Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.1 KB, 13 trang )

Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn 
Tuân

I. Mở bài 
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống.  
Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ 
bút Ng ườ
i l ái đò sông Đà.  T ác phẩm đã khắc hoạ  vẻ  đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa  
trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.
II. Thân bài 
1. Giới thiệu chung.
Tuỳ bút Ng ườ
i l ái đò sông Đà d ượ
c in trong t p tu
ậ  bỳ út S ông Đà (1960), g m 15

 
bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng 


CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong  
kháng chiến chống Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế  năm 1958. Nguyễn Tuân đến với 
nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn  
xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát hiện  
những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là th  vứ àng mười đã được thử 
lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.
Qua Ng ườ
i l ái đò sông Đà,  Nguy n Tu

ân với lòng tự  hào của mình đã khắc hoạ 


những nét thơ mộng, hùng vỹ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh  
con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ 
sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất nước trong xây  
dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng 
Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ  mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài  
hoa.
2. Phân tích nhân vật người lái đò. 
Người lái đò hiện lên trước  hết  là  một người lao  động  từng trải,  có  nhiều kinh 
nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả  sự  quyết đoán  
nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở  đó, tất cả 
những phẩm chất  ấy được bộc lộ, nếu không phải trả  giá bằng chính mạng sống của 
mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông  
Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy  
hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện  
ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một :
Đá  ở  đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như  mỗi lần có chiếc  
thuyền nào xuất hiện  ở quãng  ầm  ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào  


đường ngoặt sông là một số  hòn bèn nhổm cả  dậy để  vồ  lấy thuyền. Mặt hòn đá nào  
trông cũng ngỗ  ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả  cái mặt nước chỗ  này  
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông.  
Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái  
thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa  
sẵn...”
Trong thạch trận  ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận  
địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy 
thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la  
não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con  
thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương,  

hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như  cái luồng sóng đánh hồi lùng, 
đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ  hiểm. Ph á xong cái trùng vi thạch trận thứ  nhấ,t  
người lái đò ph á luôn vòng vây thứ  hai. 

Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần 

sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng  
người lái đã chủ  động t n c
ấ ông:  C  ph
ứ óng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó.  
Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, 
thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự  động lái được  
lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức  ấy, người lái đò chỉ  có một cán chèo, một 
con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của 
loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn  
đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản  
dị, nhờ  lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở  nên lớn lao, kì vĩ, trở  thành đại 
diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ  ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà  
chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố  làm nên chất vàng  


mười của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài  
hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ 
là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới 
nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu 
phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái  
đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật  ở đây là nắm chắc các  
quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

Quy luật  ở  trên con sông Đà là thứ  quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, 
thiếu chính xác, hay lỡ  tay, quá đà đều phải trả  giá bằng mạng sống. Mà ngay  ở  những 
khúc sông không có thác lại dễ  dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào 
cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước  
hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông  
thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều  
hoạt động trong sự  phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung,  
thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại 
thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá  
anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ  những tiếng to như  mìn  
bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến  
thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính,  
sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công 
sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày  
nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái 
thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ  H  ngh

ĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải  
chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn 
Tuân.


III . Kết bài 
Tuỳ  bút Ng ườ
i l ái đò sông Đà l à tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa 
uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ  ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ  mộng  
của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ  đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người 
dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ  tình yêu đất nước, niềm tự 
hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.
Bài tham khảo 1

Một tác phẩm văn học lớn, có giá trị  sống mãi trong lòn người đọc thì tác phẩm đó  
phải xây dựng được những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình hội tụ  đầy đủ 
tài năng và tâm huyết của người nghệ sĩ. Nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò  
sông Đà” của Nguyễn Tuân là một nhân vật như thế.
Dưới ngòi bút thần kì của Nguyễn Tuân, bức tranh thiên nhiên sông Đà hiện lên vô  
cùng hung bạo, trữ tình có vị  trí quan trọng làm nên một tấm phông rất phù hợp để  hình  
tượng người lao động ở trên núi rừng Tây Bắc nổi lên với hai phẩm chất, đó là chất anh  
hùng và chất nghệ sĩ mà tiêu biểu là ông lái đò rất gan dạ, dũng cảm gần hai mươi năm 
chiến đấu với thác đá song nước sông Đà để tồn tại. Tay lái của ông được miêu tả là “tay  
lái ra hoa”. Ông lái đò hiện lên trong những trang văn của Nguyễn Tuân đầy ấn tượng với  
những nét về ngoại hình đúng là một con người của sông nước: Ông gần bảy mươi tuổi  
nhưng rất chắc khỏe “thân hình gọn quánh như  chất sừng, chất mun”, “tiếng nói ào ào 
như sông nước”. “hai tay dài lêu nghêu như cái sào lái đò”, “hai chân khuỳnh khuỳnh như 
đang kẹp chặt cái cuống lái trong tưởng tượng”… Chỉ vài nét phác họa tài hoa mà nhà văn  
như  chạm khắc hình tượng ông lái đò như  là một anh hùng trên sông nước, vĩnh viễn  
đọng lại vào trái tim bạn đọc để dự báo về nhân vật cả cuộc đời gắn với nghề lái đò và 
mức độ tay nghề đã đạt đến mức nghệ sĩ.
Có lẽ  bao tình cảm đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân được gửi gắm vào  


nhân vật ông lái đò, nên nhà văn đã để  nhân vật của mình gắn bó với sông Đà đến mức  
máu thịt, hiểu và yêu dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh hơn một  
nghìn tên dù dễ hay khó đều hội tụ lắng đọng thành một dòng chảy trong trái tim của ông 
lái đò hay chính là trái tim của Nguyễn Tuân. Ông  thuộc dòng sông như thuộc một “bản  
trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống  
dòng”. “Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật 
phục kích của lũ đá nơi  ải nước”. Chính vì thế  mà ông lái đò đã khuất phục, chế  ngự 
được sự hung bạo của dòng sông Đà. Ông không phải thần thánh mà chỉ là một người lao  
động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với chí dũng song toàn nên ông vẫn chiến 
thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại lao động sáng tạo trong công cuộc xây dựng bảo  

vệ Tổ quốc. Tính cách của ông lái đò được cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với  
nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận. Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người  
đọc đặc biệt  ấn tượng với những câu văn tả  đá được nhân hóa như  một đội quân: “đá 
tảng, đá hòn”..;, “đá tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa  
sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của  
đội quân đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy theo sở  thích”. “ăn chết”,  
‘canh cửa”, “hất hàm’…Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm nổi bật tính  
hung bạo: “ngỗ  ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó…Tất cả  làm nổi bật thế  và lực của đá  
sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân sức với ông lái đò chỉ 
có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc bao phấp phỏng, hồi hộp.  
Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá”, tạo nên  
âm thanh dữ  dội tăng thêm không khí chiến đấu ác liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn 
đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối…Có thể nói  
Nguyễn Tuân đã rộng mở  sự  uyên bác tài hoa của mình để  kho ngôn từ  phong phú sinh 
động đầy  ắp trong mọi lĩnh vực của sự  sống, tuôn chảy không ngừng cả  các ngôn ngữ 
quân sự  thể  thao, quân sự  cũng được huy động với tần số  đậm đặc để  cực tả  đá nước  
sông Đà. Đây chính là nghệ  thuật vẽ  mây đẩy trăng để  gián tiếp ca ngợi chí dũng song 


toàn của ông lái đò. Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường 
“ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”…chỉ huy ngắn gọn kín đáo 
và ông đã chiến thắng “phá song trùng vi thạch trận thứ nhất”.
Ở  trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử  “dòng thác hùm  
beo đang hồng hộc tế  mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”…Những 
động từ  mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với  
phép tu từ  so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng,  
sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên tư thế hào 
hùng của ông lái đò.
Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến  
thuật”, “ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật 

phục kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thác  
sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi thác để 
mở  đường tiến”. Những động từ  mạnh liên tiếp lại như  đưa người đọc vào cuộc chiến 
của sóng nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của  
ông lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai 
Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở 
chặng thứ  ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái đò.  
Nguyễn Tuân miêu tả  “bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lái đò phải vận  
dụng tài năng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái 
mô tô bay trong không trung để  “xuyên qua mặt nước”…những động từ mạnh “vút” hay  
“xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so  
sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ  nhanh mạnh vừa cam nhận được  
độ  khéo léo của con thuyền trong hướng đi luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Nghệ 
thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái 
đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.


Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con 
người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng 
ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong 
nghề.
Bài tham khảo 2
Với mười lăm bài tùy bút và một bài thơ  phác thảo sau chuyến thực tế  ngược miền  
Tây Bắc điệp trùng mà đầy kỳ  thú, tập “Tùy bút sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân ra 
đời (1960) đã góp cho văn học nước nhà một tác phẩm giá trị  khẳng định cuộc sống và 
con người Tây Bắc trong sự  nghiệp dựng xây đất nước “Người lái đò sông Đà” là một  
thiên tùy bút đặc sắc trong tập tùy bút của Nguyễn Tuân. Đặc biệt hình  ảnh ông lái đò 
dũng cảm và tài ba đã để  lại  ấn tượng khó phai mờ  trong tâm trí người đọc. Cùng với  
hình tượng này, phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân càng rõ thêm, ấn tượng  
thêm.

Nhân vật ông lái chắc chắn sẽ bị mờ nhạt nếu như tác giả chỉ miêu tả ông trong cuộc  
mưu sinh phẳng lặng trên sông nước hiền hòa. Người lái đò trong tác phẩm thực sự  trở 
thành hình tượng chân thật và sông động là sự  ký thác ý tưởng thẩm mỹ  của Nguyễn  
Tuân, văn sĩ suốt một đời say mê kiếm tìm và khẳng định cái đẹp. Hình tượng ông lái đò 
đẹp một cách kiêu hãnh trong mối tương quan đồng hiện với nhân vật sông Đà dữ dằn mà 
kỳ vĩ ! Đấy cũng chính là dụng ý tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Tuân, khi ông muốn  
“ghi” ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông  
Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà
Vẻ đẹp đầy ấn tượng về ông lái đò là sự lồn tại sống động trước thử thách ghê gớm  
của dòng sông Đà. Ta hình dung như  cả  một “thạch trận trên sông” dàn giăng muốn bổ 
chụp hòng nuốt lấy con thuyền và ông lái. Trong tình thế  ấy, sông Đà mới dữ dội và kỳ 
quái làm sao: “Nó bầy thạch trận trên sông. Đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chặn  


ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc...”. Trong trận đồ bát quái 
đó “với đá, nước thác reo hò làm thanh viện... những hòn đá bệ  vệ  oai phong lẫm liệt”,  
sông nước mà dữ dằn như quỷ dữ. Nhưng cũng chính từ cảnh tượng dữ dội mà kỳ vĩ ấy, 
hình tượng ông lái hiện lên rõ ràng trong vẻ đẹp của sức mạnh và bản lĩnh cao cường.
Thiên nhiên muốn lấn át, muốn nuốt sống, ông lái đò bình tĩnh và quả  cảm vượt lên 
sóng dữ: “Ông lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hắt lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng  
vào mình”. Bao nhiêu thử thách của sông nước ông lái phải vượt qua. Không có nghị  lực 
phi thường và sự bình tĩnh chủ động làm sao ông qua được con quỷ dữ sóng nước: “có lúc  
chúng muốn đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông lái đò 
đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt...”.
Quả là nhà văn Nguyễn Tuân đã huy động một binh chủng ngôn ngữ thật đa dạng, ở 
nhiều lĩnh vực để miêu tả đầy kịch tính, đầy ấn tượng về cuộc giao tranh giữa con người 
(ông lái đò) và thiên nhiên (sông Đà). Những cảm giác mạnh luôn đến với ta đấy là cái dữ 
dội mà kỳ vĩ của dòng nước ấy là cái bình tĩnh chủ động đầy quả cảm, đầy bản lĩnh của  
ông lái đò. Con người dũng cảm tài ba và thiên nhiên dữ  tợn kỳ  quái cùng lao vào trong  
cuộc quyết chiến. Và hình tượng ông lái đò càng về sau càng trở nên kiêu dũng, quyết liệt  

đến tận cùng trong cuộc giao đấu. Ông lái vượt lên sóng dữ bằng dũng khí tuyệt vời bởi  
ông “cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ... Ông lái đò ghì cương lái 
bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà miết một đường chèo  
về phía cửa đá ấy”.
Một đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân là “thiên nhiên hay con người  
đều được chú ý khám phá  ở  phướng diện văn hóa, mĩ thuật của nó”. Vì thế, ta còn bắt  
gặp  ở  đây hình  ảnh một ông lái đò rất mực tài hoa, nghệ  sĩ bên cạnh vẻ  đẹp của lòng  
dũng cảm và bản lĩnh cao cường trước thử thách của thiên nhiên.
Một tư thế tuyệt đẹp của ông lái lúc “ghì cương” mà “phóng nhanh vào cửa sinh” cho  


ta thấy  ấn tượng về một chàng kỵ sĩ dũng mãnh và rất đỗi hào hoa. Một phong thái bình 
thản, tự tin khi ông lái ứng chiến với sóng dữ”... đè sắn lên mà chặt đôi ra để mở  đường 
tiến”.   Và   hình   ảnh   con   thuyền   vượt   lên   “như   một   mũi   tên   tre   xuyên   nhanh   qua   hơi  
nước...” đem đến cho ta một cảm giác vừa sảng khoái, vừa hả  hê trước sự  chiến thắng 
của ông lái ­ nghệ sĩ. Và đây ­ hình ảnh cuối của người lái đò cũng là hình ảnh tập trung  
của sự ký thác tâm tình và nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
“...Trên thác hiên ngang một người lái đò sông Đà có tư do, vì người lái đò ấy đã nắm  
được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà. Hình tượng ông lái đò một con người  
lao động bình dị  mà phi thường được Nguyễn Tuân khắc họa như  một biểu tượng đẹp 
của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Đây là một cách nhìn, cách 
khám phá và khẳng định con người Việt Nam trong thời đại mới ! Chính vì thế  tùy bút  
“Người lái đò sông Đà” nói riêng và mười lăm thiên tùy bút về sông Đà của Nguyễn Tuân  
nói chung đã góp phần khẳng định vẻ đẹp của cuộc sống mới và con người mới trên đất  
nước Việt Nam chúng ta.
Bài tùy bút “Người lái đò sông Đà” mà ấn tượng mạnh mẽ là cuộc vượt thác sông Đà 
của ông lái đò giúp chúng ta nhận ra một điều lý thú: vẻ đẹp hào hùng tài hoa của những  
người lao động bình thường nơi có dòng sông ngọn thác hoang vu kia là có thật. Chủ 
nghĩa anh hùng cách mạng đâu chì có ở nơi chiến trường với tiếng súng tiếng bom gầm.
Đọc hết “Người lái đò sông Đà” mà tâm trí ta vẫn như hiển hiện hình ảnh ông lái đò  

dũng mãnh và hào hoa với con thuyền nhỏ cưỡi lên sóng dữ mà đi tới mà chiến thẳng, vẻ 
đẹp ấy huy hoàng và tráng lệ làm sao!
Bài tham khảo 3
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác 
phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình  
cảm gắn bó với đất nước quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về 


phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. Người lái đò Sông Đà, đó là một 
bài tùy bút, cũng là một bài thơ  bằng văn xuôi đã thể  hiện được những nét tiêu biểu về 
phong cách đó.
Người lái đò Sông Đà trước hết là một tác phẩm viết về một con người và một con  
sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông mọi cảnh vật thiên nhiên đều  
trở  thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở  thành những nghệ  sĩ điêu luyện.  
Bằng sự  tiếp cận quan sát và khả  năng mô tả  cùng với một kho chữ  nghĩa vô cùng giàu  
có, chuẩn xác, Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình 
tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà trong tác phẩm, trước hết là một ông già bảy mươi tuổi, đã  
giành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò lão  
luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ  lái 
độ sáu chục lần..." trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ 
này. Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt 
đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng  
nước của tất cả  những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tò sự  khâm phục 
đối với con người này. "Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca 
mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng". 
Thật là một cách so sánh “rất văn chương" đầy thú vị và cũng "rất Nguyễn Tuân".
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to  
và gọn quánh như  chất sừng, chất mun" và những cánh tay vẫn là cánh tay của một 
"chàng trai', "trẻ tráng quá", Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “Vàng mười”, ông đã đứng  

trước những thách thức của con sông Đà với những thế  lực của những bãi đá ghê gớm, 
những cạm bẫy đầy kinh hoàng: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả 
một chân giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi  
lần có chiếc nào xuất hiện  ở  quãng  ầm  ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền 


nào nhô vào đường ngoặt sóng là một số  hòn bèn nhổm cả  dậy để  vồ  lấy thuyền". Và  
một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất  
lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh minh, ùa 
vào mà bè gẫy cán chèo, vũ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và  
hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt  
lưng ông đò, đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Có lúc tưởng  
như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông... Cách miêu tả chân thực và táo bạo này cho  
thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ, con người chỉ  cần lóa mắt, lỡ  tay một 
chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng dũng cảm và gan dạ  chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ  của người 
cầm lái để  lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ  thuật. Tác giả  so sánh người lái đò  
sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo, tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe còn có 
phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại, "còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả 
có cái phanh nào cả, chỉ  có lao đi chứ  không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì 
thuyền quay ngang mà  ụp, chứ  không có lùi gì cả..”, vẫn bằng phương pháp so sánh, 
nhưng với những hình ảnh táo bảo, khơi gợi lạ lùng, tác giả đã tả sông Đả thiên biến vạn 
hóa, mỗi chỗ như có một bầy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng  
phó riêng. Có chỗ  thì nước sông "reo lên như  đun sôi lên một trăm độ  muốn hất tung đi 
một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp  ấm nước đang sôi khổng lồ". “Có luồng  
nước đi lầm vào thì chết ngay". Lại có những “hút nước" xoáy sâu như  lòng giếng “cái 
hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi"...
Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trờ, đầy nguy nan cho con người. Thế  nhưng,  
“ông lái đò cố  nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cải cuống lái..." Mặc dù mặt  
“méo bệch đi" vì những đòn hiểm, nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng  

chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả  đến tột cùng sự  dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhằm  


đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng  
vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình 
yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt mười lăm năm làm người lái thuyền  
vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người và thiên nhiên thật ghê gớm, căng thẳng, đầy 
sáng tạo và con người đã chiến thắng, trở  về  cuộc sống thanh bình: "Thế  là hết thác.  
Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh (...). Sông nước lại thanh bình. 
Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam...".
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả  thực, tạo cho  
đoạn văn một sức lôi cuốn không thể  cưỡng nổi. Đó là một bài ca về  lao động, về  con  
người lao động. Sau mười năm làm nghề lái đò, cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên  
ngực người lái đò vẫn còn "bầm tụ” một “củ khoai nâu", với Nguyễn Tuân, “đó cũng là 
cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng".
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật 
đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức và tri thức về  cuộc  
sống, về  văn hóa và lịch sử  địa lí, về  ngôn ngữ..., tác phẩm còn là một khối kiến trúc  
thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc, cái đẹp của con người  
cụ thể, con người lao động Người lái đò Sông Đà. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ  
tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian lao nguy hiểm nhưng  
đầy vinh quang.



×