Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

So sánh hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa và bà cụ Tứ trong Vợ nhặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.83 KB, 8 trang )

Đề bài: So sánh hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm "Chiếc thuyền  
ngoài xa" và bà cụ Tứ trong "Vợ nhặt"
Bài làm
Kim Lân đã để cho bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa tác phẩm, thế nhưng bà cụ Tứ đã trở thành  
nhân vật trung tâm của tác phẩm. Khi miêu tả bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thực trong  
từng hình  ảnh và từng chi tiết. Bà cụ  Tứ hiện lên là một bà mẹ  có số  phận bất hạnh vì  
chồng bà chết sớm, đứa con gái út cũng mất sớm, bà chỉ còn lại một đứa con trai duy nhất 
làm nghề kéo xe bò và anh ta là người dở  hơi. Chính vì vậy, hai mẹ con sống trong một  
căn nhà tồi tàn, rúm ró  ở  xóm ngụ  cư  và người con trai đang có nguy cơ   ế  vợ. Nỗi đau  
khổ, tủi nhục suốt đời đè nặng lên thân phận đã tạo nên tính cách của bà. Chân dung nhân  
vật bà cụ  Tứ  được tác giả  giới thiệu dần dần. Bắt đầu là "tiếng người húng hắng ho", 
rồi một bà lão với cái dáng "lọng khọng" từ  đầu ngõ "vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì 
trong miệng". Tính từ "lọng khọng" rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc hình 
dung ra cái dáng gầy gò, xiêu vẹo của bà mẹ  già bởi gánh nặng cuộc đời, bởi cái đói  
nghèo. Và chính cái nghèo khó cũng làm trên khuôn mặt bà hiện lên một nét "bủng beo u  
ám". Qua miêu tả  ngoại hình bà cụ  Tứ, mà chúng ta thấy được, đó là người mẹ  có cuộc  
đời khổ cực, bất hạnh.
Kim Lân rất khéo léo dẫn dắt để  người đọc cùng suy nghĩ, cùng hòa vào những nét tâm 
trạng buồn vui của bà cụ Tứ. Tác giả đặt bà cụ Tứ vào một hoàn cảnh hoàn toàn bất ngờ. 
Giữa những ngày đói kém khủng khiếp năm 1945 "người chết như ngả rạ" và "không khí  
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", rồi thứ tiếng "gào lên từng 
hồi thê thiết" của những con quạ đậu trên "mấy cây gạo ngoài bãi chợ", thì đứa con trai  
của bà cụ bỗng dưng "nhặt" được vợ  trong một lần kéo xe thóc bò của liên đoàn lên tỉnh 
và dẫn về nhà giới thiệu với mẹ mình. Chính những điều đó đã tác động rất mạnh khiến 
cho bà cụ Tứ xuất hiện nhiều nét tâm trạng đan xen. Những nét tâm trạng của bà thể hiện  
ở hai thời điểm chiều hôm trước và sáng hôm sau rất khác nhau, nhưng những tâm trạng 
của bà đều là sự nhìn nhận và suy ngẫm về chuyện lấy vợ của Tràng.


bà cụ, gánh hàng Chiều hôm trước, bà cụ Tứ mang một tâm trạng ngạc nhiên khi từ ngoài  
ngõ đi vào, thấy thái độ  khác thường của Tràng "reo lên như  một đứa trẻ" và "lật đật  


chạy ra đón mình" thì bà lão theo con vào trong nhà với tâm trạng "phấp phỏng". Đó là  
biểu hiện của sự lo lắng, của sự hồi hộp bởi bà không biết có sự gì sẽ  đợi mình ở trong 
nhà. Khi đến giữa sân, nhìn thấy người đàn bà thì bà cụ ngạc nhiên "đứng sững lại" ­ một 
biểu hiện nữa của sự ngạc nhiên và đó là "sự ngạc nhiên hơn". Điều đó chứng tỏ sự ngạc  
nhiên trong bà càng lúc càng nhiều, sự  ngạc nhiên sau lớn hơn sự ngạc nhiên trước. Tác  
giả đã dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng băn khoăn, thắc mắc của bà 
cụ lúc này. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: "Quái, sao lại có người  
đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình 
thế kia ? Sao lại chào mình bằng u ? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ ?" Một loạt  
các câu hỏi ấy chính là sự lục tìm trong trí óc của mình để tìm câu trả lời cho thỏa đáng.  
Nhưng bà cụ  vẫn chưa tìm thấy câu trả  lời, vì thế  mà bà đổ  lỗi cho cặp mắt của mình,  
không tin vào mắt mình "bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt 
mình nhoèn ra thì phải". Bà lão "nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người 
nào" nên bà quay sang dò hỏi con trai với sự ngạc nhiên không hiểu của chính mình. Khi 
người đàn bà trông thấy bà cụ về, cất tiếng chào "U đã về ạ", thì kể  cả  tiếng chào ấy ­  
một lời chào thân mật cũng không làm bà hiểu ra. Bà vẫn băn khoăn, phân vân đoán định 
và một câu hỏi nữa đặt ra: "Ô hay, thế là thế nào nhỉ ?" rồi bà lão "băn khoăn ngồi xuống  
giường". Mãi đến khi Tràng vừa giới thiệu, vừa giải thích "đây là nhà tôi" rồi "chúng tôi  
phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả" thì bà lão mới bắt đầu  
hiểu ra. Khi hiểu ra thì bà lão "cúi đầu nín lặng". Cái tư thế "cúi đầu nín lặng" của bà cụ 
Tứ  hàm chứa biết bao suy nghĩ, tâm sự, nỗi niềm và những tâm sự, nỗi niềm  ấy khó có  
thể  nói thành lời. Dường như  qua tư  thế  đó, người đọc dần dần nhận ra nội tâm phong 
phú bên trong cái vẻ  tưởng chừng như  già nua, lẩm cẩm của bà. Trong bà cùng một lúc 
xuất hiện cả  con người lí trí và con người tình cảm. Con người lí trí không chỉ  giúp bà  
hiểu ra là con trai bà đã có vợ  mà nó còn giúp cho bà hiểu ra những khó khăn, đói nghèo 
mà Tràng phải chịu đựng; rồi lại giúp bà hiểu ra chính số phận bất hạnh của đời bà khiến  
cho con bà sống trong hoàn cảnh trớ  trêu như  vậy. Còn con người tình cảm của bà tỏ  ra 


rất "xót thương cho số kiếp đứa con mình". Sự  ai oán, sự  xót thương đó vừa hướng tới 

chính mình, vừa hướng tới con bà, vừa thể  hiện nỗi đau của bản thân, vừa mang tình 
thương tới người con trai. Bởi vậy cho nên bao cảm xúc của bà lão vừa tội nghiệp, lại 
vừa nhân hậu biết bao !.
Cảm xúc trong bà càng lúc càng cụ  thể  hữu hình: "Chao ôi, người ta dựng vợ  gả  chồng 
cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn  
mình thì...". Đọc câu văn này, chúng ta có cảm giác như trái tim người mẹ khốn khổ đang 
rung lên đau đớn, xót xa. Cảm xúc của người mẹ hàm chứa sự so sánh giữa người ta với 
con mình trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng cho con. Lối so sánh ấy làm nổi bật không  
phải chỉ sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình bà mà dường như còn hàm chứa sự trách 
móc của bà với chính bản thân. Một sự ai oán cho bản thân bà ! Đó cũng chính là sự biểu  
hiện của sự day dứt trong lòng bà. Nhưng tất cả đều là biểu hiện của lòng nhân ái à lòng  
thương con rất tha thiết.
Cảm xúc xót thương còn được thể  hiện qua sự  lo lắng của bà hướng tới các con: "Biết 
rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không". Vừa tủi phận  
mình, vừa thương con khiến cho "trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước 
mắt". Bà lão kìm nén xúc động, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào cõi lòng vốn  
đã chất chứa đầy đau khổ của một đời tủi cực. Những giọt nước mắt vẫn cứ lặng lẽ rỉ ra  
từ  đôi mắt đục mờ  của người mẹ  già tội nghiệp. Đoạn văn không chỉ  là những câu trần 
thuật đơn thuần mà mỗi câu văn đều rưng rức cảm xúc xót thương của tác giả.
Diễn biến câu chuyện đã lên tới đỉnh điểm. Cái sắc sảo, tinh tế trong nghệ thuật miêu tả 
tâm lí nhân vật của Kim Lân được thể  hiện khá đậm nét. Cả  ba nhân vật đều có chung 
một tâm trạng căng thẳng. Tràng và người "vợ nhặt" chờ đợi người mẹ già nua lên tiếng.  
Bà cụ Tứ hiểu ra câu chuyện thì sự đau buồn của bà khiến cho bà lão "khẽ thở dài" vì bà  
muốn giấu đi nỗi buồn khổ và sự lo lắng của chính mình. Bà lão tạm thời bứt ra khỏi tâm  
trạng triền miên của cảm xúc suy tư  để  hướng về  người vợ  nhặt, để  "đăm đăm nhìn 
người đàn bà" khi thị "cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt". Bà lão không chỉ nhìn  
người con dâu bằng thị  giác mà còn hướng tới con dâu bằng cả  tấm lòng. Vì thế  bà lão  


nghĩ: "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà 

con mình mới có vợ  được...". Trong suy nghĩ đó của người mẹ hướng tới hai đối tượng  
"người ta" và "con mình". "Người ta" trở  thành người mang  ơn và "con mình" là người 
chịu ơn. Điều đó đã chứng tỏ người mẹ già không hề coi thường, khinh bỉ người vợ nhặt,  
mà còn cảm thông, trân trọng, mặc dù đó là người đàn bà rách rưới, nghèo đói và không  
gia đình. Từ tâm tình dành cho người vợ nhặt, bà lão lại nghĩ về bổn phận người làm mẹ, 
để  tiếp tục day dứt "chẳng lo lắng được cho con...". Bà đã phó thác, trông chờ  số  phận  
vào sự may rủi: "May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ,  
nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo  
cho hết được". Hoàn cảnh thật bi đáp khốn cùng ! Mặc dù lo lắng, mặc dù đau buồn 
nhưng dường như người mẹ đã chấp nhận "nàng dâu mới" tự lúc nào. Sau khi "khẽ dặng 
hắng một tiếng", bà lão "nhẹ  nhàng" nói với "nàng dâu mới": "Ừ, thôi thì các con phải  
duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...". Một sự chấp nhận tự nguyện của người  
mẹ trong tâm trạng vui mừng. Hai tiếng "mừng lòng" mà bà lão nói với các con thật chất  
phác, chân tình biết bao ! Lời nói mộc mạc  ấy đã đem lại sự  xúc động và yên tâm cho  
người vợ  nhặt đáng thương kia. Sự  chấp nhận của bà cụ  Tứ  khiến anh Tràng "thở  đánh 
phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi".
Bà mẹ nghèo khổ, nhân hậu đã thấu hiểu cảnh ngộ và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ 
bỗng dưng trở  thành "con dâu" của mình. Ngôn ngữ  độc thoại nội tâm  ở  đoạn này một  
lần nữa diễn tả tinh tế tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ  Tứ. Cảm xúc như  những 
đợt sóng cứ  cuộn lên trong lòng người mẹ, khiến người đọc xót xa. Chao ôi, người mẹ 
thật tội nghiệp !. Tình thương con, ý thức trách nhiệm của người mẹ khiến cho bà phải lo  
cưới vợ cho con bằng tất cả khả năng, dẫu chỉ là lời nói...
Khi đã nhận "nàng dâu mới" thì bà cụ  Tứ  tiếp tục tâm sự, từ  tốn dặn dò các con mình:  
"Nhà ta thì nghèo con  ạ. Vợ  chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà 
ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái  
chúng mày về  sau". Trong lời tâm sự  của bà, có lời thú nhận rất chân thật là "nhà ta thì 
nghèo". Từ cái lí do ấy thì bà mẹ đã nhắc nhở các con "Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo  


nhau làm ăn". Tuy nhắc nhở  vậy, bà còn động viên các con mình bằng một câu nói rất  

quen thuộc trong dân gian: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời ?". Lời động viên đó thể  hiện  
niềm lạc quan của người mẹ nghèo trong hoàn cảnh khốn cùng. Hơn nữa, bà lão còn gieo  
cho các con niềm tin vào tương lai. Quả là một lời động viên đáng quý, giúp cho các con 
bà có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này. Tâm trạng của bà cụ Tứ lẫn lộn buồn vui, lo  
lắng. Trong lòng bà cụ vẫn luôn ám ảnh bởi cái nghèo, cái khổ khiến cho bà lão "đăm đăm  
nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc  
trong cánh đồng tối. Mùi đống rấm  ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét 
lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài". Trong lòng bà còn ám ảnh bởi cả sự bất hạnh về thân 
phận của bà. Bởi vậy, trong kí ức của bà lão "nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út.  
Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ  dài dằng dặc của mình". Tất cả  đã hiện về  như  một  
cuốn phim dài bất tận, như một tấn bi kịch của cuộc đời bà. Từ  những cảm xúc đó, tâm  
trạng lo lắng lại một lần nữa hiện về trong bà, bà lo cho các con: "Vợ chồng chúng nó lấy 
nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...". Mặc dù lo lắng nhưng bà  
vẫn cố  gắng gần gũi với người con dâu bằng lời mời thân mật: "Con ngồi xuống đây. 
Ngồi xuống đây cho đỡ  mỏi chân". Lời mời ấy đã rút ngắn khoảng cách giữa người mẹ 
và "con dâu" và cũng đã an  ủi người "vợ nhặt" ít nhiều. Lời mời của người mẹ thể hiện  
tình thương, sự  chấp nhận "nàng dâu mới" của bà. Nổi bật hơn cả  vẫn là tấm lòng 
thương xót của bà cụ  Tứ  với người con dâu mới: "Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy  
thương xót. Nó bây giờ đã là con dâu trong nhà rồi". Bà lão tiếp tục tâm sự với người vợ 
nhặt bằng những lời thân mật: "Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà 
mình nghèo, cũng chả  ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa 
thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương 
quá...". Trong lời nói của bà cụ chứng tỏ bà là người rất hiểu đời và hiểu người. Bà hiểu  
rằng khi cưới xin cho con thì phải có vài ba mâm cỗ  trước trình tổ  tiên, ông bà, sau mời 
làng, mời xóm. Bà cũng hiểu được lòng người, hiểu được sự bao dung của mọi người, họ 
sẽ thông cảm cho cảnh nghèo của bà mà không chấp nhặt, tính toán. Bà cũng hiểu ra đạo 
lí tạo nên gắn kết vợ  chồng chính là sự  hòa thuận. Nói đến đây thì bà cụ  "nghẹn lời  
không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng". Những giọt nước mắt của bà 



cụ Tứ chất chứa bao tình thương hướng tới các con. Giọt nước mắt của bà là biểu hiện  
của tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo. Nó rất đáng quý hơn bao những  
vật chất tầm thường mà bà dành cho các con.
Tâm trạng của bà cụ Tứ vào chiều hôm trước là sự  đan xen cảm xúc lo lắng, vui mừng,  
xót xa, buồn tủi, thế  nhưng vào buổi sáng của ngày hôm sau, thì tâm trạng bà luôn tràn  
ngập một niềm vui. Niềm vui  ấy được thể  hiện trên khuôn mặt của người mẹ: "bà nhẹ 
nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Niềm  
vui còn được thể hiện qua hành động của bà: "xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa" với ý  
nghĩ "thu xếp của nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ  có thể khác đi, làm ăn có 
cơ khấm khá hơn". Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia thất. Bà cũng vơi đi  
một mối lo âu bấy lâu cứ canh cánh bên lòng và trong bữa ăn đầu tiên của ba mẹ con, dẫu  
chỉ  có "rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo" nhưng bà "toàn nói chuyện vui, 
toàn chuyện sung sướng về sau này". Câu chuyện người mẹ già kể  cho các con vào bữa 
cơm đầu tiên sau ngày cưới, mặc dù đó vẫn chỉ là chuyện làm ăn, chuyện gia cảnh nhưng  
trong câu chuyện của bà không còn có quá khứ  mà chỉ  có tương lai. Câu chuyện của bà 
thật giản dị  ! Đó là chuyện mua gà, nuôi gà, có đàn gà con mà người mẹ  nói với Tràng:  
"Tràng  ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ  đầu bếp kia làm cái  
chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả  mấy mà có ngay đàn gà con mà 
xem...". Chính câu chuyện vui của bà mẹ đã làm cho cuộc sống trở nên vui vẻ và đầm ấm 
hơn rất nhiều. Tuy vậy, trong bữa ăn càng lúc càng trở  nên nghèo nàn khiến cho "câu 
chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được 
có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn". Thế nhưng, bà lão lại "lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ 
bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút" và bà lão khen "chè khoán đây, ngon đáo để 
cơ". Dường như bà lão cố xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng quên đi tình cảnh khốn  
khổ bằng thái độ tươi tỉnh. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy là tấm lòng người mẹ đang thổn 
thức lo âu. Bà lão "đãi" nàng dâu mới món ăn đặc biệt gọi là "cháo khoán", nấu bằng cám,  
khen "ngon đáo để" và so sánh "xóm ta khối nhà còn chả  có cám mà ăn đấy". Qua đó, bà 
động viên các con, để các con bà có thêm sức mạnh tinh thần để vượt qua "tao đoạn" ngặt  
nghèo, khó khăn này. Chi tiết này làm cho chúng ta cũng phải cảm động rơi lệ  bởi tình 



thương, tấm chân tình đáng quý của bà. Kết lại đoạn văn là giọt nước mắt của người mẹ 
nhưng bà lão "ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc".
Cái tài của Kim Lân là cứ  nhẹ  nhàng mà luồn lách ngòi bút động đến nơi sâu thẳm của 
tâm hồn. Ông đã diễn tả thật sâu sắc và tinh tế tâm lí của bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo  
khổ  mà hiểu biết, yêu thương con hết lòng và yêu thương cả  những mảnh đời oái oăm, 
tội nghiệp bằng một tấm lòng nhân ái sâu xa. Bà đã cố  gắng xua đi cái ám  ảnh đen tối  
đáng sợ  của thực tại và nhen núm niềm tin, niềm vui cho các con. Trong cái thân hình 
khẳng khiu, tàn tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt.
Trong văn học Việt Nam, ngoài tình phụ tử như của Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của  
nhà văn Nam Cao thì tình mẫu tử  trong đoạn trích "Trong lòng mẹ" của nhà văn Nguyên  
Hồng thật đáng chân trọng. Người mẹ vì phải thoát khỏi cổ tục nghiệt ngã mà tha hương 
cầu thực nhưng vẫn yêu thương, hi sinh vì con mình. Hay người đàn bà hàng chài không  
tên trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu là người mẹ  phải  
chịu sự hành hạ, đánh đập dã man của người chồng nhưng lại giàu tình thương, lòng bao 
dung, vị tha, giàu đức hi sinh, luôn sống vì con, hi sinh cho hạnh phúc của con. Và bà cụ 
Tứ cũng là một người mẹ nhân hậu, giàu đức hi sinh, hết lòng yêu thương con.
Qua truyện ngắn "Vợ  nhặt", nhà văn Kim Lân đã dựng lên hình  ảnh chân thực và cảm 
động về một người mẹ nghèo khổ hết lòng vì con. Ngòi bút tinh tế, sắc sảo của tác giả đi 
sâu phân tích diễn biến tâm lí phức tạp của bà cụ  Tứ  và thể  hiện qua từng lời nói, ánh 
mắt, trong suy nghĩ, hành động và sự  lo xa cho tương lai các con. Phải là người có vốn 
sống phong phú, thấu hiểu và thông cảm, yêu mến và chân trọng những người nghèo khổ 
thì Kim Lân mới có thể diễn tả một cách chân thực và tài tình đến vậy.
Truyện ngắn "Vợ nhặt" không đơn thuần là những trang văn mà là những trang đời thấm 
đẫm nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho hiện tại và le lói niềm tin vào 
tương lai của bà mẹ nghèo. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến người đọc rung động sâu sắc trước 
tấm chân tình tha thiết của người mẹ già. Người mẹ già ấy chính là ánh sáng le lói trong  
bối cảnh bi thảm của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ đã làm cho giá trị 



nhân đạo của tác phẩm trở nên thấm thía, cảm động hơn rất nhiều. Bà cụ Tứ đã đọng lại  
trong lòng người đọc bao suy nghĩ và rung động sâu xa.



×