Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Vì sao đêm đêm chị em Liên cố thức đợi tàu trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.85 KB, 4 trang )

Đề bài: Vì sao đêm đêm chị em Liên cố thức đợi tàu trong truyện ngắn Hai đứa trẻ 
của Thạch Lam
Bài làm
Hai đứa trẻ  là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất của nhà văn Thạch  
Lam. Chuyện có cốt truyện đơn giản, như  có, như  không. Nhân vật là nhân vật trữ  tình 
với nội dung tất cả đều xoay quanh tâm trạng của hai chị em Liên. Nhân vật của Thạch  
Lam đều có một điểm chung như vậy, không có những suy nghĩ quá sâu sắc, thường chỉ 
thể  hiện những cảm giác, những vui buồn. Họ  chỉ  ngồi yên lặng lắng nghe tiếng nói 
thầm kín trong tâm tưởng mình, biết phân tích, lý giải và đề  xuất những khái quát đầy 
triết lý như trong các nhân vật thường thấy của Nam Cao.
Nhưng, đằng sau thế  giới nhân vật với những tâm trạng như  thế, người ta vẫn có thể 
thấy thấp thoáng đâu đó hình  ảnh của tác giả, người kể  chuyện. Nhân vật này thì giao  
những suy tư, thương được phát biểu bằng một giọng nói rất dịu dàng, nhỏ  nhẹ  với  
những ý nghĩa nhân đạo sâu sắc.
Cả tác phẩm xoay quanh một buổi tối đợi tàu của hai chị em Liên. Đọc Hai đứa trẻ, có rất  
nhiều người thắc mắc rằng tại sao chúng đêm nào cũng cố thức để nhìn thấy chuyến tàu  
đi qua. Để trả lời được câu hỏi này thì ta cần phải có một cái nhìn khái quát, bao gọn toàn 
bộ tác phẩm.
Truyện ngắn xuôi theo logic tâm trạng của nhân vật trữ  tình là Liên. Đến cuối cùng của 
tác phẩm, tô đậm lên đó là tư tưởng mà Thạch Lam muốn gửi gắm.
Đầu tiên, ta có thể thấy được tâm trạng buồn của Liên trước quang cảnh tàn lụi của một 
ngày. Đó là thiên nhiên, làm âm thanh, là cảnh đời nơi phố  huyện nghèo đói lúc chiều  
muộn. Tâm trạng này đã được tác giả  ghi rất rõ ràng:  “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả  
thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập gần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía  
vào tâm hồn ngây thơ  của chị, Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác  
trước cái giờ khắc của ngày tàn.”


Ngày tàn trước hết được báo hiệu bằng tiếng trống thu không như gọi buổi chiều ở mỗi  
miền quê. Phương tây thì đỏ rực như lửa cháy, như hình ảnh của hòn than sắp tàn. Bóng  
tối lấn dần, lấn dần ánh sáng… nhìn xuống mặt đất, đó là cảnh chợ  tàn, không có gì vui  


vẻ, háo hức khi chợ  đông nhưng lại chẳng có gì có thể  buồn hơn, thê thảm hơn khi chợ 
tàn.
Buồn vì mọi người đã ra về  hết cả, tiếng  ồn ào, tiếng náo nhiệt lụi tắt. Sự sống dường  
như  cũng dần tàn lụi. Cái nghèo, sự  lạc hậu tự  phô bày mà không chờ  đợi  ở  những rác  
rưởi bỏ lại, mấy đứa trẻ nhà nghèo long không nhặt nhạnh những thứ vật vẫn còn có thể 
dùng được mà những người bán hàng đã để lại.
Chị em Liên và những người trong phố huyện cũng vậy, họ  đều mang một cuộc đời tàn  
lụi: cái hàng nước lèo tèo của chị Tí thì ế khách (“Ôi chao, sớm hay muộn mà có ăn thua  
gì”). Cửa hàng của chị  em Liên cũng vậy (“Hôm nay ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn 
thua gì”). Và hình ảnh bà cụ Thi điên lảo đảo bước đi trong ngày tàn lại càng tô đậm thêm  
nữa một cảnh ngộ đầy bế tắc: “Chị đi lẫn vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ về  
phía làng.”
Trước khung cảnh tàn lụi như vậy, Liên có một tâm trạng buồn và chán nản. Cái tối tâm, 
cái quẩn quanh, cái đơn điệu của những cư dân nơi phố  huyện đang dần dần khiến cho 
cuộc sống của hai chị em Liên đi vào bế tắc.
Tất cả mọi việc đều diễn ra giống như hàng trăm hàng nghìn đêm trước đó. Đường phố 
và các ngõ đã chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng cửa im  ỉm, trừ  một vài cửa hàng còn  
thức, chỉ hé ra một thứ ánh sáng nho nhỏ như những khe sáng. Sau hàng nước nhà chị Tí, 
gánh hàng phở  của bác Siêu cũng đã xuất hiện như  một chấm lửa nhỏ  lơ  lửng đi trong 
đêm tối. Rồi đến gia đình nhà bác Sẩm với cái thau sắt trắng chỏng trơ  và thằng con ra  
đất bòn nghịch với những thứ rác bẩn vùi trong cát cũng được miêu tả… Đúng là những  
kiếp người mà chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc. Hiện tại thì cực khổ, quá khứ lại đau 
thương và tương lai thì mù mịt. Sự tồn tại của họ dường như chỉ là để chờ đợi vu vơ một 
thứ gì đó may mắn không xảy đến: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì  


tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày.”
Những kiếp sống tối tăm, khó khăn, nghèo khổ  được tô đậm nhất trong tác phẩm này. 
Điều đáng chú ý ở đây đó là cái tối tăm lại được diễn tả bằng ánh sáng, thứ  ánh sáng leo 
lét của ngọn đèn nơi chõng hàng nước của chị Tí, đối chọi với bóng tối một cách yếu ớt  

và thảm hại. Không phải ngẫu nhiên mà thiên truyện ngắn lại chỉ vẻn vẹn có mấy trang 
mà hình  ảnh ngọn đèn hàng nước chị  tí được nhắc đi nhắc lại những bảy lần. Nó trở 
thành một biểu tượng về những kiếp sống mù tối, lắt lay của những câu dân nghèo khổ bị 
chôn vùi đến cùng đường mãn kiếp trong cái bóng tối u ám của phố huyện tiêu điều. Họ 
sống một cuộc sống như đã bị bỏ quên…
Một lối thoát duy nhất mà người dân phố  huyện và chị  em Liên có thể  trông chờ  vào đó  
chính là chuyến tàu đêm. Nó không phải là lối thoát trong thực tế  mà la lối thoát trong 
tưởng tượng. Bởi khi con tàu đi qua nó đã đem đến một thế giới khác hẳn với cái thế giới 
của phố huyện: một thế giới sáng rực, huyên náo, vui vẻ và sang trọng. Đó là thế giới mà 
họ  vẫn hằng mơ  tưởng. Bỗng chốc, họ sống được với thế  giới  ấy một thời gian ngắn.  
Vậy nghĩa là đã thoát ra khỏi cái cuộc sống tối tăm, xơ xác, nhàm chán và đầy bế tắc của  
phố  huyện nghèo. Cuộc sống đó dù chỉ  là tưởng tượng, dù là chỉ  diễn ra trong chốc lát  
nhưng cũng là điểm sáng duy nhất trong ngày. Đêm tối và sự im lặng minh mông lại bao 
bọc tất cả khi đoàn tàu đi qua. Nỗi buồn chán lại trở  về  với hình ảnh ngọn đèn con của  
chị Tí leo lét giữa đêm. “Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu lên tay nhắm mắt lại.  
Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ  
chiếu sáng một vùng đất nhỏ.”
Qua diễn biến của tâm trạng nhân vật liên, tác giả muốn nhắn nhủ một điều rất dịu dàng  
nhưng cũng vô cùng thấm thía. Đó là tiếng nói xót thương đối với những kiếp người nhỏ 
bé, Cơ cực, sống quẩn quanh, bế tắc không tương lai. Những con người ấy dường như đã  
bị  chôn vùi trong những kiếp sống vô danh, vô nghĩa của xã hội cũ. Đến ngay cả  trong  
những giấc mơ thì họ  cũng không biết  ước mơ  gì hơn một chuyến tàu đêm vụt qua phố 
huyện tiêu điều xác xơ, thắp lên những hy vọng mòn mỏi cuối cùng…


Đây là một khía cạnh mới mẻ  của chủ  nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam từ  năm 
1930 đến 1945, khi xuất hiện những thế hệ nhà văn có ý thức cá nhân sâu sắc, ý thức về 
sự  tồn tại của mỗi cá nhân trên đời. Thạch Lam là một tác giả  tiêu biểu và Hai đứa trẻ 
chính là minh chứng rõ ràng nhất.




×