Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Phân tích chất thép biểu hiện trong bài thơ Giải đi sớm của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.96 KB, 4 trang )

Đề bài: Phân tích chất thép biểu hiện trong bài thơ Giải đi sớm của Hồ Chí Minh
Bài làm
Trong một bài thơ ở tập Ngục trung nhật ký, phát biểu "cảm hứng đọc thiên gia thi", Hồ 
Chí Minh nêu nhận xét: "Thơ xưa nghiêng về việc ca ngợi (Thiên ái) cảnh đẹp của thiên  
nhiên như mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông" và từ đó Người phát biểu quan niệm của  
mình:
"Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong".
Bàc Hồ quan niệm như thế và đã làm như  thế. Đọc toàn bộ  tập thơ Người viết trong tù,  
bài nào cũng lấp lánh chất thép Giải đi sớm là một trong những bài thơ ấy
Gà gáy một lần đêm chửa tan

Người đi thi hứng bỗng thêm nồng.
Thế nào là chất thép trong thơ Bác? Nhà phê bình Hoài Thanh cho rằng: "Khi Bác nói trong 
thơ có thép, ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép ở trong thơ. Có lẽ phải hiểu một cách rất 
linh hoạt mới đúng Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép mới có tinh thần thép".  
(Đọc Nhật ký trong tù, NXB Tác phẩm mới. HN. 1977). Nghĩa là có khí chất thép được 
biểu hiện một cách trực tiếp, dễ  hiểu, dễ  thấy; nhưng có khi lại được biểu hiện một 
cách gián tiếp rất nhẹ  nhàng, tế  nhị  và kín đáo.  ở  những bài thơ  này, chất thép chủ  yếu  
thể  hiện trong tư  thế  và phong độ  ung dung của người tù. Trong hoàn cảnh  ấy mà vẫn 
giữ  được tư  thế  và phong thái  ấy, thì phải là người có bản lĩnh và nghị  lực phi thường  
lắm, thứ  nghị  lực và bản lĩnh kiểu Quan Vân Trường trong tiểu thuyết của La Quán  
Trung. Chất thép của bài Giải đi sớm là loại chất thép thể hiện một cách gián tiếp này.
Bài thơ chia làm hai khổ, hai bức tranh vừa ghi lại một hiện thực vừa phác hoạ được một 


tư thế ung dung thi sĩ của người viết. Khổ I bao gồm bốn câu:
Gà gáy một lần đêm chửa tan
Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn
Người đi cất bước trên đường thẳm
Bao trùm lên toàn bộ khổ thơ là hình ảnh một "người đi xa" (Chính nhân) trên "con đường 


xa" (Chinh đồ  thượng), với một tư  thế hiên ngang "mặt đón gió thu từng trận, từng trận  
lạnh". Nếu không biết hoàn cảnh ra đời của bài thơ  thì không thể  biết được đây là hình 
ảnh của người tù. Người đọc chỉ  thấy có một "người đi xa" lên đường rất sớm, khi gà 
mới gáy lần đầu, khi trăng sao đang còn vằng vặc tròn đỉnh núi mùa thu, người ấy đã có 
mặt trên "con đường xa". Không một lời ca thán, không một mảy may run sợ  hay chán 
chường, tuyệt vọng, mà hoàn toàn ở một tư thế chủ động, làm chủ hoàn cảnh và làm chủ 
bản thân mình; chủ động lên đường và chủ động đón từng đợt gió thu lạnh lẽo.
Nếu như  khổ  thơ đầu là bức phác hoạ  tư  thế  của người đi xa trong lúc đất trời còn dày 
đặc bóng đêm, thì đến khổ thơ thứ hai tác giả lại tập trung làm nổi bật tình cảm, cảm xúc  
của mình khi bình minh đã tới.
Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn quét sạch không
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ
Người đi thi hứng bỗng thêm nồng.
Trước hết đây là bức tranh tả thực về một bình minh đang ló rạng của một buổi sáng mùa  
thu đẹp đẽ. Thời gian như  đang dịch chuyển, từ  khổ  thơ  đầu sang khổ  thơ  thứ  hai, đất 
trời từ bóng đêm u ám bỗng đột ngột chuyển sang màu trắng và bừng lên một màu hồng 
sáng lạng của vầng dương; bầu trời thu như trong sạch không để lại một chút vương sót  
của bóng đêm; cái lạnh lẽo của trận trận gió thu ở khổ thơ trên biến mất, nhường lại cho 


hơi ấm bao la trùm lên khắp đất trời, sông núi, cỏ cây... Nếu như ở khổ thơ trên, chất thép 
thể hiện trong tư thế ung dung và tinh thần chủ động của người đi xa, thì ở  khổ  thơ  thứ 
hai này, chất thép ấy lại toát ra từ cảm hứng nồng  ấm, từ cách nhìn, cách cảm nhận hết 
sức khoẻ  khoắn, lành mạnh của nhà thơ. Muôn đời câu nhận xét của Nguyễn Du vẫn  
đúng: 'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" (Kiều). Bức tranh tả thực trên không thể có  
được  ở  một tâm hồn đang giá lạnh,  ủ  rũ, chán chường và tuyệt vọng. "Cái noãn khí bao 
la" kia là của mặt trời thực mang lại hay là của vầng dương đang ngời chói trong lòng 
người đi xa? Điều gì đã mang lại cho người tù bị "Giải đi sớm" ấy một cái nhìn, một cảm  
hứng khỏe khoắn và nóng đượm, lạc quan và lãng mạn; hơn nữa còn là "thi hứng" cho  

một thi nhân? Điều gì đã xóa sạch những mặc cảm và "dấu vết" của một tù nhân, nhường 
chỗ  cho cảm hứng của một thi nhân. Sẽ  không trả  lời được những câu hỏi đó nếu như 
không hiểu bản lĩnh kiên cường, ý chí gang thép, thái độ  ung dung tự  tại, luôn bình tĩnh,  
nắm được quy luật của xã hội, của đất trời và tin tưởng ở tương lai của người chiến sĩ ­  
nhà thơ  cộng sản Hồ  Chí Minh. Điều này cũng giúp chúng ta hiểu tại sao trong thơ  Bác 
luôn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ  đêm tới ngày, từ  mưa đến nắng. từ  khổ 
đến vui, từ hiện tại đến tương lai .
Trong ngục giờ đây còn tối mịt
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi
(Nhật ký trong tù)
Hết mưa là nắng hửng lên thôi
Hết khổ là vui vốn lẽ đời
(Nhật kí trong tù)
Ví không có cảnh đông tàn
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân
(Nhật ký trong tù)


Thuyền về trời đã rạng đông
Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi
(Đi thuyền trên sông Đáy)
Thơ  tù là một bộ  phận nổi bật của thơ ca cách mạng thời kỳ  này. Với các nhà thơ  cách 
mạng khác, chất thép, tinh thần thép thường biểu hiện trực tiếp  ở  tinh thần chiến đấu,  
trong hình ảnh người chiến sĩ:
Vẫn đứng thẳng trên đường đầy lửa máu
Chân kiêu căng không thoái bộ bao giờ
(Tố Hữu – Tâm tư trong tù)
Nhưng ở Hồ Chí Minh thỉ khác, trong các thi phẩm tiêu biểu và hay nhất của Người trong  
Nhật ký trong tùy chất thép thường thể  hiện  ở  chất thơ, bản chất người chiến sĩ lồng  
trong hình tượng người thi sĩ: Giải đi sớm là một trong những bài thơ như thế.




×