Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Phân tích những điểm giống và khác nhau của hai truyện ngắn Một đám cưới (Nam Cao) và Vợ nhặt (Kim Lân)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.86 KB, 6 trang )

Đề bài: Phân tích những điểm giống và khác nhau của hai truyện ngắn "Một đám  
cưới" (Nam Cao) và "Vợ nhặt" (Kim Lân)
Bài làm
Một đám cưới gồm sáu người lủi thủi đi trong sương lạnh và bóng tối như  một gia đình  
xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ  ngủ... Một đám cưới vẻn vẹn có hai người bước 
trên con đường về xóm ngụ cư tồi tàn, trong cái cảnh tối sầm vì đói khát, giữa không khí  
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người... Hai đám cưới tựa như hai 
bức tranh minh họa cho cái vụ đói khủng khiếp diễn ra  ở miền Bắc nước ta hồi tháng 3/  
1945. Tuy có những mảng màu sáng tối khác nhau nhưng cả hai đều được vẽ nên từ chất  
liệu hiện thực cuộc đời và tinh thần nhân đạo đậm nét. Nam Cao và Kim Lân đã để  lại  
cho chúng ta hai "đám cưới" thật đặc sắc và cảm động.
Trong cuộc sống, có những sự kiện đặc thù giúp chúng ta nhìn rõ hoàn cảnh xã hội. Đám 
cưới là một sự kiện như vậy. Đây là cảnh tượng biểu hiện rất tập trung trạng thái nhân  
thế, phong hóa xã hội; là sự kiện vui nhất của một đời người. Ấy vậy mà hai đám cưới ở 
đây được miêu tả  khác hẳn. Bao trùm lên tất cả  là một không khí buồn bã,  ảm đạm và 
những giọt nước mắt. Đó là nét chung đầu tiên mà người đọc cảm nhận được qua "Một 
đám cưới" (Nam Cao) và "Vợ nhặt" (Kim Lân).
Nam Cao viết "Một đám cưới" năm 1944, khi mà cái đói mon men tới gần, len lách vào 
từng ngõ nhỏ  cuộc đời những người dân lao động, vốn đã cơ  cực, triền miên trong bần  
cùng khốn khó, nay họ  lại lao đao trước vực thẳm của sự đói nghèo. Qua đám cưới của 
Dần, một cô bé mới 14, 15 tuổi, tác giả đã tái hiện một cách rất chân thực không khí của  
những ngày đói kém. Còn Kim Lân, qua câu chuyện anh cu Tràng "nhặt" được vợ  cũng 
góp phần làm sinh động hơn vụ đói khủng khiếp ấy. Cả hai tác phẩm đều thuộc dòng văn  
học hiện thực, đối tượng mà Nam Cao và Kim Lân miêu tả  đều là những người dân lao  
động lam lũ trong những làng quê nghèo khó. Điều đó cũng dễ  hiểu. Bởi lẽ  nạn đói lan  
đến đâu thì người khổ nhất, đói nhất vẫn là những người dân ấy. Đặc biệt, cả hai tác giả 
đều nhân sự  kiện "cưới chạy đói"  ở  nông thôn thời  ấy để  phản ánh hiện thực. Có lẽ 


chính vì vậy mà giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm càng trở nên sâu sắc. Cả hai tác 
phẩm đều mang cái không khí  ảm đạm, buồn thảm của đói kém nhưng lại có cái ấm áp 


của tình yêu thương đùm bọc trong một gia đình nông dân nghèo, của sự  chia sẻ, cảm 
thông giữa những người khốn khổ trong cơn bĩ cực. Có ngẫu nhiên chăng khi người khốn  
khổ trong cơn bĩ cực. Có ngẫu nhiên chăng khi người chồng của Dần (Một đám cưới) và  
người vợ  của Tràng (Vợ  nhặt) đều là những nhân vật không tên? Phải chăng đó đều là  
dụng ý nghệ  thuật của tác giả. Tuy có nhiều điểm chung nhưng hai tác phẩm cũng thể 
hiện những nét khác biệt. Đám cưới của Dần dẫu sao cũng có vẻ  "sang" hơn đám cưới  
của Tràng. Cô bé  ấy được cưới xin cẩn thận. Còn Tràng, chỉ  vài câu bông đùa, mấy bát  
bánh đúc thế mà tự nhiên có vợ. Truyện ngắn của Kim Lân hấp dẫn người đọc có lẽ cũng 
bởi tình huống truyện độc đáo ấy. Nhưng người đọc đều nhận thấy cả hai kiểu "nên vợ 
nên chồng"  ấy đều toát lên cái nghèo khó, thảm hại. Đám cưới của Dần, đầy đủ  hơn 
nhưng vẫn phô bày nguyên trạng một đám cưới chạy đói. "Chú rể  xách một chẽ  cau  
chừng một chục quả, bà mẹ  khoác cái áo nâu dài đã bạc  ở  trên vai.. Dần mặc những áo  
váy' ngày thường nghĩa là một cái quần cồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to, 
một cái áo cánh nâu bạc phếch vá cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên tay rách quá, đã xé cụt 
gần đến nách". Còn vợ  Tràng "cắp cái thúng con đầu hơi cúi xuống", cái nón rách tàng  
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt". Một đám cưới đi trong đêm sương lạnh, một đám  
cưới về trong chiều tàn u uất, ảm đạm. Dù là ngòi bút của Nam Cao hay Kim Lân cũng có  
những đoạn văn ám  ảnh về  cái đói lan tràn. "Dưới những gốc đa, góc gạo xù xì bóng  
người đói dật dờ  đi lại lặng lẽ  như  những bóng ma. Tiếng quạ  trên mấy cây gạo ngoài 
bãi chợ  cứ  gào lên từng hồi thê thiết". Khung cảnh  ấy khiến ta không thể  không liên 
tưởng đến ý nghĩ lễ  rước dâu của Tràng đang diễn ra bên cạnh những bóng ma đói vật  
vờ. Cái đói đang gặm nhấm những con người ở xóm ngụ cư tồi tàn. Những cuộc đời mỏi 
mòn đang sống dật dờ bên lề  số  phận như  một quá trình chết mòn. Họ  đợi chờ  một cái 
chết dần dần như ngọn lửa ăn từ từ vào thân nến. Nam Cao cứ nhẩn nha miêu tả cái đói.  
"Cuộc sống mỗi ngày một khó thêm. Gạo kém, thóc cao. Ngô, khoai cũng khó chuốc được  
mà ăn. Thậm chí đến hạt muối cũng sinh ra hiếm nốt..". Đằng sau những lời văn tưởng  
như  sắc lạnh  ấy là một tâm hồn tràn ngập lòng thương cảm của tác giả. Bữa cơm cưới 


của Dần diễn ra âm thầm, trong một không khí nặng nề, buồn bã. "Ba bố con lặng lẽ ăn.  

Người cha ăn vài lượt cơm, rồi buông bát đũa.. Thằng lớn và cơm phùng mồm ra bị nghẹn 
mấy lần". Bữa cơm của gia đình Tràng diễn ra còn thảm hại hơn nhiều. "Giữa cái mẹt 
rách có độc một lùm rau chuối thái rối và đĩa muối ăn với cháo". Món "chè khoán" của bà  
cụ Tứ khiến cho cảm giác buồn tủi, cay đắng trong gia đình tăng thêm "miếng cám đắng 
chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong, 
tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người". Dần đi lấy chồng và có 
lẽ cô bé hiểu được vì sao phải làm thế. Tràng có vợ mà vẫn chưa hết ngạc nhiên. Hai bà  
mẹ trong hai tác phẩm thì hoàn toàn khác nhau. Mẹ chồng Dần nhanh nhảu, khéo ăn khéo  
nói, với suy nghĩ phải khôn ngoan làm sao cho được việc. "Tài ăn nói của người ta, một 
đời mới có dịp dùng đến độ  vài lần... công việc của bà, mười phần đã xong đến chín  
phần rồi. Còn một tí chút nữa mà thôi. Tội gì không ngọt ngào với người ta cho yên  ổn  
cả". Ngược lại, bà cụ  Tứ  sau cái giây phút ngỡ  ngàng thì tràn ngập tình thương đối với  
đôi vợ chồng mới. Bà không mau mồm mau miệng, bà rất kiệm lời nhưng người đọc lại 
dành cho bà một tình cảm lớn. Đọc "Một đám cưới", người đọc lại bắt gặp những giọt  
nước mắt. Từ  hình ảnh Dần "khóc hu hu" khi về thăm nhà, "khóc đến quá nửa đêm" khi 
biết phải đi lấy chồng đến khi "khóc nấc lên" lúc phải xa cha. Trong tác phẩm còn có 
những giọt nước mắt thổn thức rơi trong lòng người bố. "Vợ  nhặt" có xen cả  những  
tiếng cười. Ngoài dòng nước mắt thương con, tủi phận của bà cụ Tứ, tiếng hờ khóc tỉ tê, 
câu chuyện dường như tươi sáng hơn nhờ  những tiếng cười. Đó là tiếng "reo cười" của  
bọn trẻ  con, "cười hềnh hệch" của Tràng, nhưng cũng đủ  làm "cái xóm ngụ  cư   ấy mỗi  
chiều lại xôn xao lên được một lúc". Chi tiết này làm chúng ta nhớ  đến cái xôn xao của  
phố  huyện mỗi lần chuyến tàu đêm chạy qua trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" (Thạch  
Lam). Tiếng cười "rung rúc" của người dân xóm chợ, tiếng "cười khanh khách" của  
Tràng, cái cười "đon đả" của mẹ  Tràng... Tất cả  những chi tiết Kim Lân miêu tả  tiếng  
cười trong truyện làm cho không khí của "Vợ nhặt" đỡ u ám hơn "Một đám cưới". Chính  
điều này cũng làm cho chủ đề hai tác phẩm có những nét khác biệt. Đọc "Một đám cưới" 
của Nam Cao, bên cạnh bức tranh hiện thực xám xịt là một tấm lòng trong trẻo, hiếu thảo  
của Dần. Mới 14, 15 tuổi, cô bé  ấy đã quán xuyến, xếp đặt công việc nhà cửa rất chu 



đáo. Ta như được gặp lại cô bé Liên đảm đang, chịu khó (Hai đứa trẻ). Không chỉ có thể,  
qua cách nói chuyện với bố, ta còn nhận thấy một tâm hồn nhạy cảm, một nếp suy nghĩ 
"già" hơn tuổi của nó rất nhiều. Phải chăng cũng như Liên, Dần là một trái cây chín sớm  
bởi nắng gió cuộc đời. Yêu thương, hiếu thảo với cha mẹ, Dần đi  ở  từ  năm mười hai.  
Chi tiết ấy còn gợi lại cho chúng ta hình ảnh cái Tí (Tắt đèn) lúc bị bán cho nhà Nghị Quế.  
Cũng vì thương cha và các em, Dần đi lấy chồng. Dân được Nam,Cao miêu tả khóc nhiều 
lần, nhưng có lẽ  chỉ một lần Dân khóc cho mình. Ay là khi cô bé "khóc hu hu" đòi ở  nhà  
chịu khổ chứ không ở cho nhà bà Chánh nữa, khi ấy Dần mới mười hai tuổi. Cho đến tận  
lúc ta nghe thấy tiếng nức nở  cuối cùng của Dần "Thầy đừng... đi... lên rừng", ta chợt 
hiểu thêm tấm lòng của cô bé  ấy. Tất cả  những lần khóc sau này, cô cũng chỉ  nghĩ đến 
thương cha, thương em mà thôi. Nam Cao đã khắc họa rất thành công vẻ  đẹp tâm hồn 
trong sáng, giản dị, đức hi sinh thầm lặng, cao đẹp của cô bé. "Vợ  nhặt" của Kim Lân 
mang một chủ đề  khác. Cũng trên cái nền hiện thực xanh xám, lởn vởn những bóng ma, 
giữa bầu không khí tưởng như  ngạt thở   ấy là một khát vọng vươn lên sống, khát khao 
hạnh phúc, vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để  mà vui, mà hy vọng. Ta cũng nhận  
thấy bầu không khí của chuyện khi chùng khi giãn, xen kẽ  buồn vui. Giữa cái đói đang 
giằng xé, những người dân xóm chợ  vẫn có giây phút "khuôn mặt hốc hác u tối của họ 
bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm  
tối  ấy của họ". Thì ra họ  vẫn còn yêu cuộc đời lắm. Có yêu cuộc đời họ  mới "bàn tán" 
trước cảnh Tràng đi với cô "vợ  nhặt". Họ  vẫn còn quan tâm đến cuộc sống của người 
khác dù sau tiếng cười vui, hiện thực lại xuất hiện trong mắt họ "Biết có nuôi nhau sống 
qua được cái thì này không?" Và họ nín lặng. Nhưng ta tin vào khát vọng sống của họ biết  
bao. Trong gia đình Tràng cũng có những lúc không khí "co giãn" như thế. Sau cái buổi tối 
kết thúc bằng tiếng hờ khóc ngoài xóm vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ, thì sáng hôm sau Tràng tiếp  
xúc với bầu không khí khác hẳn. Trước mắt anh ta là một "cảnh tượng thật đơn giản,  
bình thường" mà "lại rất thấm thìa cảm động" để rồi bỗng nhiên nhen nhóm trong Tràng 
tình cảm yêu thương gắn bó với gia đình. Giữa cái nạn đói ­ cái nạn đói mà lịch sử nước  
ta có lẽ  chẳng thể  nào quên  ấy ­ có được những tia sáng của hy vọng và niềm tin vào  
cuộc đời như vậy thật đáng trân trọng. Trước cách mạng, Nam Cao chưa có cái nhìn tươi 



sáng như thế. Kết thúc của câu truyện "Một đám cưới" để lại cho người đọc những dòng 
suy nghĩ không dứt, những câu hỏi xung quanh cái kết mà như mở ấy. Rồi Dần sẽ sống ra  
sao? Bố  Dần có lẽ  vẫn quyết định lên rừng một chuyến? Số  phận của những đứa em 
Dần liệu có sáng sủa lên không? Kim Lân thì khác. Cái kết của "Vợ  nhặt" để  lại một  
niềm tin rằng Tràng rồi cũng sẽ  tham gia vào đoàn người phá kho thóc Nhật. "Trong óc 
Tràng vẫn thấy đám người đội và lá cờ đỏ bay phấp phới...". Hình ảnh lá cờ đỏ trong đầu  
Tràng tựa như một nguồn sáng tỏa ấm, phá vỡ  cái bầu không khí thảm đạm, tưởng như 
bế tắc của cuộc sống. Đến một người như Tràng ­ một người tưởng như chả suy ngẫm  
gì nhiều ­ mà còn có được suy nghĩ như thế thì chắc chắn những người dân xóm chợ cũng  
ý thức được điều đó.
Cả  Nam Cao và Kim Lân đều có chung một kiểu kết cấu truyện. Mở đầu là không gian  
của hiện tại và xen giữa hiện tại là các khoảng hồi tưởng về quá khứ rồi kết thúc ở hiện  
tại. Điều này rất thường gặp  ở  những truyện ngắn của Nam Cao. Mặc dù "Một đám 
cưới" mở  ra lúc trời chưa sáng "còn tối om" hay "Vợ  nhặt" bắt đầu vào chập tối "lúc  
chạng vạng mặt người" thì hai khoảnh khắc  ấy dường như rất gần nhau. Cái thê thảm, 
nhợt nhạt của cuộc sống đói quay đói quắt càng được nổi rõ qua màu thời gian nhờ nhờ,  
tôi tối  ấy. Tuy nhiên, Nam Cao khép câu chuyện lại trong một không gian tối, còn Kim 
Lân kết thúc  ở  khoảng sáng của một ngày mới. Tính về  thời gian, hai chuyện diễn ra  
trong hai khoảng thời gian gần như bằng nhau. Tuy nhiên chính cách chọn thời điểm để 
mở và kết truyện cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm.

Thế  là đã có hai đôi "nên vợ  nên chồng". Một người vì thương cha, thương em mà lấy 
chồng. Một người vì thương thân, vì miếng ăn mà cũng liều nhắm mắt sàng ngang. Cả 
hai đám cưới đều là để chạy đói, để duy trì sự sống. Chọn sự kiện này, Nam Cao và Kim  
Lân đã phản ánh rất chân thực về cái đói, về cuộc sống khốn khó của những người dân.  
Tuy nhiên nếu chỉ xét ở khía cạnh ấy thì thật khập khiễng. Có lẽ cái cốt yếu chung nhất 
của hai tác phẩm là cái gốc nhân đạo cao cả và sâu sắc của các tác giả. Cuộc đời của Dần 
coi như đã định sẵn nhưng còn lại trong ấn tượng của người đọc không phải là một đám 



cưới buồn lặng, sầu tủi. Ấn tượng in đậm nhất vẫn là tấm lòng hiếu thảo của một cô bé  
thông minh, chịu khó. Người con gái không tên kia dẫu có vì miếng ăn mà lấy chồng thì ta  
cũng không trách thị. Bởi còn lại trong ta không phải là sự u ám, xác xơ, heo hút, điêu tàn 
của xóm ngụ  cư  mà là không khí đầm  ấm, đùm bọc, yêu thương lẫn nhau. Đặc biệt là 
khát vọng sống mãnh liệt vươn lên trong mỗi người dân lao động nơi đây. Dù có những 
nét tương đồng và khác biệt, dù là cách diễn đạt này hay diễn đạt kia thì Nam Cao và Kim  
Lân vẫn xuất phát từ một điểm chung: nhân đạo. Chẳng phải thế sao? Ca ngợi, trân trọng 
những phẩm chất tốt đẹp  ở  con người cũng là nhân đạo. Phản ánh hiện thực cũng bắt  
nguồn từ  nhân đạo. Nói lên khát vọng, mơ   ước cao đẹp của con người là gì nếu không  
phải từ  lòng nhân đạo? Chính vì thế, nhìn từ  góc độ  này ta thấy nó giống nhau, nhìn từ 
góc độ  kia ta lại thấy hoàn toàn khác. Cái chung là từ  những cái riêng. Riêng và chung,  
tương đồng và khác biệt nhiều khi là một. Cho nên, không đúng và cũng thật khó khăn  
nếu có ai đó định tìm sự hơn hẳn của tác phẩm này với tác phẩm kia. Chúng ta cần phải  
công nhận rằng đó là hai bức tranh rất độc đáo, đặc sắc và tiêu biểu cho nền văn học hiện  
thực lúc bấy giờ.
Đọc "Một đám cưới" của Nam Cao và "Vợ nhặt" của Kim Lân tôi chợt nhớ đến một câu  
nói của Lỗ Tấn trong tác phẩm Cố hương: "Trên thế giới này vốn làm gì có đường mòn. 
Người ta đi mãi thì thành đường thôi...". Quả  đúng như  thế. Nam Cao và Kim Lân cũng 
đều đi trên một con đường mà thôi ­ con đường được xây nên bằng mối quan hệ  hiện  
thực và nhân đạo. Chỉ  có điều mỗi nhà văn có cách đi riêng của mình và họ  đã bước  
những bước chân không trùng nhau.
 



×