, chúng ủ rũ, không buồn nhúc nhích...
"Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát  ấy, một buổi chiều, người trong xóm bỗng thấy  
Tràng về  với một người đàn bà nữa". Tràng dẫn người đàn bà này về  làm vợ, xây dựng 
gia đình, sinh con đẻ cái để tiếp nối sự sống. Giọng văn lúc này thật dồn nén và gây cảm 
xúc mạnh, mộc mạc mà lôi cuốn: "Mặt hắn có vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm 
cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh". Đọc đến đây, ta không thể không nghĩ 
đến những trang bi kịch của sêcxpia, Môlie hay Xtăngđan. Tuy nhiên, bi kịch  ở  đây đã  
vượt lên sự thông thường vẫn có; nó cũng không phải là "hiện thân của sự ngu dốt" như 
Mác nói, mà trở  nên sự  cao cả  "đẹp tươi lạ  thường". Đó là biểu hiện cao nhất của sự 
chiến thắng, vượt lên trên thực tại chết chóc, đen tối để hướng tới sự sống, niềm tin, ánh  
sáng. Với chi tiết Tràng cùng vợ  đi về  nhà, chủ  nghĩa nhân đạo trong văn học nước nhà 
cũng có thêm một tiếng nói mới, có sức mạnh.
Chuyện lấy vợ của Tràng, trước hết là một chuyện lạ mà thú vị. Điều ấy đã khiến người 
dân ở xóm ngụ cư hết sức tò mò, từ bọn trẻ con cho đến tất cả người làng: "Họ bàn tán... 
Họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên". Từ trong sâu thẳm tâm hồn 
những người dân làng, le lói lên một chút niềm vui. Họ  thú vị  nghĩ tới chuyện Tràng có  
vợ. Có thể nói, trong phút chốc, khi Tràng cùng với cô "Vợ nhặt" đi về làng, cái chết, sự 
ảm đạm âm u nơi xóm ngụ cư được đẩy sang một bên. Xóm ngụ  cư  đang ở  trên miệng 
vực cái chết, bỗng hé lên một thoáng sống.
Nhưng, niềm vui vừa đến, đã phải nhường chỗ cho sự âu lo. Dân làng lo thay cho Tràng:  
"Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này  
không". Tuy nhiên, đó không phải là nỗi lo tuyệt vọng, mà là lo cho cái sống. Sự chết chóc 
cứ ám ảnh, đe dọa sự sống, nhưng sự sống vẫn vượt lên cái chết. Khuôn mặt "rạng rỡ"  


của người dân làng, ánh mắt của họ thực ý nghĩa, nói với chúng ta bao điều.
Ở bước đường cùng, người ta sinh ra liều lĩnh ­ điều đó thực đúng lắm thay! Hành động 

nhân đùa làm thật của cô gái theo chân Tràng về nhà, xét đến cùng, là một hành động liều  
lĩnh. Tràng gặp người đàn bà  ấy tất cả  chỉ  có hai lần vào các dịp chở  thóc lên tỉnh. Với  
Tràng, chị ta chẳng để lại trong anh một ấn tượng gì. Bởi thế, lần thứ hai gặp lại, Tràng 
phải mất một thời gian mới nhận ra và cũng như  nhiều nhân vật khác trong các sáng tác 
của Nam Cao, cái dạ  dày chị  đã chiến thắng khối óc và con tim: được Tràng đãi, chị  ăn 
liền một chập bốn bát bánh đúc. Cái đói đã đẩy lùi ý thức nhân cách, sĩ diện. Quên cả 
thẹn thùng, người đàn bà không tên ấy cắm đầu ăn "không chuyện trò gì". Khi Tràng ngỏ 
lời, không cần suy nghĩ, chị cũng đi theo một cách dễ  dàng, "vô tư  lự". Thế  mới hay, cái 
đói ghê gớm biết chừng nào. Và hai cái "liều" gặp nhau đã tạo nên một gia đình thời tao  
loạn. Điều đáng chú ý là ở đây, khi cùng người "Vợ nhặt" về nhà, Tràng bỏ ra hai hào để 
mua một chai dầu, điều này có nghĩa là anh đã thắp lên một ngọn lửa trong cuộc sống tăm 
tối của mình, đem lại chút ánh sáng cho gia đình cũng như  dân làng. Điều này chi phối 
toàn bộ  văn phẩm. Cũng từ  cuộc "hôn nhân" của Tràng, những người đời mới thực sự 
không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.
Khi Tràng cùng vợ  về nhà, cuộc sống trước mắt họ không kém phần thảm hại: căn nhà  
vắng teo, rúm ró; niêu bát, áo xống bừa bộn... ôi, lấy vợ  cưới chồng, yên bề  gia thất! 
Việc lớn một đời, hạnh phúc trăm năm! Vậy mà, họ  bị  bủa vây bởi sự  nghèo đói chết  
chóc. Nhưng, sự sống là bất diệt, chẳng bao giờ  chán nản. Trong cái chết, sự  sống vẫn  
tồn tại, tìm chỗ sinh sôi nảy nở. Tất cả thật dữ dội, mà ý nghĩa thì lớn lao: sự sống luôn  
tồn tại, bất chấp cái chết...
Việc hai người xa lạ bỗng gắn bó với nhau trong cơn đói kém, chứng tỏ  quyết tâm nghĩ 
đến cái sống của hai người, đem lại cho họ  ­ trước hết là Tràng một niềm vui lớn lao.  
Trong truyện ngắn, hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực  
của Tràng, khi đã có vợ. Tình yêu của hai người, có sức cải biến thật lớn.
"Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả 


cái đói khát đang đe dọa... Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi  
bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy...". Đúng vậy. Niềm 
vui lớn nhất đời anh đã thành sự thực: có vợ. Cái "mới mẻ", "lạ lẫm" ấy là tinh thần trách  

nhiệm của một người chủ gia đình sẽ phải lèo lái con thuyền nhà ­ gia đình qua thời điểm 
khó khăn, vươn lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt để  xây dựng cuộc sống. Tràng bỏ  sau 
lưng tất cả những tiếng hờ khóc, tiếng quạ kêu...
Chỉ sau một đêm "nên vợ, nên chồng", Tràng thấy mình có sự đổi khác: "Trong người êm  
ái lửng lơ  như  người  ở  trong giấc mơ  đi ra. Việc hắn có vợ  đến hôm nay hấn vẫn còn  
ngỡ như không phải...". Chuyện được "vợ  nhặt" của Tràng ngỡ  như  đùa nhưng lại là sự 
thật; bao nhiêu sự sống, sinh khí trở lại với Tràng, với gia đình sau khi anh có vợ. Và cũng  
từ  buổi "sáng hôm sau đó", dường như  tất cả  sự thực chết chóc không còn tồn tại nữa, 
Tràng chỉ  nghĩ đến sự  gây dựng cuộc sống, hướng về  sự  sống mà tạo lập hạnh phúc:  
"Tràng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn  
sẽ cũng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa, che nắng. Một nguồn  
vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ  hắn mới thấy hắn nên  
người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này"...
Có thể  nói, đó là biểu hiện cao nhất của tinh thần hướng về sự  sống, quên đi cái chết 
đang bủa vây.
Vợ  Tràng là một nhân vật khá độc đáo. Chị  không có tên, không tuổi, không đặc điểm 
nhận dạng và quê quán. Tưởng rằng, khi chị theo Tràng đi về nhà, với sự chao chát, chỏng  
lỏn, văn học Việt Nam lại có thêm một nhân vật "không bình thường". Nhưng không, ngòi  
bút Kim Lân chưa bao giờ  để  nhân vật của mình tha hóa, biến chất đến độ   ấy. Khi về 
đến nhà Tràng, con người thật của chị  mới hiện lên đầy đủ. Chị  cứ  "ngồi mớm  ở  mép  
giường, hai tay ôm khư khư  cái thúng". Vì sao vậy? Cái thế  ngồi rụt rè, chông chênh ấy  
cũng là cái thế của lòng chị, trăm mối ngổn ngang. Liệu chỗ ngồi  ấy có phải là chỗ  của  
chị không? Nhà này có phải chốn để chị dung thân?
Và cũng như  Tràng, sau một đêm làm vợ, chị  đã thay đổi hẳn: "Trông chị  hôm nay khác  


lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực...". Cái đói một khi được xua đi, thì sự 
tốt đẹp đúng như  bản chất hiền trở  lại với chị.  Ấy cũng là lúc chị  nghĩ đến sự  sống, lo  
cho gia đình mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ  đầy ang... Có bàn tay săn  
sóc của chị, căn nhà trở nên gọn gàng, sáng sủa. Sự sống trở về với người với cảnh...

Bà cụ  Tứ  càng để  lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thấy con lấy vợ  trong 
hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi bùi ngùi, thương xót: "Chao ôi, người ta dựng vợ  gả 
chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái, mở mày mở 
mặt sau này. Còn mình thì...". Nhưng, bà thực sự vui mừng khi con trai đã yên bề gia thất:  
"Bà lão nhẹ  nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ 
hẳn lên...". Rồi trong bữa cơm, cả  ba mẹ con đều quên đi hiện thực đau lòng để  hướng  
đến một tương lai tươi đẹp hơn:
"Tràng  ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ  đầu bếp kia làm cái 
chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại, chả  mấy mà có ngay đàn gà cho mà  
xem...".
"Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắng xua đi thực tại hãi 
hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên, món chè cám đã nhắc 
họ về với thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta ăn cám mới 
cảm thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đọa, bắt họ  phải sống cuộc sống loài vật,  
nhưng  nào có   dập  tắt  được   phần  NGƯỜI  đáng  quý trong  mỗi con  người.   Cái  phần  
NGƯỜI ấy, sẽ giúp họ vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Sẽ  là thiếu sót lớn nếu bỏ qua hình ảnh những người nông dân trên đê Sộp cùng nhau đi  
phá kho thóc, khi nói đến những kẻ hấp hối trong vòng tử  địa vẫn hướng tới cuộc sống.  
Đó là hình ảnh không hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chuẩn bị từ trước. Nó là dấu  
hiệu của "bước đường cùng", không còn cách giành sự sống nào khác, phải vùng dậy đấu  
tranh, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy "ân hận, tiếc rẻ  vẩn vơ, khó  
hiểu" bởi anh chưa bắt được mạch nguồn cách mạng. Trước mắt người đọc lúc này, sự 
sống trở thành mục đích chung của mọi người; họ đấu tranh, đoạn tuyệt dứt khoát với cái  


chết. Và chắc chắn, mẹ con Tràng sẽ tiếp nối dòng người kia, giành sự sống cho mình. 
Vợ  nhặt là thành công xuất sắc của nền văn học cách mạng. Với truyện ngắn này, Kim  
Lân bày tỏ  thiện cảm sâu sắc với những người nghèo khổ, nhưng giàu lòng nhân ái. ông 
luôn khẳng định cái đói khát, chết chóc không thể giết chết niềm tin vào cuộc sống. Năm 
tháng qua đi, còn mãi với thời gian là chất nhân văn cao cả của một nghệ sĩ nhân đạo.




×