Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Phân tích những phát hiện của nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa liên hệ với cái chết hình tượng của Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.02 KB, 14 trang )

Đề bài: Phân tích những phát hiện của nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa liên hệ 
với cái chết hình tượng của Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
Dàn ý phân tích nhân vật Phùng liên hệ với cái chết của Vũ Như Tô

I. Mở bài:
­ Giới thiệu chung về  Nguyễn Minh Châu, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa” và nhân vật 
Phùng.
II. Thân bài: 
Phân tích những phát hiện và sự tỉnh ngộ của nhân vật Phùng.
1. Những phát hiện của Phùng.
­ Phùng là một nghệ sỹ nhiếp  ảnh. Theo đề  nghị của trưởng phòng, anh cần chụp một bức  
ảnh cảnh biển cho bộ lịch tháng bảy năm sau. Nơi anh tìm kiếm cảm hứng sáng tạo là một 
vùng quê ven biển, cũng là nơi từng là chiến trường và ở đó còn có Đẩu ­ người đồng đội cũ 
của anh giờ là Chánh án Tòa án huyện.
­ Anh dày công tìm kiếm “mai phục” hàng tháng mới bất ngờ  bắt gặp “một cảnh đắt trời 
cho” trên hành trình “săn ảnh” ­ cảnh chiếc thuyền trên mặt biển trong sương mù của buổi  
bình minh. Chứng kiến và thu vào ống kính khung cảnh đó, trong lòng Phùng trào lên niềm  
xúc động, hạnh phúc, cảm giác “tâm hồn như được thanh lọc”.
­ Nhưng cũng chính trong khoảnh khắc đó, anh lại tận mắt thấy cảnh một người đàn ông 
hàng chài đánh vợ  một cách tàn nhẫn, thô bạo. Sự  thực trần trụi, tàn nhẫn phơi bày trước  
mắt và xảy đến quá nhanh khiến Phùng kinh ngạc tột độ, thoạt đầu chỉ  biết “đứng há hốc  
mồm ra mà nhìn”. Điều này cho thấy, Phùng hoàn toàn chưa có ý thức chuẩn bị  cho mình 
một tâm thế  sẵn sàng đối diện với muôn vàn nghịch lý của cuộc đời. Tiếp sau, Phùng còn  
phải trải qua nhiều “kinh ngạc”  nữa: cậu bé Phác, vốn thân với anh, bỗng xa lánh và dường  
như thù ghét anh; người đàn bà được anh “cứu” xem ra không mấy biết ơn ân nhân bất đắc  
dĩ, thậm chí còn không muốn anh can dự  vào chuyện của chị  ta; kẻ  bị  hành hạ  dứt khoát 
không bỏ người chồng đã nện mình như cơm bữa,..
2. Phùng với hành trình từ ngạc nhiên đến “vỡ lẽ” và “bừng ngộ”.
­ Cuộc nói chuyện với người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện đã khiến Phùng “vỡ  lở” 
nhiều điều.



+ Anh ngỡ rằng, mình đang giúp người phụ nữ này thoát khỏi bất hạnh nhưng lại không hề 
biết rằng chính sự  giúp đỡ  đầy thiện chí đó lại đẩy người phục nữ cùng đàn con của mình  
vào tình thế sống còn bi thảm hơn. Bỏ chồng, người phụ nữ có thể không phải chịu đòn “ba 
ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng sẽ cơ cực bội phần khi phải đơn độc 
vật lộn mưu sinh, đàn con sẽ tan đàn sẻ  nghé khi gia đình tan vỡ, không chỉ  là thất học mà 
còn đối mặt với bao nguy cơ: đói cơm, rách áo; sông tha phương, vất vưởng tự mưu sinh.
+ Anh đầy tự  tin mình là một người trí thức ­ nghệ sĩ đủ nhạy cảm, mình là người đã trải 
nghiệm sâu sắc những năm chiến đấu để thuyết giáo một người đàn bà lao động nghèo khó, 
thất học mà không ngờ  rằng, những gì anh có quá nghèo nàn, hời hợt, nông cạn, thậm chí 
ngây thơ. Chính người đàn bà lam lũ, thất học kia mới dạy cho anh những bài học đời thấm 
thía, sâu sắc, giúp anh nhận ra và hiểu rằng còn có bao nhiêu những  ẩn  ức của cuộc đời,  
những góc khuất tối của đời sống con người mà không phải ai cũng nhìn thấy và thấu hiểu.
3. Liên hệ  với cái chết của hình tượng nhân vật Vũ Như  Tô  trong đoạn trích "Vĩnh 
biệt Cửu Trùng đài” để  làm sáng tỏ  nhận thức chung của mỗi nhà văn về  mối quan 
hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
­ Những phát hiện và sự  tỉnh ngộ, “vỡ lẽ” của phóng viên nhiếp ảnh Phùng gợi người đọc  
liên tưởng đến cái chết của hình tượng nhân vật Vũ Như  Tô trong trích đoạn “Vĩnh biệt 
Cửu Trùng đài” (trích vở kịch Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng.
+ Vũ Như Tô là một kiến trúc sư  thiên tài, có khát vọng nghệ  thuật cao đẹp là xây dựng 
được một công trình “bền như trăng sao” có thể “tranh tinh xảo với Hóa công”, làm vinh dự 
cho cả một dân tộc. Nhưng tòa lâu đài tráng lệ có tên Cửu Trùng Đài mà ông dốc toàn bộ tâm  
sức, tài năng xây dựng, bất chấp cả những cơ cực, khổ nạn của thợ thuyền và nhân dân khi  
bị bóc lột tận xương tủy đó lại là công trình kiến trúc chỉ phục vụ nhu cầu hưởng lạc sa đọa 
của Lê Tương Dực ­ một hôn quân với các cung nữ.
+ Xung đột không thể  hòa giải giữa khát vọng nghệ  thuật thuần túy của Vũ Như  Tô và 
những người dân đói khổ  bị  bắt phải đi xây dựng Cửu Trùng Đài đã dẫn đến hậu quả  tất 
yếu: Cửu Trùng Đài bị  đốt, Vũ Như  Tô bị  đưa ra pháp trường, chấp nhận cái chết mà vẫn 
chưa thể tỉnh ngộ việc vì sao mình phải chết, cớ gì Cửu Trùng Đài bị đốt.
+ Cái chết của Vũ Như  Tô là khó và không thể  tránh khỏi khi người nghệ  sĩ này tuyệt đối  

hóa cái đẹp, đặt cái đẹp của nghệ  thuật bên ngoài những mối quan hệ  xã hội, đặt cái đẹp 
trên cái thiện, thậm chí chà đạp lên cái thiện. Chỉ chạy theo đam mê nghệ sĩ cá nhân dù đó là 


khát vọng cao đẹp nhưng bỏ rơi, lãng quên nỗi khổ cực, đói nghèo của nhân dân, nghệ sĩ và 
sản phẩm anh tạo ra sẽ không thể có chỗ đứng trong đời sống, tất yếu sẽ bị hủy diệt.
­ Từ đây có thể thấy cả Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Minh Châu đều thể hiện nhận thức 
chung sâu sắc, thấm thía về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
+ Nghệ thuật, người nghệ sỹ luôn phải gắn bó với đời sống con người và phải luôn vì con  
người bởi một nguyên lý muôn đời: nghệ thuật là cuộc đời, nghệ  thuật sẽ  chẳng là gì nếu  
không vì cuộc đời, con người mà có. “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn 
học” (nói riêng), nghệ thuật (nói chung).
+ Cuộc đời, con người mà nghệ thuật chân chính cần hướng tới, cần quan tâm hơn cả phải  
là cuộc đời của quần chúng nhân dân lao động ­ những con người đáng thương, thường phải 
chịu nhiều thua thiệt; những con người đau khổ, bất hạnh nhất trong mọi xã hội.

Bài văn mẫu tham khảo liên hệ quan niệm về nghệ thuật và cuộc 
sống qua Chiếc thuyền ngoài xa và Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị  chủ  yếu của nhân cách là sự 
cống hiến, hy sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện chủ 
yếu trong mối quan hệ với đồng chí, đồng bào, với kẻ  thù. Sau năm 1975, văn chương trở 
về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong số  những nhà văn đầu tiên của thời 
kỳ đổi mới đã đi sâu khám phá đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi làm cho người đọc 
ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội  
phức tạp, chằng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được nhu cầu nhìn nhận và hoàn  
thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện  Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh 
Châu là phát hiện về đời sống và con người theo hướng đó.
Phát hiện thứ  nhất của nhân vật nghệ  sĩ nhiếp  ảnh là một vùng biển từng là chiến trường  
cũ của anh, nơi anh đã dự tính bố  cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng để  “chộp” được một  
cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra vẻ 

đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả  đời bấm máy có lẽ  anh chỉ  có diễm  
phúc bắt gặp được một lần: “trước mặt tôi là bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ.  
Mũi thuyền in một nét loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như  sữa có pha đôi chút màu 
hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc 
như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn  
qua những cái mắt lưới… toàn bộ  khung cảnh từ  đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và 


đẹp… Tôi tưởng thấy chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự  hoàn thiện, khám  
phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Niềm hạnh phúc của người nghệ  sĩ  
chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự  cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu.  
Dường như  trong hình  ảnh về  chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ  sương, anh đã bắt  
gặp cái tận Thiện, tận Mỹ, thấy tâm hồn mình như  được gột rửa, trở  nên thật trong trẻo,  
tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời.
Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lý, nó bất ngờ  và trớ  trêu 
như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã từng có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập  
tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, anh  đã từng chiêm  
nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, vậy mà hoá ra đằng sau cái đẹp “toàn bích…  
toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lý  
của sự toàn thiện”. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước  
ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn và độc  
ác, coi việc đánh vợ  như  một phương cách để  giải toả  những uất  ức, khổ  đau. Phùng đã  
từng là người lính cầm súng chiến đấu để  có vẻ  đẹp thanh bình của thuyền biển mênh  
mông, anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lý và  
thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con lão đàn ông đã kịp tới để  che chở 
cho người mẹ  đáng thương. Chỉ  đến lần thứ  hai, khi lại phải chứng kiến cảnh  ấy, Phùng 
mới thể  hiện được bản chất người lính không thể  làm ngơ  trước sự  bạo hành của cái ác. 
Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về  trạm y tế của toà án huyện, ở  đó 
có chánh án Đẩu, bạn chiến đấu cũ của anh. Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang 
trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ  thuốc rửa quái đản làm  

những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng  
khiếp, ghê sợ.
Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện là câu chuyện về sự  thật cuộc đời, 
nó giúp những người như Phùng và Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô  
lý. Bề ngoài đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành  
hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, vậy mà vẫn 
nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình của người  
mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hy sinh của bà là tình thương vô 
bờ với những đứa con: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có những người 
đàn ông ở thuyền để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con  
nhà nào cũng trên dưới chục đứa… phải sống cho con chứ  không thể  sống cho mình…”. 


Nếu hiểu sự  việc một cách đơn giản, chỉ  cần yêu cầu người đàn bà bỏ  chồng là xong.  
Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử  sự  của bà là không thể 
khác được. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh 
phúc nhỏ  nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no… trên thuyền  
cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”; “Ông trời sinh ra người đàn 
bà là để  đẻ  con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn…”. Qua câu chuyện của người đàn bà  
càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của  
cuộc sống.
Tư  tưởng nghệ  thuật đó của Nguyễn Minh Châu thấm sâu trong hầu hết các nhân vật của 
truyện ngắn: người đàn bà vùng biển, lão đàn ông độc ác, chị em thằng Phác, người nghệ sĩ  
nhiếp ảnh.
Tác giả chỉ gọi là “người đàn bà” một cách phiếm định. Tuy không có tên tuổi cụ thể, chỉ là 
một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy 
lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này.  
Trạc ngoài bốn mươi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, 
người đàn bà ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Bà thầm lặng chịu đựng 
mọi đớn đau, khi bị chồng đánh “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách 

trốn chạy”, bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên 
chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khoẻ mạnh và biết nghề,  
chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. “Tình thương con cũng như nỗi đau,  
cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ 
rõ rệt ra bề ngoài” – một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng để  chia sẻ, cảm thông. 
Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt 
Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hy sinh.
Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến “anh con  
trai cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc 
ác. Cứ khi nào thấy khổ  quá là lão đánh vợ, đánh như  để  giải toả  uất  ức, để  trút cho sạch  
nỗi tức tối, buồn phiền: “lão trút cơn giận như  lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng  
quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong đời vẫn có những kẻ như thế, nói như Nam Cao  
trước kia, chỉ  để  thoả  mãn lòng ích kỷ, chúng tự  cho mình cái quyền được hành hạ  mọi  
người. Lão đàn ông “chân chữ bát”, “mái tóc tổ quạ”, “hai con mắt đầy vẻ  độc dữ”, vừa là 
nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ  phạm gây nên bao đau khổ  cho chính những  


người thân của mình.
Trong một gia đình mà bố  mẹ  có chuyện lục đục, đáng thương nhất là những đứa trẻ.  
Chúng bị  đẩy vào tình thế  thật khó xử: biết đứng về  phía ai, biết làm thế  nào để  trọn đạo  
làm con? Chị  thằng Phác, một cô bé yếu  ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để  tước con dao  
trên tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lý. Chắc trong 
lòng cô bé tan nát vì đau đớn: bố  điên cuồng hành hạ  mẹ; chỉ  vì thương mẹ  mà thằng em  
định cầm dao ngăn bố… Cô bé lúc ấy là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô  
đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi  
mẹ phải đến toà án huyện. Còn thằng Phác lại thương mẹ theo kiểu một đứa con còn nhỏ, 
theo cái cách một đứa con trai vùng biển: nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ  sờ  trên khuôn 
mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng  
chịt”, nó “tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì  
mẹ nó không bị đánh”. Mặc dù thật khó chấp nhận kiểu bảo vệ mẹ của nó, nhưng hình ảnh 

thằng Phác vẫn khiến người ta cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.
Vốn là người lính chiến từng vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự  áp bức, bất công, sẵn 
sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp  
tinh khôi của thuyền biển bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức 
giận khi phát hiện ra ngay sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự  bạo hành của cái xấu, 
cái ác. Mới đầu, chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ  và người vợ  nhẫn nhục chịu đựng, 
Phùng hết sức “kinh ngạc”, anh “há mồm ra mà nhìn”, rồi sau như  một phản xạ  tự  nhiên,  
anh “vứt chiếc máy  ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Hành động  ấy nói được nhiều điều. 
Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ  để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo,  
nhưng sự  thật cuộc đời lại  ở  rất gần. Đừng vì nghệ  thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ  nghệ 
thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ  sĩ biết rung động 
trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ  đời thường tình, 
biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.
Ở tác phẩm này, nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu là cách tạo 
tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Nếu coi tình huống là sự kiện có  
ý nghĩa bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử  thách phẩm chất, tính cách, 
đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người, thì với 
Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự kiện như thế. Trước đó, Phùng nhìn 
đời bằng con mắt của một nghệ  sĩ, anh rung động, say mê trước vẻ  đẹp “trời cho” của 


thuyền biển sớm mai. Chính trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn  
nhất, anh bất ngờ chứng kiến đôi vợ chồng từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão 
đàn ông đánh vợ một cách dã man và vô lý. Tình huống đó được lặp lại một lần nữa, Phùng 
không chỉ  chứng kiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng mà còn thấy được thái độ, hành 
động của chị  em thằng Phác trước sự  hung bạo của cha với mẹ. Từ  đó đến cuối truyện,  
Phùng đã có cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền 
chài  ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị  em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất 
người  đồng  đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình. Tình huống truyện  đã  được 
Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn nữa để  phát hiện tính cách 

con người, phát hiện sự thật cuộc đời.
Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn này cũng rất đáng chú 
ý. Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hoá thân của tác giả 
vào nhân vật Phùng. Việc chọn người kể  chuyện như  thế  đã tạo ra một điểm nhìn trần  
thuật  sắc sảo, tăng cường khả  năng khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể 
chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp  
với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông thật thô bỉ, tàn nhẫn với  
những từ ngữ đầy vẻ tục tằn, hung bạo; những lời của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa  
khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về  thân phận của mình; những lời  
của Đẩu  ở  toà án huyện rõ là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt thành… Việc sử 
dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề­ tư tưởng  
của truyện ngắn.
Có thể thấy cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 là cảm  
hứng anh hùng cách mạng, còn sau năm 1975 là cảm hứng về nhân cách con người, là hành 
trình “khám phá con người bên trong con người” (Bakhtin). Theo mạch cảm hứng  ấy, năm  
1982 Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn Bức tranh; trong ý nghĩ tự phán xét, nhân vật hoạ 
sĩ đã vẽ  một bức chân dung tự  hoạ nhằm thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”.  
Đáng lưu ý là, nếu trong truyện Bức tranh, Nguyễn Minh Châu hướng cái nhìn nghệ  thuật 
vào thế giới nội tâm thì trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu lại hướng  
cái nhìn nghệ thuật ra thế giới bên ngoài, ra cuộc sống đời thường. Nếu truyện Bức tranh là  
sự  tự  nhận thức, tự  phê phán của con người dưới ánh sáng của lương tâm, đạo đức, thì 
truyện Chiếc thuyền ngoài xa là sự  nhận thức và phê phán cái xấu, cái ác trong cuộc sống  
thường ngày. Cả  hai tác phẩm đều được viết dưới sự  chỉ  đạo của quan điểm nghệ  thuật: 
chỉ  ra mặt xấu, mặt tối để  góp phần hoàn thiện nhân cách con người, làm cho cuộc sống  


ngày càng tốt đẹp hơn. Đặc biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng 
đắn về  cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát 
hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn Minh 
Châu từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn 

cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
Cái đẹp là một phạm trù mĩ học cơ bản giữ vị trí trung tâm trong quan hệ thẩm mĩ giữa con 
người và hiện thực, bao chứa các quan hệ chân – thiện – mĩ. Trong văn học nghệ thuật, cái 
đẹp luôn là đề tài, là nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ sáng tạo nghệ thuật. Tuy  
nhiên từ  nguồn cảm hứng về  cái đẹp, mỗi thời đại, mỗi người nghệ  sĩ lại có những quan 
niệm khác nhau về cái đẹp. Từ quan niệm của Socrate, Platon, Kant, Leptonxtoi… cái đẹp đã 
có cả một quá trình vận động của nó. Tiếp cận tác phẩm từ quan niệm về cái đẹp qua trích  
đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng ta sẽ thấy được điều 
đó.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, cái đẹp là “phạm trù mĩ học xác định các hiện tượng theo  
quan điểm về sự hoàn thiện, xem các hiện tượng đó như là có giá trị thẩm mĩ cao nhất”. Cái  
đẹp là một phạm trù của mĩ học. Tuy nhiên khác với cái đẹp tồn tại khách quan ngoài cuộc  
sống, trong văn học nghệ  thuật, cái đẹp là một sản phẩm nghệ  thuật đặc biệt do người  
nghệ sỹ sáng tạo nên và là một phương diện không thể thiếu được của nghệ thuật.
Nhưng tác phẩm nghệ thuật chỉ đẹp, tức là có giá trị  nghệ  thuật khi nó thể  hiện chân thực 
đời sống trong mọi biểu hiện thẩm mĩ của nó thông qua lăng kính lý tưởng nhân đạo, thể 
hiện sự phong phú về tinh thần của con người, dưới một hình thức hoàn thiện bậc thầy.
Cái đẹp đi vào mọi lĩnh vực của đời sống làm cho cái ác, cái xấu bị đẩy lùi xa hơn. Trong tác 
phẩm nghệ thuật, cái đẹp không chỉ thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của người đọc, bồi dưỡng 
năng lực thẩm mĩ cho người đọc mà còn nâng đỡ tâm hồn người đọc, hướng người đọc đến 
Chân – thiện – mĩ, đúng như  Đô­xtôi­ep­xki nói: “Cái đẹp cứu rỗi nhân loại”. Cái đẹp còn 
phản ánh quan niệm mĩ học của nhà văn, xu hướng, tình cảm thẩm mĩ của xã hội  ở  thời 
điểm đó. Vì vậy, hiểu được cái đẹp trong tác phẩm nghệ thuật, sẽ hiểu được cội nguồn các 
phương thức nghệ thuật được nhà văn sử dụng để xây dựng hình tượng nghệ thuật và cách 
nhìn, sự đánh giá của nhà văn đối với cuộc đời, con người trong tác phẩm.
Là nhà văn giàu tâm huyết với nghề và có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học mới, 
Nguyễn Huy Tưởng đã đem đến cho người đọc những trang viết đôn hậu, tin yêu đối với  
con người từ quan niệm mĩ học của nhà văn. Quan niệm này thể hiện đậm nét trong vở kịch 



Vũ Như Tô.
Vũ Như Tô là một vở  kịch gồm V hồi. Tác phẩm viết về  một sự kiện xảy ra  ở kinh thành  
Thăng Long thế  kỷ  XVI. Lê Tương Dực, một hôn quân bạo chúa muốn mượn bàn tay của  
Vũ Như Tô, một kiến trúc sư thiên tài xây cho hắn một Cửu Trùng Đài làm nơi vui chơi với  
các cung nữ. Là một người nghệ  sĩ chân chính, Vũ Như  Tô đã từ  chối xây Cửu Trùng Đài  
cho Lê Tương Dực. Đan Thiềm, một cung nữ đã khuyên Vũ Như Tô lợi dụng công khố của  
hắn xây một Cửu Trùng Đài hoa lệ. Cửu Trùng Đài càng lên cao, càng tốn kém tiền của nhân 
dân. Vô tình, Vũ Như  Tô trở  thành kẻ  thù của dân chúng. Lợi dụng sự  rối ren, Trịnh Duy  
Sản cầm đầu quân khởi loạn giết Lê Tương Dực, Vũ Như  Tô, Đan Thiềm, đốt Cửu Trùng 
Đài. Trích đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài thuộc hồi V của tác phẩm.
Trải dài trên trang văn của Nguyễn Huy Tưởng trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích Vũ 
Như Tô) là quan niệm nghệ thuật về cái đẹp của nhà văn. Đó là cái đẹp siêu phàm, thậm chí  
là một bông hoa ác đẫm máu.
Với quan niệm, cái đẹp của nghệ  thuật phải là cái đẹp siêu phàm, nhà văn đã xây dựng  
thành công nhân vật Vũ Như Tô, một người nghệ sĩ tài hoa, có niềm đam mê sáng tạo nghệ 
thuật. Khát vọng của Vũ Như Tô là xây dựng một Cửu Trùng Đài hoa lệ, thách những công  
trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công và để lại niềm vinh dự tự hào cho hậu thế. Đó là 
khát vọng cao đẹp của một người nghệ  sĩ chân chính. Thế  nhưng, Cửu Trùng Đài càng lên  
cao, càng tốn kém tiền của, công sức của nhân dân. Lại thêm, đại dịch, hạn hán, mất mùa  
liên miên khiến đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Vô tình, Vũ Như  Tô trở  thành kẻ  thù  
của dân chúng lúc nào mà ông không hay!
Biết rằng, khát vọng của Vũ Như Tô là khát vọng của một người nghệ sĩ chân chính, mong 
muốn đem tài năng của mình để tô điểm cho đất nước. Nhưng trong hoàn cảnh đất nước lúc  
bấy giờ, niềm say mê sáng tạo cái đẹp của Vũ Như Tô trở nên phù phiếm. Tiếc rằng người 
nghệ sĩ chân chính  ấy vẫn mơ  màng,  ảo tưởng về  những việc mình đã làm. Trích đoạn đã 
phản ánh chân thực trạng thái mơ màng, ảo tưởng của người nghệ sĩ.
Biết có biến, Đan Thiềm, một cung nữ  thông minh, tỉnh táo, nhạy cảm với thời cuộc đã 
khuyên Vũ Như Tô trốn đi, nhưng Vũ Như  Tô vẫn không hiểu vì sao lại phải trốn đi: “Sao  
trước đây bà bảo tôi  ở  lại, bây giờ  lại bảo tôi trốn đi?”. Đến khi quân khởi loạn vào cung 
đốt phá, Vũ Như Tô vẫn mơ màng. Ông không tin việc mình làm lại có thể gây nên tội ác mà 

cho rằng: việc mình làm là quang minh, chính đại. Cho nên đi đến tận cùng của  ước mơ,  
khát vọng, Vũ Như Tô đau đớn nhận ra giấc mộng lớn của mình bị tan vỡ: Cửu Trùng Đài bị 


đốt, Vũ Như Tô bị bắt. Ông kêu lên đau đớn:“Ôi đảng ác! Ôi căm giận muôn phần! Trời ơi!  
Phú cho ta cái tài để làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!”. Đó là tiếng  
kêu đầy máu và nước mắt của một người nghệ sĩ khao khát đem tài năng sáng tạo cái đẹp,  
nhưng lại bị vùi dập.
Nếu Vũ Như Tô mơ màng, ảo tưởng thì Đan Thiềm – một cung nữ lại rất thông minh, tỉnh  
táo, nhạy cảm trước những biến cố xảy ra trong kinh thành. Trước đây, Vũ Như Tô từ chối  
xây Cửu Trùng Đài cho hôn quân bạo chúa Lê Tương Dực, Đan Thiềm khuyên ông lợi dụng 
quyền thế, tiền bạc của Lê Tương Dực để xây dựng cho đất nước một tòa lâu đài “bền như 
trăng sao”. Nhưng khi biết có biến xảy ra, quân khởi loạn nổi dậy, giết Lê Tương Dực, đốt  
phá kinh thành, bắt Vũ Như Tô, Đan Thiềm đã khuyên Vũ Như Tô bỏ trốn, thậm chí xin đổi 
cả tính mạng để Vũ Như Tô được sống, với một lí do hết sức cao đẹp: “Tài kia không nên  
uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không có ai tô điểm nữa”. Đan Thiềm tuy không 
sáng tạo nên cái đẹp nhưng lại là người biết yêu cái tài, trân trọng cái tài sáng tạo nên cái  
đẹp. Vì thế đặt nhân vật Đan Thiềm bên cạnh Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng đã khắc sâu  
bi kịch vỡ mộng của một người nghệ sĩ tài ba, chân chính nhưng không gặp thời.
Phản ánh bi kịch vỡ mộng của Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng muốn khẳng định cái đẹp là 
nghệ thuật, nhưng cái đẹp chỉ là nghệ thuật khi nó bắt rễ từ hiện thực cuộc sống của nhân 
dân. Nếu xa rời cuộc sống, cái đẹp chỉ còn là một bông hoa ác đẫm máu. Mặt khác, nhà văn  
còn đặt ra một yêu cầu đối với người nghệ sĩ, người nghệ sĩ phải có niềm đam mê sáng tạo  
nghệ  thuật, nhưng cũng phải hết sức tỉnh táo, nhạy cảm trước cuộc đời. Có như  thế  mới 
đến được cái chân – thiện – mĩ. Nếu không, cái đẹp ấy vẫn chỉ là niềm mơ ước, là cái đẹp  
siêu phàm.
Quan niệm nghệ thuật về cái đẹp của nhà văn đã chi phối cách cảm, cách nghĩ của nhà văn 
về  cuộc đời, con người được phản ánh trong tác phẩm, chi phối bút pháp nghệ  thuật. Từ 
quan niệm cái đẹp trong nghệ thuật phải bắt rễ từ đời sống, Nguyễn Huy Tưởng chọn bút 
pháp hiện thực để  xây dựng nhân vật Vũ Như  Tô. Do vậy, tìm hiểu quan niệm về cái đẹp  

của mỗi nhà văn, ta có thể  hiểu được quan niệm mĩ học của người cầm bút, rộng hơn là 
nhân cách, tài năng, là bản lĩnh của nhà văn trong việc phản ánh hiện thực đời sống.
“Nghệ  thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, sáng tạo”, nhưng không phải người cầm bút nào 
cũng có thể  đem đến cho văn chương những điều mới lạ, mà chỉ  có những người nghệ  sĩ 
chân chính, có tài năng thực sự  và giàu tâm huyết đối với nghệ  thuật mới có thể  đem đến 
cho văn chương sự  sáng tạo, độc đáo. Quan niệm nghệ  thuật về  cái đẹp của Nguyễn Huy  


Tưởng là một trong những sự sáng tạo độc đáo ấy! Song để  hiểu một cách sâu sắc và toàn 
diện quan niệm nghệ  thuật về  cái đẹp của nhà văn. Đó vẫn là điều bí  ẩn trước cuộc đời.  
Nói như  Leptoxtoi “Sách viết về  cái đẹp đã chất lên thành núi, cái đẹp vẫn còn là câu đố 
giữa cuộc đời”.
Cái đẹp là một hiện tượng thẩm mĩ vô cùng đa dạng, phong phú, là thước đo, là chuẩn mực 
đời sống của con người. Trong văn học, cái đẹp mang tính khái quát, sống động, tập trung. 
Lí giải quan niệm nghệ  thuật về  cái đẹp của Nguyễn Huy Tưởng trong  Vĩnh biệt Cửu 
Trùng Đài, ta thấy nhà văn trân trọng khát vọng sáng tạo nghệ  thuật của người nghệ  sĩ, 
nhưng cũng rất tỉnh táo. Nguyễn Huy Tưởng không ca ngợi Vũ Như  Tô mà chỉ  cảm thông 
với bi kịch vỡ  mộng của Vũ Như  Tô. Và nhà văn cầm bút chẳng qua “cùng một bệnh với  
Đan Thiềm” ­ bệnh yêu cái tài sáng tạo nên cái đẹp! Đó cũng là ý nghĩa cuộc hành trình tìm  
kiếm cái đẹp của người nghệ sĩ. Do vậy, tiếp cận một tác phẩm văn học không thể  không 
tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về cái đẹp của nhà văn – thước đo tinh thần, tài năng nghệ 
thuật của người nghệ sĩ.
Nghệ  thuật luôn đi lên từ  cái nhìn chân chính. Đúng như  thế, nói đến nghệ  thuật ta không  
thể  không nhắc đến cuộc sống vì hai thứ   ấy luôn gắn liền với nhau. Hai nhà văn Nguyễn  
Huy Tưởng và Nguyễn Minh Châu tuy viết hai tác phẩm ở hai giai đoạn khác nhau nhưng họ 
cùng hướng đến quan niệm về nghệ thuật. Quan niệm đó được thể hiện qua hình tượng hai 
nhân  vật   Phùng  trong Chiếc   thuyền  ngoài  xa và  Vũ   Như  Tô   trong Vĩnh  biệt  Cửu  Trùng 
Đài. Hai nhà văn đã xây dựng lên hai nhân vật có nhiều nét tương đồng một cách trùng hợp  
và tài tình. Cũng nhờ  như  thế  mà hạt ngọc  ẩn giấu trong bề  sâu tâm hồn con người đều 
được họ tìm thấy và nâng tầm giá trị.

Đầu tiên là Nguyễn Minh Châu, ông được xem là một trong những nhà văn tiên phong trong  
công cuộc đổi mới văn học, văn của ông giản dị mà sâu sắc, thấm thía nhiều dư vị về cuộc  
đời, thấm đẫm nghệ thuật, cái mà ông luôn xem là bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống. Cũng  
nhờ như thế mà nhân vật Phùng đã ra đời qua chính ngòi bút của ông.
Phùng là một nhiếp ảnh gia, theo lời đề nghị của trưởng phòng, ông phải chụp một bức ảnh 
để đăng cho bộ lịch cuối năm, sau nhiều ngày lao lực tìm kiếm, anh bắt gặp một hình ảnh 
chiếc thuyền đang từ từ ghé vào bờ trong một buổi sáng sương mù trắng như sữa có pha đôi  
chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Quá thăng hoa trong cảm xúc khi khám phá ra 
được một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, anh nhanh chóng bấm máy liên thanh 
và có những bức ảnh ăn ý không dễ gì có được trong một đời làm nghệ thuật.


Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu, một người đồng đội cũ nay là chánh án toà án huyện,  
với người phụ nữ khốn khổ kia, Phùng mới vỡ lẽ ra rằng, người phụ nữ phải cam chịu một  
bề, không chống trả những trận đòn của chồng và không chịu giải phóng là vì tình yêu vô bờ 
bến đối với những đứa con. Phùng cay đắng nhận ra rằng, đằng sau cảnh đẹp như mơ kia là 
bao ngang trái, éo le của đời thường mà anh chưa hiểu hết. Trưởng phòng rất hài lòng về 
tấm  ảnh. Mãi về  sau, nó vẫn được treo  ở  nhiều nơi, nhất và những gia đình sành nghệ 
thuật. Nhưng mỗi khi nhìn kỹ bức ảnh, cảm xúc của anh luôn lẫn lộn trào dâng.
Tình huống được tạo nên từ  ngòi bút của ông là sự  tương phản giữa nghệ  thuật và cuộc 
sống, nghệ thuật thì ở ngoài xa còn cuộc đời thì lại thật gần, nghệ thuật thì đẹp nhưng cuộc  
đời sao đầy rẫy bao ngang trái. Ông cho người đọc thấy được cái nhìn đa diện, nhiều chiều 
về cuộc sống, chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng đã hiểu ra nhiều điều về con người, về cuộc  
sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp xúc với người đàn bà hàng chài, từ đó ông gợi mở 
những vấn đề mới vô cùng triết lý cho sáng tạo và nghệ thuật.
Tiếp đến là Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử, ông có rất  
nhiều đóng góp nổi bật  ở thể loại tiểu thuyết và kịch, một trong những vở  kịch để  lại ấn 
tượng sâu sắc nhất cho người đọc là Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài mà thông qua nhân vật Vũ 
Như Tô ta càng thấy được mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật và cuộc sống.
Vũ Như  Tô được biết đến qua tác phẩm của ông là một kiến trúc sư  thiên tài và đam mê  

nghệ thuật, bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, 
vui chơi với các cung nữ. Nhưng ông là một nghệ sĩ có nhân cách và có lý tưởng nghệ thuật  
hết sức cao đẹp, không phải là người ham sống sợ  chết hay chỉ vì chút công danh mà phải  
bán thân mình cho nghệ  thuật. Lúc đầu, ông nhất định thà chết chứ  không xây dựng Cửu  
Trùng Đài cho tên vua bạo ngược, nhưng khi nhận ra giá trị nghệ thuật để lại cho đời thì ông 
lại quên mất một thực tế là dân chúng đang đói khổ.
Cửu Trùng Đài càng xây cao bao nhiêu thì mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của nhân dân  
ngày càng tăng lên bấy nhiêu. Vũ Như  Tô càng quyết tâm xây dựng Cửu Trùng Đài thì các 
mâu thuẫn ngày càng theo đó mà khó giải quyết và Đan Thiềm càng khuyến khích Vũ Như 
Tô xây Cửu Trùng Đài thì xung đột giữa người nông dân và con người nghệ thuật ngày càng 
tăng cao. Có thể nói đó là một khát vọng hết sức chân chính nhưng nó được đặt không đúng 
chỗ  , không kịp thời, không tính đến giá trị  cuộc sống thì nghiễm nhiên chính nó sẽ  tự  trở 
thành tai họa. Trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, Vũ Như  Tô vừa là phạm nhân và cũng  
vừa là nạn nhân. Diễn biến mâu thuẫn trong con người Vũ Như  Tô và Đan Thiềm mặc dù  


được giải quyết nhưng không được thõa đáng. Vũ Như  Tô bị  giết mặc dù trong thâm tâm 
ông không hề có ý định hại dân, khi chết ông vẫn chưa nhận ra được sai lầm của mình.
Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn đề sâu sắc và có ý nghĩa muôn 
thuở  về  mối quan hệ  giữa nghệ  thuật với cuộc sống, giữa lý tưởng nghệ  thuật cao siêu  
thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thực và trực tiếp của nhân dân.
Cả hai tác phẩm này đều xây dựng lên một nhân vật hết lòng đam mê nghệ thuật nhưng chỉ 
vì chưa thấy rõ sự  đối lập mà dẫn đến những kết cục đáng buồn. Nghệ  sĩ Phùng đã thấy 
được mặt trái của sự việc và đã kịp thời sửa sai nhưng Vũ Như  Tô phải lấy cả cái giá của  
nghệ thuật để đổi bằng chính mạng sống của mình. Tuy được viết vào hai bối cảnh xã hội 
khác nhau, văn hóa mà đối tượng tồn tại khác nhau và phong cách của hai nhà văn cũng hoàn  
toàn khác nhau, nhưng họ  đều có một điểm chung đã lật ra lá bài của nghệ  thuật. Nghệ 
thuật phải gắn liền với cuộc sống, phục vụ cuộc sống, nếu nghệ thuật xa r ời cu ộc s ống, xa  
rời quần chúng thì chỉ  đem lại bi kịch thảm khốc như  của Vũ Như  Tô hay cái nhìn phiến  
diện về cuộc sống của nghệ sĩ Phùng. Tuy rằng nghệ thuật là cái đẹp của cuộc sống nhưng  

không phải lúc nào nó cũng đẹp. Đằng sau của tấm huy chương rạng rỡ luôn gồ gề và nhiều 
khuyết điểm. Ngoài ra, nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống, phục vụ cho cuộc 
sống, nghệ thuật xa rời cuộc sống chỉ là nghệ  thuật suông, không xứng đáng là nghệ  thuật  
chân chính, đều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết tìm tòi, khám phá cuộc sống, hiểu nó trên 
nhiều phương diện. Nghệ  sĩ chân chính cũng giống như  nghệ  thuật chân chính và nghệ 
thuật luôn phải vì nhân sinh không chỉ  bó hẹp nghệ  thuật vì nghệ  thuật. Như  Tố  Hữu đã 
từng tâm sự:
Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền
Thuyền xô dóng dậy
Sóng đẩy thuyền lên.
Cả  hai nhà văn đã cho ta nhận thức được cái đẹp của nghệ  thuật như  thế  nào, con đường 
tìm kiếm, đi đến và chinh phục nghệ thuật sẽ ra sao. Tuy không đem lại kết cục như mong  
đợi nhưng hai nhà văn dường như  đã bộc lộ  hết vẻ  tài tình qua những lời văn của mình. 
Ngôn ngữ  điêu luyện, có tính tổng hợp cao, dùng ngôn từ  và hành động của nhân vật để 
khắc họa tính cách, đó chính là cái tài mà không dễ ai có được. Và cũng nhờ nghệ thuật chân 
chính mà cái tài đó càng thêm sâu sắc hơn, thấm đẫm với chúng ta hơn.


VnDoc xin giới thiệu tới các em bài văn mẫu phân tích những phát hiện của nhân vật Phùng 
liên hệ với cái chết hình tượng của Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Hi vọng đây  
sẽ  là tài liệu hữu ích hỗ  trợ  các em ôn luyện và đạt kết quả  cao. Mời các em tham khảo  
thêm các tài liệu khác tại mục Tài liệu học tập lớp 12 



×