Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phân tích sức mạnh của tình yêu thương con người thể hiện qua “Vợ nhặt” của Kim Lân và “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.8 KB, 5 trang )

Đề bài: Phân tích sức mạnh của tình yêu thương con người thể hiện qua “Vợ nhặt”  
của Kim Lân và “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
Bài làm
Một tác phẩm có nhiều thước đo giá trị, trong đó tình người, lòng yêu thương lẫn nhau  
chính là thước đo chủ yếu và cơ bản nhất,  quyết định sức sống của tác phẩm đồng thời  
qua đó, thể  hiện thái độ, tình cảm và cách nhìn nhận của nhà văn đối với con người và 
cuộc sống. Hai truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Vợ nhặt (Kim Lân), đều toát lên 
được tình người mà tác giả  dành cho các nhân vật của mình, khác với văn xuôi thời kỳ 
trước 1945, đây là giá trị nhân đạo mới.
Macxim Gorki đã nói “Văn tức là người”. Đối tượng phản ánh trung tâm của văn học là  
con người. Nhà văn chân chính đi tìm bề sâu và mọi tâm trạng tinh vi, phức tạp nhất của  
tâm hồn con người để hiểu và yêu con người. Chính vì thế giá trị nhân đạo luôn là vấn đề 
cấp thiết trong văn chương mọi thời đại. Số  phận con người, những khát vọng của con  
người không bao giờ lại cũ cả.
Sức mạnh của tình thương yêu con người được thể hiện rõ nét nhất qua đoạn Mị cứu A 
Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) và Tràng đối với cô vợ theo (Vợ nhặt – Kim Lân)
Đầu tiên là tác phẩm “Vợ  chồng A phủ” qua hành động Mị  cắt dây trói giải thoát cho A  
Phủ là biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con người:
Lúc đầu, Mị  dửng dưng vô cảm trước cái chết cận kề  của A Phủ. Nhưng sau đó, dòng 
nước mắt của A Phủ  “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã thức dậy lòng thương 
người trong Mị. Lòng thương người ấy đã làm sống dậy trong Mị sức phản kháng mạnh 
mẽ. Nếu nói đêm tình mùa xuân là “tia lửa nhỏ” thì đêm cứu A Phủ  là “đám cháy lớn”.  
Đám cháy ấy bùng lên khi Mị nhận thức được tội ác cha con nhà thống lý “Trời ơi chúng 
trói người ta đến chết thì thôi, chúng nó trói chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái 
nhà này. Chúng nó thật độc ác”. Nhận thức ấy là nhận thức hoàn toàn bằng lí trí, bằng sự 
tỉnh táo. Từ  nhận thức  ấy mà sự  nổi loạn thứ  hai của Mị  mới thật là mong muốn của  


người đọc. Mị đã cắt đứt dây trói cho A Phủ. Rồi Mị cũng vụt chạy theo A Phủ vì theo Mị 
“Ở đây thì chết mất”. Hơn một lần trong truyện này Mị sợ chết. Lần đầu là thức dậy sau  
đêm bị trói nghĩ đến người đàn bà đời trước bị trói đến chết trong căn nhà này “Mị sợ quá.  


Mị cựa quậy xem mình còn sống hay là đã chết”. Lần thứ hai là lúc Mị cắt đứt xong dây  
trói cho A Phủ. Như vậy, sợ chết là biểu hiện cao độ  nhất của lòng ham sống. Đó là vẻ 
đẹp sức sống tiềm tàng của con người lao động Tây Bắc và niềm tin của nhà văn vào khả 
năng vươn dậy của nhân vật.và đó cũng chính là tình yêu thương con người, giữa con 
người với con người.
Sau những hành động của mình vừa làm, Mị  cảm thấy “hốt hoảng”, rồi đột nhiên “vụt 
chạy” đuổi theo A Phủ, và nói “A Phủ cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất!” đây chính là lúc 
mà tình yêu thương con người được đẩy lên cao trào, bắt đầu hành trình từ  “thung lũng 
đau thương” đến “cánh đồng vui” ở mảnh đất Phiềng Sa.
Mị và A Phủ từ tăm tôi đau th
́
ương đã vươn lên anh sang cua t
́
́
̉ ự do va nhân phâm. H
̀
̉
ọ  đã 
cùng nhau đạp qua đêm tối, vươn đến ngày mai  ở  Phiềng Sa, nên vợ  nên chồng. Cả  hai  
người đã theo Cách mạng, theo Đảng, đánh giặc, bảo vệ quê hương và thay đổi số phận  
của mình. Cũng qua đó, tac gi
́ ả đã bay to thai đô bênh v
̀ ̉ ́ ̣
ực quyên sông cua con ng
̀ ́
̉
ươi va la
̀ ̀ ̀ 
bai ca ca ng
̀

ợi phâm chât tôt đep cua ng
̉
́ ́ ̣
̉
ươi lao đông, đăc biêt la s
̀
̣
̣
̣ ̀ ưc sông tiêm tang va hanh
́ ́
̀ ̀
̀ ̀  
đông t
̣
ự giai phong cua nhân vât, đông th
̉
́
̉
̣
̀
ơi đăt niêm tin va s
̀ ̣
̀
̀ ự  trân trong, nâng niu đôi v
̣
́ ới 
khat vong sông tôt đep cua con ng
́ ̣
́
́ ̣

̉
ươi du bi đay đ
̀ ̀ ̣ ̀ ọa đau khô.̉
Chỉ cần những hành động của Mị đó thôi, tuy có vẻ rất đơn giản nhưng phải có dũng khí  
lắm, người con gái đã từng cảm chịu kiếp sống trâu bò đó mới có thể dám làm, nếu không 
xuất phát từ  tình thương người thì chắc chắn Mị  đã không hành động như  thế. Vì vậy 
hành động đó có ý nghĩa to lớn vì nó là sự hồi sinh, làm thức tỉnh một kiếp người, đồng 
thời là biểu tượng của tinh thần phản kháng quyết liệt với cái ác, cái xấu. Sự hồi sinh đó  
xuất phát từ tình yêu thương con người sâu sắc mà xã hội cũ đang cố tình vùi dập nó.
Còn trong tác phẩm “vợ  nhặt” của Kim Lân, tình yêu thương con người được thể  hiện  
qua hành động của Tràng, và Mị: Mị và A Phủ từ tăm tôi đau th
́
ương đã vươn lên anh sang
́
́  


cua t
̉ ự do va nhân phâm. H
̀
̉
ọ đã cùng nhau đạp qua đêm tối, vươn đến ngày mai ở Phiềng 
Sa, nên vợ  nên chồng. Cả  hai người đã theo Cách mạng, theo Đảng, đánh giặc, bảo vệ 
quê hương và thay đổi số phận của mình. Cũng qua đó, tac gi
́ ả đã bay to thai đô bênh v
̀ ̉
́ ̣
ực  
quyên sông cua con ng
̀ ́

̉
ươi va la bai ca ca ng
̀ ̀ ̀ ̀
ợi phâm chât tôt đep cua ng
̉
́ ́ ̣
̉
ười lao đông, đăc
̣
̣  
biêt la s
̣ ̀ ưc sông tiêm tang va hanh đông t
́ ́
̀ ̀
̀ ̀
̣
ự  giai phong cua nhân vât, đông th
̉
́
̉
̣
̀
ời đăt niêm tin
̣
̀
 
va s
̀ ự trân trong, nâng niu đôi v
̣
́ ơi khat vong sông tôt đep cua con ng

́
́ ̣
́
́ ̣
̉
ươi du bi đay đ
̀ ̀ ̣ ̀ ọa đau 
khô.̉
Đầu tiên là ngượng ngùng, xấu hổ. Từ khi rơi vào tình cảnh theo không Tràng làm vợ, cô 
vợ nhặt trên đường theo Tràng về bộc lộ rõ nét tâm lý ngượng ngùng, xấu hổ. Bên cạnh  
dáng vẻ phởn phơ, tự đắc của Tràng, thì cái vẻ thèn thẹn của người vợ càng lộ rõ. Thậm  
chí trước lời bàn tán của dân xóm ngụ cư, thị “ngượng ngùng chân nọ díu vào chân kia, thị 
chỉ  dám càu nhàu  ở  trong miệng”, càu nhàu khẽ  đến mức Tràng đi bên cạnh mà không 
nghe rõ. Ra thế, những nét đanh đá, chỏng lỏn, sống sượng không phải là bản chất mà là 
sản phẩm của hoàn cảnh năm đói, vẫn còn đó nguyên vẹn trong chị  vẻ  thuần hậu của  
người phụ nữ lao động thôn quê.
Trên đường gần về nhà Tràng, người vợ  nhặt rơi vào tâm trạng lo âu, phấp phỏm, điều  
này được thể hiện rõ qua những câu hỏi dồn dập của thị với Tràng: “Nhà có ai không?”,  
“Sắp đến chưa?”,”Sao lâu thế?”….Bởi chị theo không Tràng là bất đắc dĩ, là để  tránh cái 
đói quay quắt, không biết những gì đang đợi chị  ở phía trước cho nên trong lòng lo lắng, 
bất an. Rồi khi trông thấy gia cảnh nhà Tràng chỉ  là một “cái nhà vắng teo đứng rúm ró  
trên mảnh vườn mọc lổm ngổm những bụi cỏ dại”, người vợ nhặt không nén nổi tiếng  
thở  dài ngao ngán. Khi bước vào nhà, chị  đứng khép nép tay vân vê tà áo rách, mặt bần  
thần. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả thật tinh tế tâm lý của người vợ nhặt khi rơi vào tình 
huống theo không Tràng về làm vợ.
Kim Lân rất tinh tế, chỉ điểm thoáng qua vài biểu hiện thất vọng ở người phụ nữ rồi ông  
chuyển sang một nét nhân bản hơn; không tránh được cái đói, cái rách, không tránh được  
cái nghèo, cái khổ, người vợ nhặt đã tìm được một điểm tựa tinh thần. Đó là mái ấm gia 
đình. Vì vậy có những lúc người vợ  nhặt bộc lộ  niềm vui, phấn chấn, hạnh phúc qua 



ngôn ngữ  và cử  chỉ  thân mật như  mắng Tràng “hoang nó vừa vừa chứ”…” chỉ  được cái  
thế là nhanh. Dơ!”. “Đồ khỉ gió”. Có lúc khặm mặt lại, lườm Tràng một cách tình tứ. Cái 
lườm của cô vợ nhặt gợi cho ta nhớ đến câu nói nổi tiếng của Nam Cao trong kiệt tác Chí  
Phèo: “Người đàn bà dù xấu đến đâu, khi yêu cũng lườm”. Cái lườm của người vợ nhặt ở 
đây quả  là đã vượt lên trên cái đói, cái khát để  đi đến một niềm hạnh phúc rất  đời 
thường.
Được sống trong tình thương  ấm áp của gia đình bà cụ  Tứ, người vợ  nhặt đã có được 
những thay đổi rõ nét: dịu dàng, đôn hậu trở  lại, cùng bà mẹ  chồng “xăm xắn” quét dọn 
vườn tược, nhà cửa. Việc quét dọn nhà cửa trong những ngày tháng ấy xét về mặt kinh tế 
thì vô nghĩa nhưng nó lại có ý nghĩa to lớn về mặt giá trị tinh thần nhân văn.Tràng, cô vợ 
nhặt, bà cụ Tứ không chấp nhận lối sống tạm bợ qua ngày, họ  vẫn hướng tới một cuộc 
sống bền vững, tốt đẹp hơn. Sự  thay đổi của cô vợ  nhặt cũng khiến Tràng không khỏi  
ngạc nhiên: ” nom Thị  hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực 
không còn vẻ  gì chao chát chỏng lỏn như  mấy lần Tràng gặp  ở  ngoài tỉnh.” Không chỉ 
vậy, cô vợ  nhặt còn có những dự  cảm tốt đẹp về  tương lai. Cuối tác phẩm, cô vợ  nhặt  
nhắc đến truyện ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta phá kho thóc của Nhật chia cho dân 
nghèo. Câu chuyện tưởng vu vơ này nhưng lại bộc lộ một dự cảm đổi đời, một cuộc thay 
đổi số phận trong đó có người vợ nhặt.
Qua hai tác phẩm trên ta mới thấy được sức mạnh của tình thương yêu nó cao như  thế 
nào,  giúp con người vượt qua tất cả. Bằng tình thương và cái nhìn nhân đạo, nhà văn đã  
ngợi ca vẻ đẹp của người lao động và luôn muốn tìm cho nhân vật của mình một hướng 
đi mới và tươi sáng hơn.
Bên cạnh những cái chung, điểm giống nhau của hai tác phẩm thì hiện thực cuộc sống 
được phản ánh trong hai tác phẩm khác nhau:
Trong tác phẩm “Vợ  chồng A Phủ” là bối cảnh sau cách mạng và trong kháng chiến  ở 
miền núi Tây Bắc. Nói về  những con người lao động  ở  vùng núi cao và chế  độ  phong 
kiến vẫn còn đang đè nặng lên chính những con người nơi đây.



Còn “Vợ nhặt” của Tô Hoài lại lấy bối cảnh là nạn đói trước cách mạng và ở miền xuôi. 
Vào năm 1945 khi mà nạn đói hoành hành và phải khiến hơn 2 triệu người Việt Nam phải  
chết đói trong đợt đói đấy
Đối với Mị, Mị là nạn nhân của chế độ chúa đất phong kiến ở miền núi. Giá trị con người  
không được xem trọng, đưa ra đong đếm, mua bán, gán nợ  như  đồ  vật hay trâu bò vậy. 
Còn vợ nhặt, cô là nạn nhân của nạn đói do bọn phong kiến, thực dân, phát xít gây ra.
Phong cách nghệ thuật, bút pháp miêu tả của mỗi tác giả khác nhau: Kim Lân chú ý khai 
thác từ tình huống và tâm lí nhân vật. Trong khi Tô Hoài có lối miêu tả nhân vật độc đáo.
Qua nhân vật và tình huống truyện, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối 
trong hiện thực xã hội, cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm 
hồn của họ. Đó là niềm cảm thông sâu sắc với nỗi đau của con người, sự  nâng niu nét 
đẹp tâm hồn mà hơn cả là sự hướng tới giải phóng cho con người.



×