Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Cảm nhận của anh/chị về quá trình thức tỉnh của nhân vật Mị trong cảnh đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài). Từ đó liên hệ với sự thức tỉnh của Chí Phèo trong cảnh buổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.04 KB, 15 trang )

Quá trình thức tỉnh của nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ) 
Mời các em tham khảo

Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về quá trình thức tỉnh của nhân vật Mị trong cảnh đêm tình 
mùa   xuân (Vợ   chồng   A   Phủ ­   Tô   Hoài).   Từ   đó   liên   hệ   với   sự   thức   tỉnh   của   Chí   Phèo  
trong cảnh buổi sáng tỉnh rượu (Chí Phèo ­ Nam Cao) để nhận xét về cái nhìn nhân đạo của  
mỗi nhà văn đối với người lao động nghèo trong xã hội cũ.

Hướng dẫn lập dàn ý chi tiết:
Mẫu dàn ý 1
I. Mở bài
­ Giới thiệu nhân vật: Cả Nam Cao và Tô Hoài trong tác phẩm của mình không chỉ xây dựng 
được nội dung tác phẩm sâu sắc mà còn gặp gỡ trong tinh thần nhân đạo sâu sắc. Thông qua 
nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo) và Mị  (Vợ  chồng A Phủ), hai nhà văn đã thể  hiện tiếng nói 
cảm thông đối với những người nông dân nghèo khổ, bất hạnh.
II. Thân bài
– Mị và Chí Phèo là những người có xuất thân nghèo khổ, bị cường quyền chèn ép, chà đạp 
đến mức tê liệt, đánh mất khả năng phản kháng.
– Bên trong những con người bất hạnh ấy lại là sức sống tiềm tàng, mãnh liệt.
–> Họ  không mãi cam chịu cuộc sống đen tối mà đã vươn lên vượt thoát ra khỏi bóng đen 
của cường quyền, thức tỉnh để hồi sinh.
– Nhân vật Mị:
+ Mị  là người con gái xinh đẹp, yêu đời với sức sống thanh xuân căng tràn nhưng buộc trở 
thành con dâu trừ nợ cho gia đình thống lí. 
+ Sống tại gia đình thống lí, Mị bị chà đạp cả về thể xác và tinh thần. 
+ Mị bị tê liệt, đánh mất đi khả năng phản kháng trước thực trạng đau khổ trước mắt.


+ Trong đêm tình mùa xuân, sức sống bên trong Mị  đã được đánh thức nhưng sau đó lại bị 
thực tại tàn nhẫn đè nèn để cô trở lại đối với cuộc sống cam chịu thường ngày.
+ Giọt nước mắt của A Phủ  đã khiến cho sức sống  ấy bùng cháy dữ  dội để  thôi thúc Mị 


vùng lên cứu sống A Phủ cũng là giải thoát cho cuộc sống của chính mình.
– Nhân vật Chí Phèo:
+ Chí Phèo vốn là một người nông dân lương thiện, chân chất, vì sự ghen tuông của Bá Kiến 
mà bị đẩy vào tù một cách vô lí, oan uổng.
+ Chấp nhận làm tay sai cho Bá Kiến cũng là khi Chí Phèo bước vào con đường tội lỗi, trở 
thành con quỷ dữ làng Vũ Đại.
+ Bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức phần nhân tính bên trong con người của Chí.
–> Chí khát khao muốn làm hòa với mọi người, muốn trở về với con đường  lương thiện.
+ Khi biết mình mãi mãi không thể trở về cuộc đời lương thiện được nữa, Chí Phèo thà lựa  
chọn cái kết bi thảm nhất cho mình chứ không chịu bắt tay với tội ác một lần nữa. 
III. Kết bài
­ Sự  hồi sinh của Mị và Chí Phèo thể  hiện sự  trân trọng, niềm tin của hai nhà văn đối với  
những giá trị nhân phẩm, sức sống tiềm tàng bên trong con người.
Mẫu dàn ý 2:
I. Mở bài
­ Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, đoạn trích:
+ Tô Hoài là cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Văn ông hấp  
dẫn bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người giàu vốn từ vựng, vốn sống, vốn hiểu  
biết sâu sắc; Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đậm chất thơ, giàu tính tạo hình và gợi cảm; 
Cảnh đêm tình mùa xuân thể  hiện rõ tài năng và cái nhìn nhân đạo của Tô Hoài trong miêu 
tả, phân tích quá trình thức tỉnh của Mị.
+ Nam Cao là nhà văn xuất sắc, độc đáo của văn học hiện thực phê phán những năm 1930­


1945, dù viết về đề  tài nào, văn ông luôn trăn trở, đau đớn trước sự  tha hóa của con người,  
sắc sảo trong việc miêu tả, phân tích những biến đổi tâm lí phức tạp, những ranh giới mấp 
mé thiện và ác, quỹ dữ và con người để từ đó khái quát được những hiện tượng có ý nghĩa 
xã hội, những triết lí sâu sắc; Chí Phèo là tác phẩm kết tinh cho tài năng và tấm lòng nhân  
đạo của Nam Cao, đặc biệt qua cảnh Chí Phèo buổi sáng tỉnh rượu.
II. Thân bài

* Cảm nhận quá trình thức tỉnh của Mị trong đêm tình mùa xuân:
­ Về nội dung:
+ Nguyên cớ  hồi sinh: Đất trời Hồng Ngài vào xuân, tiếng sáo rủ  bạn yêu, hơi rượu là  
nguyên cớ vừa trực tiếp vừa gián tiếp khơi dậy lòng ham sống ở Mị. Đặc biệt, nguyên cớ từ 
bên trong... lòng ham sống luôn tiềm tàng, chưa lụi tắt trong Mị.
+ Quá trình thức tỉnh:
 Sự hồi sinh bắt đầu từ ý thức, cảm xúc, biết nhớ về quá khứ tươi đẹp, nhận ra thực tại 
khổ  đau, bùng lên khát vọng sống mãnh liệt, cháy bỏng cùng đồng thời xuất hiện suy  
nghĩ về phản kháng tiêu cực thoát khỏi cuộc sống bể tắc;
 Từ ý thức đến những hành động quyết liệt không gì dập tắt, Mị thắp đèn, quấn tóc, mặc 
váy hoa sửa soạn đi chơi. Những hành động liên tiếp chứng tỏ Mị đã sống dậy khao khát 
tự  do, khao khát hạnh phúc của tuổi thanh xuân, lòng ham sống trỗi dậy dẫn dắt Mị 
những phản kháng tích cực;
 Thực tại bị  trói đứng nhưng tâm hồn vẫn thăng hoa theo tiếng sáo, Mị  chìm vào hạnh  
phúc  ảo giác, vùng bước theo tiếng sáo trong tâm tưởng cũng là lúc nhận ra thực tại  
trong nỗi đau đớn, xót xa. Mị  không nghe tiếng sáo nữa, chỉ  nghe tiếng chân ngựa đạp 
vào vách, Mị cay đắng trở lại với sự liên tưởng về kiếp sống không bằng con ngựa;
 Sự  thức tỉnh lần này không giúp Mị  thay đổi kiếp sống nhưng hé mở  được vẻ  đẹp của 
lòng ham sống luôn tiềm tàng ở người lao động vùng cao Tây Bắc, nó là cơ sở để khi có  
cơ hội, người lao động sẽ vùng lên giải thoát chính mình.


­ Về nghệ thuật:
+ Ngôn ngữ giàu hình ảnh, câu văn vừa giàu chất hiện thực vừa quá đỗi chất thơ, hiểu biết  
phong phú về phong tục vùng cao Tây Bắc;
+ Miêu tả, phân tích tâm lí một cách tài tình, biện chứng, đặc biệt việc chọn lựa chi tiết 
tiếng sáo để biểu đạt thế giới nội tâm rất tinh tế;
+ Trần thuật linh hoạt, kết hợp kể gián tiếp và nửa trực tiếp...
* Liên hệ với quá trình thức tỉnh của Chí Phèo trong cảnh buổi sáng tỉnh rượu
­ Về nội dung:

+ Nguyên cớ  hồi sinh: Trước tiên là  ở  sự  xuất hiện của thị  Nở  ­ người đàn bà thô nhám 
nhưng có trái tim giàu yêu thương, nhân ái; sau nữa là Chí lần đầu tiên tỉnh rượu sau những  
cơn say triền miên.
+ Quá trình thức tỉnh:
 Bắt đầu với sự trở về của ý thức: tỉnh rượu, tỉnh táo để nhận thức được không gian với 
những thanh âm bình dị (tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái 
chèo đuổi cá, tiếng chim hót...), nhận thức được thời gian với quá khứ  xa xôi từng có 
niềm ao  ước về một gia đình nho nhỏ, ý thức được bi kịch hiện tại, nghĩ đến tương lai 
với tuổi già, bệnh tật và cô độc;
 Những cung bậc cảm xúc sống lại để buồn bã, nuối tiếc giấc mơ trong quá khứ và ngạc 
nhiên xúc động trước tấm chân tình của thị Nở với bát cháo hành;
 Đỉnh cao của sự thức tỉnh là suy nghĩ và khao khát hướng thiện, thèm lương thiện, muốn  
làm hòa với mọi người, hi vọng mãnh liệt và sự mở đường của thị Nở;
 Tính người cũng trở về trong những hành động và lời nói rất người: Chí không còn đập 
đầu, rạch mặt, ăn vạ, ngược lại có khả  năng điều chỉnh hành vi, thay đổi thói quen, cố 
uống thật ít để  được sống trong yêu thương...; Không còn chửi vu vơ, phẫn uất cô độc 
mà biết nói một cách hiền lành, trân trọng và tình tứ của một người khi yêu “Giá cứ thế 
này thì thích nhỉ?”...


­ Về nghệ thuật:
+ Ngôn ngữ vừa sống động, vừa điêu luyện lại vừa gần gũi, tự nhiên;
+ Nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí tinh tế, sâu sắc, biện chứng;
+ Trần thuật linh hoạt, kết hợp hài hòa giữ đối thoại và độc thoại, giữa lời gián tiếp và nửa 
trực tiếp;
+ Xây dựng được nhân vật điển hình...
* Nhận xét cái nhìn nhân đạo của mỗi nhà văn:
­ Điểm tương đồng:
+ Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng của nhân vật. Ở Mị là  
vẻ  đẹp và sức sống cũng như  tinh thần phản kháng mạnh mẽ  của người miền núi,  ở  Chí 

Phèo là bản chất lương thiện của con người;
+ Thông cảm, đồng cảm với số phận bất hạnh của những người lao động nghèo, những con  
người bị vùi dập, bị lăng nhục và xúc phạm;
+ Lên án, tổ cáo những thế lực gây ra số phận đau khổ cho người lao động;
+ Niềm tin vào nhân cách, phẩm chất của người lao động.
­ Điểm khác biệt:
+ Nam Cao nhìn con người trong số  phận bi kịch, nhân vật của ông chưa tìm được con  
đường đi, con đường giải phóng cho chính mình. Vì thế kết thúc sự thức tỉnh của Chí Phèo 
là con đường cùng, bế tắc.
+ Tô Hoài nhìn con người trong sự vận động đến với cuộc sống tốt đẹp, tương lai tươi sáng. 
Vì vậy kết thúc sự  thức tỉnh của Mị  trong đêm tình mùa xuân hứa hẹn một sự  phản kháng  
quyết liệt để  giải thoát mình và những người cùng cảnh ngộ  trong đêm mùa đông cuối 
truyện.
III. Kết bài
­ Sự  hồi sinh của Mị và Chí Phèo thể  hiện sự  trân trọng, niềm tin của hai nhà văn đối với  


những giá trị nhân phẩm, sức sống tiềm tàng bên trong con người.


Một số  mẫu bài phân tích cảm nhận quá trình thức tỉnh của nhân vật Mị 
liên hệ với Chí Phèo
Bài mẫu số 1:
Nam Cao và Tô Hoài là hai cây bút xuất sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Nếu như 
Nam Cao đi vào khai thác đề tài người nông dân ở làng Đại Hoàng – quê hương của nhà văn, 
thì Tô Hoài lại rất thành công trong việc tìm đến người lao động miền núi Tây Bắc xa xôi 
để  xây dựng nên những tác phẩm nghệ  thuật đặc sắc. Đọc Chí Phèo của Nam Cao và Vợ 
chồng A Phủ của Tô Hoài hẳn bạn đọc không thể quên được hai nhân vật Chí Phèo và Mị,  
nhất là sự hồi sinh nhân tính của họ.
“Văn chương là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”, Nam Cao và Tô Hoài đã có sự 

gặp gỡ, đồng điệu về tư tưởng, tình cảm. Đó chính là tiếng nói yêu thương sâu sắc của nhà 
văn dành cho nhân vật của mình. “Hồi sinh” có nghĩa là sống lại. “Hồi sinh nhân tính” là tính  
người, tình người được sống lại. Nói về sự hồi sinh nhân tính, ta đã bắt gặp sự hồi sinh ấy  
trong văn học trước đó, bất cứ  nhân vật nào, một khi đã tha hóa, họ  đều có quá trình thức  
tỉnh về tâm hồn, như Trương Sinh (Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ), như 
Hộ (Đời thừa – Nam Cao),
 … Nếu như Trương Sinh thức tỉnh sau cái chết oan uổng của vợ, thì Hộ  thức tỉnh sau khi  
đánh đuổi vợ  con vì gánh nặng cơm áo. Trương Sinh đã lập đàn giải oan cho vợ, Hộ  đã  
khóc, giọt nước mắt của Hộ chính là bằng chứng cho sự  thức tỉnh, hồi sinh nhân tính. Còn 
sự hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị được Nam Cao, Tô Hoài dẫn giải như thế nào?
 Để  lí giải sự  hồi sinh nhân tính của hai nhân vật, Nam Cao và Tô Hoài đều viện dẫn đến  
những tác nhân tác động từ  bên ngoài. Đúng vậy, phải có sự  tác động thì con người ta mới  
có thể thức tỉnh, cũng giống như con người khi chìm vào giấc ngủ say triền miên, phải có sự 
tác động thì ta mới có thể tỉnh giấc. Cả Chí Phèo và Mị đều có tác nhân như vậy.
Chí hồi sinh nhân tính sau đêm gặp thị Nở. Tình người của thị Nở  đã đánh thức tình người  
nơi Chí và chỉ có tình người ấy mới khơi dậy sự hồi sinh của Chí. Còn Mị  lại thức tỉnh về 
nhân tính trong đêm tình mùa xuân. Nếu như Chí nhờ có tác động của con người, tình người  


thì Mị lại nhờ sự tác động của cảnh vật, để hồi tỉnh lại nhân tính.
Trước khi hồi sinh nhân tính, cả Chí và Mị đều có những số  phận và bi kịch đau đớn giống  
nhau.
Chí Phèo vốn là người nông dân hiền lành, chất phác, chăm chỉ, ở thuê cho nhà bá Kiến. Vì  
sự  ghen tuông của bá Kiến mà Chí bị đẩy vào nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân ấy, oan trái  
thay, nó tiếp nhận con người khi người ta vô tội, lương thiện và trả người ta ra khi họ đã trở 
thành kẻ tha hóa, mất đi cả nhân hình và nhân tính. Về nhân hình, Chí là một con vật lạ với  
khuôn mặt “vằn dọc vằn ngang không biết bao nhiêu là sẹo”, về nhân tính, Chí là “con quỷ 
dữ của làng Vũ Đại”, một kẻ chuyên rạch mặt ăn vạ  và làm tay sai đòi nợ  cho bá Kiến. Bi  
kịch đau đớn nhất của Chí Phèo là “bị  từ  chối quyền làm người, cha mẹ  từ  chối Chí, dân 
làng cũng từ chối Chí”. Chí rơi vào bi kịch khi không có ai đón nhận Chí trở về với cái xã hội  

bằng phẳng kia. Nếu như là con người thì đâu ai dám vạch mặt mình như  vậy, đâu ai dám  
sẵn sàng đâm thuê, chém mướn, chỉ vì đồng tiền, đâu dám “đốt quán” của “bà bán rượu” 
nhưng Chí đã trở nên mất đi “tính người”, mất đi “nhân tính” như vậy.
Mị cũng là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi và hiếu thảo, và Mị cũng phải chịu một số phận đau 
đớn không kém Chí Phèo là mấy. Mị phải trở thành “con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra”.  
Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái, ngồi quay sợi, thái  
cỏ ngựa,… lúc nào cô ấy cũng cúi mặt buồn rười rượi. Mị giống như một con rùa được nuôi  
trong xó cửa, sống  ở nhà thống lí Pá Tra, Mị  cũng như  những người phụ  nữ trong nhà này, 
làm việc tối ngày bận bịu. Nếu như Chí Phèo của Nam Cao mong muốn được giao tiếp với  
con người thì Mị  lại không buồn giao tiếp. Mị  lúc nào cũng lầm lũi, cô cũng mất đi tính  
người nhưng “tính người” bị  mất đi  ở  đây khác với Chí. Nếu như  Chí Phèo bị  tha hóa về 
nhân tính, trở thành một con quỷ dữ thì Mị  lại mất đi nhân tính ở chỗ  cô không được coi là 
một con người. Sống  ở nhà thống lí Pá Tra, Mị như một “con trâu, con ngựa”. Bởi con trâu, 
con ngựa còn có lúc nghỉ ngơi, đằng này Mị phải làm quần quật suốt cả ngày. Chính vì cuộc  
sống như vậy mà Mị đã trở thành một con người mất đi sức sống.
Tuy có những nét giống nhau về số phận và cuộc đời, song quá trình hồi sinh nhân tính của 
Chí Phèo và Mị lại rất khác nhau.


Sự  hồi sinh nhân tính của Chí là sau đêm gặp thị  Nở, chính tình người của thị  Nở  đã đánh 
thức “nhân tính” trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại ấy. Thị là người đàn bà xấu ma chê quỷ 
hờn của làng Vũ Đại. Thế nhưng, bên trong cái ngoại hình xấu xí và tính cách dở hơi của thị 
là một tấm lòng rất bao dung và vị  tha. Sau một đêm ăn nằm với nhau, sáng hôm sau tỉnh  
dậy, Chí lần đầu tiên để  tâm lắng tai nghe những âm thanh xung quanh mình, những âm  
thanh của cuộc sống và cảm thấy cuộc sống cũng thật thú vị. Và Chí thèm được làm người  
lương thiện. Khát vọng lương thiện  ấy chính là bằng chứng cho sự  hồi sinh nhân tính của 
Chí. Chí nhớ lại cuộc đời mình trước khi bị đẩy vào nhà tù thực dân với những ước mơ hết  
sức bình dị. Chí nhận ra rằng thị  Nở  cũng có duyên và muốn cùng thị  chung sống. Chí đã 
mong muốn được làm người và thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa Chí trở về với con người  
lương thiện.

Nhờ  có tình người của thị  mà Chí hồi sinh nhân tính, khao khát được sống một cuộc sống 
lương thiện. Với Mị sức sống hồi sinh nơi người con gái ấy là tiếng sáo vi vu gọi bạn tình  
trong đêm tình mùa xuân Tây Bắc. Mùa xuân, mùa của sức sống mãnh liệt. Mị  sống trong 
nhà thống Pá Tra như  một con người đã mất đi linh hồn. Thế  nhưng, trong đêm tình mùa  
xuân năm ấy, khi cái lạnh tràn về, khi những thiếu nữ phơi “chiếc váy xòe như những cánh  
bướm của mình trên những phiến đá” và đám trẻ con chơi đùa và tiếng sáo gọi bạn tình đã 
bắt đầu xuất hiện. Mị dường như được sống lại với chính tâm hồn mình. Cô hồi tưởng lại  
quá khứ khi được cùng người yêu đi chơi trong những đêm tình mùa xuân. Cũng giống như 
Chí, Mị cũng hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp, khi Mị còn là người con gái đẹp có tài thổi sáo 
rất hay. Mị uống rượu và khi ngà ngà say, Mị bỗng nhiên nghe thấy tiếng sáo gọi bạn tình và  
Mị cũng muốn đi chơi. Mị muốn đi chơi như hồi còn trẻ. Mị vào góc nhà xắn thêm ít mỡ bỏ 
vào chiếc đèn cho sáng, với tay lấy chiếc váy. Những hành động  ấy chứng tỏ  rằng Mị  đã  
thật sự  hồi sinh, sức sống tiềm tàng trong con người Mị  đã được sống dậy nhờ  âm thanh 
của tiếng sáo. Cũng giống như Chí Phèo âm thanh của cuộc sống xung quanh thức tỉnh tâm 
hồn, đánh thức sức sống mãnh liệt của Mị. Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, ngay  
cả  khi Mị  đã bị  A Sử  trói chặt vào cột nhà. Mị đã thả  hồn bay theo tiếng sáo của đêm tình 
mùa xuân. Mị vô thức, Mị không cảm thấy đau đớn vì lúc này sự  hồi sinh nhân tính của Mị 
rất mạnh mẽ.


Chí Phèo và Mị  đều được hồi sinh nhân tính. Sự  hồi sinh ấy cho ta thấy cái nhìn nhân đạo  
của Nam Cao và Tô Hoài. Phải thực sự  yêu thương cảm thông với nhân vật của mình, hai 
nhà văn mới có thể để  cho họ hồi sinh nhân tính như vậy. Với Chí Phèo là trở  về với cuộc 
sống lương thiện, còn với Mị là được bộc lộ sức sống tiềm tàng của cô. Cả Nam Cao và Tô 
Hoài đều rất xót thương, đồng cảm cho số phận của Chí Phèo và Mị, trân trọng những ước 
mơ bình dị của họ. Mặt khác, từ sự hồi sinh về nhân tính của Chí Phèo và Mị, họ đã nói lên  
tiếng nói phê phán gay gắt những thế lực chà đạp lên số phận của con người bất hạnh  ấy.  
Cái xã hội với những tàn dư  phong kiến, bá Kiến đã đẩy Chí vào sự  tha hóa. Và những hủ 
tục cổ hủ của miền núi với kẻ thông trị gian ác, tham lam như thống lí Pá Tra đã cướp sạch,  
bào mòn sức sống của Mị.

Mặt dù, viết về những đề tài khác nhau, nhưng cuộc đời và số phận của các nhân vật đều là 
sự trải nghiệm, dày công tìm tòi của các nhà văn. Thông qua các nhân vật của mình nhà văn 
muốn nói lên tiếng lòng, sự cảm thương cho số phận của họ. Đó chính là những giá trị nhân 
đạo của tác phẩm.
Gấp lại hai truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, ta có thể 
nhận thấy sự  hồi sinh nhân tính đưa hai nhân vật đến với những cuộc sống mới khác nhau  
nhưng giá trị  của sự  hồi sinh  ấy lại có một giá trị  hết sức giống nhau, nó phản ánh tiếng  
lòng của Nam Cao và Tô Hoài dành cho nhân vật Chí Phèo và Mị, những con người có số 
phận rất đáng thương xót.
Bài mẫu số 2:
Nam Cao và Tô Hoài là hai gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện  
đại. Bằng tài năng và tấm lòng nhân đạo sâu sắc, hai nhà văn đều dùng ngòi bút của mình  
hướng đến phản ánh cuộc sống và số phận của những người nông dân nghèo khổ. Nếu như 
Nam Cao đi sâu khai thác về  bi kịch bị tha hóa của con người thông qua nhân vật Chí Phèo  
trong truyện ngắn cùng tên thì Tô Hoài lại tìm đến những người nông dân nghèo khổ, bị chà  
đạp về  thể  xác và tinh thần tại vùng núi Tây Bắc, điển hình có thể  kể  đến là Mị  trong  
truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.


Cả  Nam Cao và Tô Hoài trong tác phẩm của mình không chỉ  xây dựng được nội dung tác 
phẩm sâu sắc mà còn gặp gỡ trong tinh thần nhân đạo sâu sắc. Thông qua nhân vật Chí Phèo 
(Chí Phèo) và Mị  (Vợ  chồng A Phủ), hai nhà văn đã thể  hiện tiếng nói cảm thông đối với  
những người nông dân nghèo khổ, bất hạnh, đồng thời lên án sâu sắc đối với xã hội phong 
kiến đã chèn ép, bóc lột, chà đạp lên nhân phẩm của những con người lương thiện.
Mị  và Chí Phèo là những người có xuất thân nghèo khổ, bị  cường quyền chèn ép, chà đạp  
đến mức tê liệt, đánh mất khả  năng phản kháng, phải sống trong cuộc sống tăm tối, đánh  
mất chính mình. Tuy nhiên, bên trong những con người bất hạnh  ấy lại là sức sống tiềm  
tàng, mãnh liệt, họ không mãi cam chịu cuộc sống đen tối mà đã vươn lên vượt thoát ra khỏi 
bóng đen của cường quyền, thức tỉnh để hồi sinh quay trở lại với bản chất lương thiện của  
mình.

Chí Phèo vốn là một người nông dân lương thiện, chân chất, vì sự  ghen tuông của Bá Kiến  
mà bị  đẩy vào tù một cách vô lí, oan uổng. Nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo một người  
lương thiện trở  thành một tên lưu manh với vẻ  ngoài ngang ngược, hống hách. Với lí lịch 
“đen” sau khi ra tù, Chí Phèo khó có thể  quay trở  về với những công việc lương thiện như 
trước đây, không ai muốn, cũng không ai dám thuê Chí. Để  tiếp tục sống, Chí Phèo đã tìm 
đến chính kẻ  thù của mình, kẻ  đã đẩy mình vào con đường tù tội – Bá Kiến. Từ  khi chấp 
nhận làm tay sai cho Bá Kiến cũng là khi Chí Phèo bước vào con đường tội lỗi, một tay Chí  
Phèo đã gây nên bao tội ác, Chí dần bị tha hóa và trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Cả làng Vũ Đại đều căm ghét, từ  chối công nhận quyền làm người của Chí. Những tưởng 
Chí sẽ mãi trượt dài trên con đường tha hóa, mãi là con quỷ dữ  của làng Vũ Đại nhưng bát  
cháo hành của Thị Nở đã đánh thức phần nhân tính bên trong con người của Chí. Những ước 
mơ  bình dị  thời trai trẻ  bỗng sống dậy trong Chí, Chí khát khao muốn làm hòa với mọi 
người, muốn trở về với con đường lương thiện.
Khi biết mình mãi mãi không thể  trở  về  cuộc đời lương thiện được nữa, Chí Phèo thà lựa  
chọn cái kết bi thảm nhất cho mình chứ không chịu bắt tay với tội ác một lần nữa. Cái chết 
của Chí Phèo không chỉ lên án xã hội phong kiến thối nát mà còn thể hiện thái độ đồng cảm 
sâu sắc của Nam Cao đối với số phận bi thảm của người nông dân.


Mị  là người con gái xinh đẹp, yêu đời với sức sống thanh xuân căng tràn nhưng buộc trở 
thành con dâu trừ nợ cho gia đình thống lí. Sống tại gia đình thống lí, Mị phải làm việc quần  
quật ngày đêm, bị đối xử như con trâu, con ngựa, chà đạp cả về thể xác và tinh thần. Sống  
lâu trong cái khổ, Mị từ một cô gái trẻ trung, yêu đời trở thành người đàn bà cam chịu, lầm 
lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Mị bị tê liệt, đánh mất đi khả năng phản kháng trước thực  
trạng đau khổ  trước mắt. Trong đêm tình mùa xuân, sức sống bên trong Mị  đã được đánh 
thức nhưng sau đó lại bị thực tại tàn nhẫn đè nén để  cô trở lại đối với cuộc sống cam chịu  
thường ngày.
Trong đêm tình mùa xuân sức sống bên trong Mị  được đánh thức thì giọt nước mắt của A  
Phủ đã khiến cho sức sống  ấy bùng cháy dữ  dội để  thôi thúc Mị  vùng lên cứu sống A Phủ 
cũng là giải thoát cho cuộc sống của chính mình.

Qua hai nhân vật Chí Phèo và Mị, hai nhà văn Nam Cao và Tô Hoài đã thể hiện sự cảm thông  
sâu sắc đối với những người nông dân nghèo bất hạnh. Sự hồi sinh của Chí Phèo và Mị  thể 
hiện sự trân trọng, niềm tin của hai nhà văn đối với những giá trị nhân phẩm, sức sống tiềm 
tàng bên trong con người, đồng thời phê phán sâu sắc đối với xã hội đen tối đã đẩy con 
người đến con đường tha hóa.
Bài mẫu số 3:
Tô Hoài và Nam Cao được xem là hai cây bút xuất sắc trong nền văn học hiện đại Việt  
Nam. Hai ông có đặc điểm chung là ưa thích viết về những người nông dân chịu thương chịu 
khó bị  áp bức bóc lột. Nếu như  Nam Cao đi sâu khai thác hình  ảnh người nông dân  ở  làng  
Đại Hoàng – quê hương nhà văn tiêu biểu là nhân vật Chí Phèo. Thì Tô Hoài lại tìm đến 
những người nông dân chịu thương chịu khó ở vùng núi Tây Bắc xa xôi tiêu biểu là nhân vật  
Mị. Hai nhân vật khác nhau nhưng đều có điểm chung là sự  hồi sinh thức tỉnh sau những  
ngày tháng dài sống trong tăm tối. Nam Cao và Tô Hoài được xem là có sự  đồng điều tâm  
hồn, gặp gỡ  về  mặt tư  tưởng nhân đạo. Khi văn thơ  của họ  đều là tiếng nói yêu thương 
cảm thông sâu sắc với số phận con người trong xã hội phong kiến phải chịu áp bức bóc lột  
đến tha hóa cả  bản thân. Tuy nhiên, nhân vật của họ  không bị  khuất phục trước bóng đen  
của quyền lực mà ngay cuối đường họ  đã được hồi sinh quay trở  lại với bản ngã thiện  


lương.
Trước khi hồi sinh về  với  ước vọng sống bình thường cả  Chí và Mị  đều là những người 
nông dân hiền lành chăm chỉ. Chí Phèo vốn là một anh nông dân chăm chỉ   ở  đợ  cho nhà Bá 
Kiến. Vì ham mê nhục dục của bà Ba cùng sự  ghen tuông đớn hèn của Bá Kiến đã đẩy 
chàng thanh niên đó vào tù. Nhà tù thực dân nơi đầy oan trái đã làm tha hóa con người hiền  
lành của Chí và trả  lại một kẻ  mất đi cả  nhân hình và nhân tính. Trên mặt Chí có biết bao  
nhiêu là vết sẹo “vằn dọc vằn ngang”, “răng cạo trắng hớn”, “đầu trọc lốc” trông gớm 
ghiếc. Về nhân tính hắn được xem là con quỷ của làng Vũ Đại chuyên rạch mặt ăn vạ. Chí 
đã phải đối mặt với bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời cha mẹ  ruồng bỏ  hắn, dân làng từ 
chối hắn. Không một ai đón nhận hắn trở về với xã hội. Hắn bị  xã hội chối bỏ  quyền làm 
người và coi như “cục thịt thừa” trong làng.

 Mị vốn là một cô gái xinh đẹp tài giỏi được biết bao chàng trai ngưỡng mộ muốn có được 
nàng. Tuy nhiên, người con gái hương sắc vẹn toàn ấy lại rơi vào tấn bi kịch của cuộc đời  
khi phải làm dâu gạt nợ  cho gia đình nhà Thống Lí Pá Tra. Từ  đây, cuộc đời của Mị  bước  
vào chuỗi ngày dài tăm tối. Mị sống  ở nhà Thống Lí lầm lũi như một con rùa trong xó cửa. 
Ngày ngày chỉ  biết quay sợi, thái cỏ  ngựa, lên nương… làm quần quật từ  sáng đến đêm. 
Đến con trâu con ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi ăn cỏ còn đàn bà con gái nhà này không lúc 
nào được ngơi tay. Vì thế mà lúc nào, mặt cô cũng buồn rười rượi. Mị sống một cuộc sống 
không biết ngày mai sống mà như đã chết.
Để lý giải cho sự hồi sinh của hai nhân vật Chí Phèo và Mị cả Nam Cao và Tô Hoài đã xây  
dựng những tình huống kịch tính thức tỉnh nhân vật có bước chuyển biến về suy nghĩ cũng  
như hành động.
Ta thấy, ở nhân vật Chí Phèo sau những ngày dài chìm trong men rượu. Đêm hôm đấy Chí đã 
gặp Thị  Nở   – người con gái xấu như  ma chê quỷ  hờn của làng Vũ Đại. Sau cái đêm tình 
trong vườn chuối đó đã thực sự  hồi sinh con người Chí. Hắn lại nghe thấy những tiếng  
động thân thương của cuộc sống hàng ngày. Hắn cũng nhớ ra cũng đã có thời mình mơ ước 
được sống một cuộc sống bình dị. Vợ  chồng bảo nhau làm ăn, nuôi lợn, chăn gà xây dựng 
gia đình hạnh phúc. Một  ước mơ  về  cuộc sống bình thường như  bao người khác nay lại  


được khơi gợi lên từ khi gặp Thị Nở. Chí lại muốn làm người lương thiện. Hắn đến tìm Bá 
Kiến và kết thúc cuộc đời đầy đau khổ  của mình bằng câu hỏi “Ai cho tao lương thiện”.  
Mặc dù, Chí Phèo đã chết nhưng trước khi chết hắn đã tìm lại được thiện lương trong con  
người.
Đối với nhân vật Mị sự thức tỉnh của Mị nằm  ở hoàn cảnh Mị  trong cái đêm tình mùa xuân  
ấy và khi nhìn thấy những giọt nước mắt lăn dài trên gò má của A Phủ. Lòng ham sống  
mãnh liệt được đánh thức trong Mị. Mị nghe thấy tiếng áo gọi bạn tình và cô lại muốn mặc  
váy, muốn được sửa soạn đi chơi hội như ngày xưa. Những hành động đấy cho thấy chứng  
tỏ Mị đã đã thức tỉnh. Sức sống tiềm tàng trong con người đã được đánh thức nhờ tiếng sáo.  
Rồi đến khi cô chứng kiến A Phủ bị cha con nhà Thống Lí hành hạ trói ở cây cột ngoài sân.  
Cô biết nếu không chạy khỏi đây thì cũng chết dần chết mòn như  những người con dâu 

sống trong nhà Thống Lí trước đây. Nên cô đã cởi trói cho A Phủ  và cùng anh trốn đi tìm  
chân trời mới.
Cả Nam Cao và Tô Hoài đều xót thương và đồng cảm cho nhân vật của mình. Sự  hồi sinh  
về nhân tính cũng như khát vọng sống mãnh liệt của Chí Phèo và Mị  là tiếng nói phê phán  
gay gắt xã hội phong kiến thối nát. Nơi mà con người ta đã dùng quyền lực để áp bức đẩy  
những người nông dân hiền lành trở nên bị tha hóa mất hết ý thức sống.
Hai truyện ngắn Vợ  chồng A Phủ của Tô Hoài và Chí Phèo của Nam Cao đã cho ta thấy 
mặc dù viết về  cuộc đời của hai nhân vật có số  phận khác nhau. Nhưng điểm chung giữa 
nhân vật Chí Phèo và Mị là đều có một cuộc đời bất hạnh. Trải qua nhiều đau khổ mất mát  
họ mới tìm lại được con người trước đây của mình. Sự hồi sinh và thức tỉnh của họ chính là 
tiếng nói cảm thương của tác giả  và thể  hiện được giá trị  nhân văn sâu sắc trong hai tác  
phẩm.
VnDoc xin giới thiệu tới các em bài Cảm nhận quá trình thức tỉnh của nhân vật Mị  liên hệ 
với Chí Phèo. Hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em ôn luyện hiệu quả và đạt kết  
quả cao. Các em có thể xem thêm các tài liệu khác tại mục Tài liệu học tập lớp 12




×