Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tổng quan các công cụ đo lường được khuyến nghị trong vật lý trị liệu cho người bệnh thần kinh cơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.55 KB, 8 trang )

Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019

TỔNG QUAN CÁC CÔNG CỤ ĐO LƯỜNG ĐƯỢC KHUYẾN NGHỊ
TRONG VẬT LÝ TRỊ LIỆU CHO NGƯỜI BỆNH THẦN KINH CƠ
Nguyễn Thanh Duy*, Julie Gahimer**

TÓM TẮT
Đo lường và đánh giá là thành phần quan trọng trong điều trị vật lý trị liệu cho người bệnh có các bệnh lý
thần kinh. Hiện nay, trên thế giới có nhiều phương pháp đo lường được chuẩn hóa. Mục tiêu bài viêt nhằm giới
thiệu các thử nghiệm được khuyến nghị bởi cục khám chữa bệnh – Bộ Y Tế Việt Nam và Hội vật lý trị liệu Hoa
Kỳ (American Physical Therapy Association; APTA). Nội dung bài viết bao gồm khái quát cách thức đo lường,
lưu ý khi áp dụng vào lâm sàng, và các giá trị tham chiếu từ các nghiên cứu trên thế giới cho nhóm người bệnh
thần kinh cơ như tai biến mạch máu não, Parkinson, và người cao tuổi. Nhằm giúp nhân viên y tế có cơ sở tham
khảo và ứng dụng trên lâm sàng để có cái nhìn khách quan, xác định vấn đề cụ thể mang tính chức năng và
chứng minh hiệu quả của phương pháp tập luyện của mình nhằm mục tiêu cao nhất là nâng cao chất lượng công
tác khám chữa bệnh.
Từ khóa: vật lý trị liệu thần kinh cơ, công cụ đo lường chuẩn hóa, giá trị bình thường

ABSTRACT
OVERVIEW OF RECOMMENDED STANDARD OUTCOME MEASURES IN NEUROLOGICAL
PHYSICAL THERAPY
Nguyen Thanh Duy, Julie Gahimer
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 26 – 33
Evaluation and assessment are important components of physiotherapy for patients with neurological
diseases. Currently, there are many standardized outcome measures in the world. The aim of the article is to
introduce standard outcome measures that are recommended by the Medical Services Administration-Vietnam
Ministry of Health and The American Physical Therapy Association (APTA). The paper includes an overview of
measurement methods, clinical considerations, and reference values from worldwide studies for a group of
neuromuscular patients such as cerebrovascular accident, Parkinson’s disease, and the elderly people. In order to


help health care professional have criteria for reference in apprising in daily practice, have an objective perspective,
identify specific functional issues and prove the effectiveness of interventions, consequently improving the quality
of medical assessment and treatment.
Keywords: neurological physical therapy, standard outcome measure, normative data
trong các bệnh lý thần kinh cơ như đột qụy,
ĐẶT VẤN ĐỀ
Parkinson, xơ cứng rải rác. Tuy nhiên, nhược
Đo lường và đánh giá là thành phần quan
điểm của phương pháp này là không đánh giá
trọng trong các chương trình điều trị nói chung
được những khiếm khuyết, và không phản ánh
và chương trình vật lý trị liệu nói riêng. Từ lâu,
sự tiến bộ hay giúp đề ra mục tiêu phù hợp cho
phương pháp đánh giá sức mạnh cơ, mức độ co
người bệnh. Do đó, một nhóm các phương pháp
cứng cơ, và đo tầm vận động được sử dụng phổ
đo lường mới được ra đời và được chuẩn hóa để
biến trong thực hành đánh giá người bệnh có
thực hiện trên nhóm người bệnh này(8). Mục tiêu
vấn đề gãy xương, cứng khớp sau bất động và cả
*Bộ môn Vật lý trị liệu - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS Nguyễn Thanh Duy ĐT: 0973017123

26

**Đại học Indianapolis - Hoa Kỳ
Email:

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
bài viêt nhằm giới thiệu các thử nghiệm đo
lường đã được chuẩn hóa và được khuyến nghị
sử dụng theo hướng dẫn cục khám chữa bệnh –
Bộ Y Tế Việt Nam và Hội vật lý trị liệu Hoa Kỳ
(American Physical Therapy Asociation;
APTA)(14). Nội dung trình bày bao gồm khái quát
cách thức đo lường, lưu ý khi áp dụng vào lâm
sàng, và các giá trị tham chiếu từ các nghiên cứu
trên thế giới cho nhóm người bệnh thần kinh cơ.

ĐÁNH GIÁ TRONG VẬT LÝ TRỊ LIỆU
BỆNH THẦN KINH CƠ
Trong khi đo lường là dùng những biện
pháp để lượng hóa và cung cấp số liệu thì đánh
giá là giải thích diễn dịch dữ liệu đó. Đo lường,
đánh giá có vai trò quan trọng vì những lý do
sau: Xác định các vấn đề cụ thể của người bệnh
mà các phương pháp điều trị có thể cải thiện
được. Việc này cần kiến thức về sự thực hiện của
người khỏe mạnh cùng độ tuổi, cùng giới để từ
đó xây dựng một mục tiêu hướng đến. Đo lường
giúp xác định sự thay đổi, khả năng thực hiện
hoạt động theo thời gian (cần thực hiện sự đo
lường này trên người bệnh nhiều lần trong cùng
một điều kiện). Với người bệnh tiến triển nặng
theo thời gian, đo lường khách quan giúp cho
quá trình ra quyết định và trao đổi giữa các bên
liên quan về việc cung cấp xe lăn, khung đi, hay

kế hoạch trong tương lai được cụ thể hơn. Cung
cấp thông tin cho người điều trị biết liệu phương
pháp điều trị có hiệu quả không, và làm căn cứ
để tiếp tục hay thay đổi cách thức/chiến lược
điều trị. Cung cấp thông tin cho đơn vị chi trả, lý
giải cho việc tiếp tục điều trị vì trong nhiều
trường hợp, việc điều trị chỉ tiếp diễn khi chỉ ra
được hiệu quả của việc điều trị. Đo lường còn
giúp so sánh giữa chi phí và hiệu quả của việc
can thiệp, hoặc giúp so sánh hai phương pháp
điều trị, hoặc chi phí bỏ ra để mang lại hiệu quả
mong muốn(8).
Tuy nhiên, người làm lâm sàng cần xác định
mục tiêu đo lường để làm gì? Xét về mục đích
đo, cần chọn lựa phương pháp đo phù hợp với
tình trạng của người bệnh và phản ánh được

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Tổng Quan

mức độ chức năng, khả năng hay sự tiến bộ
trong tương lai. Người khám cần xác định rõ “tôi
muốn thay đổi điều gì?” Câu trả lời sẽ là gợi ý
cho việc lựa chọn loại công cụ đo lường. Ví dụ,
khi đánh giá hiệu quả chương trình phục hồi
chức năng (PHCN) toàn diện ở người đột quỵ
thì dùng chỉ số Barthel; nhưng thang này không
nhạy với những thay đổi nhỏ trong thăng bằng
ngồi, đứng của người bệnh nặng trong giai đoạn

đầu của bệnh. Chỉ số Barthel đo sự thay đổi toàn
diện. mỗi sự cải thiện trong này cho thấy có sự
thay đổi đáng kể. nhưng với những người bệnh
bị nặng, những công cụ đơn giản đo lường thăng
bằng tĩnh khi ngồi và sau này là thăng bằng
thông qua hoạt động đứng lên và đi là phù hợp.
Tương tự, khi tập để giảm nguy cơ té ngã cho
người bệnh Parkinson, đánh giá té ngã hay
thăng bằng trong các tác vụ/hoạt động liên quan
nguy cơ ngã của một người sẽ phù hợp hơn việc
đo tốc độ đi. Cần lưu ý rằng tùy theo giai đoạn
bệnh mà cần có những công cụ đo lường khác
nhau. Độ nhạy để phát hiện sự khác biệt, thay
đổi (tốt hơn hoặc xấu hơn) là rất quan trọng
trong việc lựa chọn công cụ nào để đo.
Do mức độ phổ biến của bệnh lý và tần suất
gặp các dạng bệnh nay tại các khoa VLTL tại các
bệnh viện đa khoa các tuyến, người viết chỉ lựa
chọn số liệu liên quan người bệnh đột quỵ- tai
biến mạch máu não (TBMMN), chấn thương sọ
não (CTSN), Parkinson, và giá trị trên người
bình thường để có thể tham khảo trong trường
hợp không có nghiên cứu tương ứng ở nhóm
bệnh nhân mà người đọc quan tâm. Công cụ đo
lường được giới thiệu trong bài này bao gồm:
Thang đo lường thăng bằng Berg (Berg Balance
Scale -BBS); Thử nghiệm đứng lên và đi (Time
Up and Go Test-TUG); Thử nghiệm đi bộ 10 mét
(10-metre walk test-10MWT); Thử nghiệm đi bộ
6 phút (6 -minute walk test- 6MWT); Thang đánh

giá chức năng đi (Functional Gait AssessmentFGA); Thử nghiệm thời gian 5 lần ngồi-đứng (5
Times Sit-to-Stand; 5xSTS); Thang điểm mức độ
tự tin về thăng bằng hoạt động (Activitiesspecific Balance Confidence - ABC). Tất cả công

27


Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019

cụ này đều không tốn phí, khi sử dụng chỉ cần
giấy và viết, dễ dàng thực hiện trên lâm sàng
thời gian thực hiện từ 5-20 phút, đo lường về
mức độ hoạt động và vận động. Bảng 1 trình bày
mục đích của từng thử nghiệm, khía cạnh đánh
giả trên người bệnh, loại phương pháp đánh giá
và nhóm bệnh phù hợp với đánh giá này. Bảng 2
nêu ra các giai đoạn bệnh của một số bệnh phổ
biến và khuyến nghị của Hội Vật lý trị liệu Hoa
Kỳ liệu có nên sử dụng từng thử nghiệm đó hay
không(14).

CÁC KHÁI NIỆM CHUNG
Giá trị quy chuẩn (Giá trị quy chuẩn) là giá
trị thông thường: được trình bày bằng giá trị
trung bình và độ lệch chuẩn (mean(SD)). Người
đọc có thể biết khoảng tin cậy 95% của giá trị để
biết giá trị của người bệnh của mình có trong
khoảng bình thường không (mean ± 1,96*SD).

Ngoài ra còn có giá trị trung vị và khoảng biến
thiên- KBT - range) với giá trị lớn nhất và nhỏ
nhất cũng cùng mục đích cho những giá trị tham
chiếu không tuân theo luật phân phối chuẩn.
Thay đổi nhỏ nhất phát hiện được (Minimal
Detecable Change-MDC) là khoảng thay đổi nhỏ
nhất trong điểm số mà đảm bảo rằng sự thay đổi
này không phải do sai số đo lường. Khác biệt
nhỏ nhất ý nghĩa về mặt lâm sàng (Minimally
Clinically Important Diferece-MCID) đại diện
cho khoảng thay đổi nhỏ nhất trong kết cuộc mà
có thể xem là quan trọng đối với người bệnh
hoặc với người điều trị. Khi có hai giá trị này,
người điều trị có thể đặt mục tiêu thay đổi ở mức
độ đủ lớn để có ý nghĩa về lâm sàng hay ít nhất
là đạt thay đổi đủ để phát hiện là thay đổi thật.
Điểm cắt (cut-off score) là điểm thấp nhất có
thể trong bài thử nghiệm, kiểm tra, đánh giá mà
đối tượng được thử cần đạt được để được xem là
đạt hay đủ chuẩn. Ở những người bệnh dưới giá
trị này, thông thường người bệnh có nguy cơ té
ngã cao, người điều trị cần có những chiến lược
tập luyện, phòng ngừa phù hợp. Hiệu ứng sàn
(floor effect) xảy ra khi các mục của thử nghiệm
quá khó khiến cho người được thử không thể

28

thực hiện tốt được ngay cả mục ít thử thách nhất
của thử nghiệm đó. Hoặc khi thử nghiệm không

thể đo, hay phân định dưới một ngưỡng nào đó,
thường do các mục quá khó. Hiệu ứng trần
(ceiling effect) xảy ra khi các mục của thử
nghiệm quá “dễ”, hay không đủ mức độ thử
thách và người được đánh giá dễ dàng đạt
được(10). Trong hai trường hợp này, người điều
trị cần chọn những thang đo lường phù hợp khả
năng người bệnh để không gây thất vọng hay
đánh giá đúng năng lực người bệnh. Các giá trị
phù hợp cho từng nhóm người bệnh của mỗi thử
nghiệm được trình bày trong Bảng 3.

THANG ĐO LƯỜNG THĂNG BẰNG
BERG (BERG BALANCE SCALE -BBS)
Gồm 14 mục bao gồm các hoạt động tĩnh và
động có độ khó khác nhau. Điểm số trong
khoảng từ 0-4, được xác định bởi khả năng thực
hiện hoạt động. Điểm số sau đó được cộng tổng.
Điểm tối đa là 56. Cần có đồng hồ bấm giờ. Ghế
có chiều cao tiêu chuẩn (46-50 cm) có tay vịn và
một ghế không có tay vịn. Bục hoặc ghế thấp có
chiều cao trung bình (19,7-22,9 cm), thước, và
dép hoặc giày(9).
Có một nhược điểm của BBS là mất nhiều
thời gian thực hiện so với các phương pháp
đánh giá thăng bằng khác. Có thể sử dụng một
cách hạn chế với người bệnh Parkinson giai
đoạn Hoehn & Yahr 2-3, do hiệu ứng trần.
Bệnh nhân Parkinson ở giai đoạn Hoehn &
Yahr 4-5 sẽ không thể hoàn thành thử nghiệm

do không thể không dùng thiết bị trợ giúp
trong quá trình thử nghiệm(1).

THỬ NGHIỆM ĐỨNG LÊN VÀ ĐI (TIME
UP AND GO TEST-TUG)
Thử nghiệm yêu cầu người bệnh ngồi trên
ghế, lưng dựa vào ghế. Theo lệnh của người
khám, người bệnh đứng lên khỏi ghế, đi bộ 3
mét với tốc độ thoải mái và an toàn, đi vòng lại
trở lại và ngồi xuống. Tính thời gian bắt đầu từ
lúc nói “đi” và dừng lại khi người bệnh hoàn tất
việc ngồi. Các tác giả đã định lượng thử nghiệm

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
bằng cách khuyến nghị thời gian (tính bằng
giây). Người bệnh nên thử thực hành một lần
mà không tính điểm và phải sử dụng cùng một
loại dụng cụ trợ giúp giữa mỗi lần kiểm tra để có
thể so sánh. Cần có ghế tiêu chuẩn (cao khoảng
46 cm) và đồng hồ bấm giờ(1).
Thử nghiệm TUG có thể có độ tin cậy thấp
hơn ở những người bệnh bị suy giảm nhận thức.
Tính nội tin cậy (Intrarater) có thể bị ảnh hưởng
bởi khả năng thực hiện của đối tượng khi hoàn
thành nhiều lần đánh giá cho thấy người bệnh
nhanh chóng làm quen với thử nghiệm này, thử
nghiệm đầu tiên ảnh hưởng đến thử nghiệm thứ

hai(1). Được thiết kế để thử nghiệm cho người đi
bộ ở tốc độ thoải mái, nhưng đôi khi được thử
nghiệm với việc đi bộ ở tốc độ “nhanh nhưng an
toàn”. Trên lâm sàng, điều quan trọng là ghế
đứng không dựa vào tường(10).

THỬ NGHIỆM ĐI BỘ 10 MÉT (10-METRE
WALK TEST-10MWT)
Thử nghiệm yêu cầu người bệnh đi bộ một
khoảng cách cho trước. Thời gian được đo trong
khi đi khoảng cách đã định, thường thì người
bệnh được cho khoảng cách để tăng tốc đến tốc
độ đi bộ ưa thích của mình, khoảng cách này
không được gộp vào khi xác định tốc độ. Vận tốc
đi tính bằng khoảng cách đi chia cho thời gian đi
khoảng cách đó. Có nhiều biến thể của bài kiểm
tra này mặc dù bài kiểm tra 10 mét (10MWT) là
phổ biến nhất. Cần chuẩn bị đồng hồ bấm giờ,
đường đi không có vật cản dài 6, 8, 10, 12 mét
tùy theo khoảng cách được kiểm tra(3).
Các dụng cụ hỗ trợ đi có thể được sử dụng
nhưng phải được ghi lại trong các lần thử
nghiệm. Nếu người bệnh cần hỗ trợ, chỉ cung
cấp sự hỗ trợ tối thiểu cho bệnh nhân để hoàn
thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ đã
ghi lại phải phản ánh sự hỗ trợ lớn nhất cần có
trong quá trình thử nghiệm. Ví dụ, nếu một
người bệnh cần hỗ trợ tối thiểu cho phần lớn thử
nghiệm nhưng yêu cầu hỗ trợ trung bình để giữ
thăng bằng trong một lần, bệnh nhân nên được

đánh giá là cần hỗ trợ mức trung bình. Thử

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Tổng Quan

nghiệm có thể được thực hiện ở tốc độ đi bộ ưa
thích hoặc tốc độ nhanh nhất có thể (cần ghi chú
là tốc độ ưa thích hay nhanh). Người đánh giá
nên đi sau ít nhất nửa bước để không ảnh hưởng
đến tốc độ của người bệnh(14).

THỬ NGHIỆM ĐI BỘ 6 PHÚT (6 -MINUTE
WALKTEST-6MWT)
Mục tiêu của bài kiểm tra là khoảng cách
người bệnh đi bộ trong 6 phút. Người bệnh có
thể nghỉ bao nhiêu lần tùy thích, nhưng đồng hồ
bấm giờ vẫn tiếp tục chạy và ghi lại số lần nghỉ
ngơi và tổng thời gian nghỉ ngơi. Thiết bị hỗ trợ
có thể được sử dụng nhưng phải được ghi nhận.
Nếu một người bệnh cần hỗ trợ, chỉ nên cung
cấp hỗ trợ tối thiểu cho người bệnh để hoàn
thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ được
ghi lại sẽ phản ánh sự hỗ trợ lớn nhất trong quá
trình thử nghiệm. Khi thực hiện, người khám
không đi bộ phía trước hoặc trực tiếp bên cạnh
người bệnh, vì điều này có thể tạo nhịp cho
người bệnh và ảnh hưởng đến tốc độ và khoảng
cách họ đi. Thay vào đó, đi bộ ít nhất nửa bước
phía sau người bệnh. Cần có đồng hồ bấm giờ.

Bánh xe để đo khoảng cách - nếu có thể, ghế,
hành lang dài 12 m (15 m; 30 m); cần ghi chú
quãng đường đo lường. Dấu (hình nón) để chỉ
nơi đi vòng qua.
Cũng có thể áp dụng phương trình hồi quy
đặc trưng cho giới giải thích 40% phương sai
trong khoảng cách đi bộ ở người trưởng thành
khỏe mạnh(20).
Nam: 6MWD = (7,57 x chiều cao cm) - (5,02 x
tuổi) - (1,76 x cân nặng) -309.
Nữ: 6MWD = (2,11 x chiều cao cm) - (2,29 x
cân nặng kg) - (5,78 x tuổi) + 667.
Nghiên cứu chứng minh thấy sự khác biệt
đáng kể tùy thuộc vào độ dài của quãng đường
được sử dụng. Yêu cầu người tham gia đi bộ trên
đường dài 10 mét, dẫn đến khoảng cách đi được
ngắn hơn so với khi được yêu cầu đi bộ trên
đường 50 mét. Do đó, điều quan trọng là chuẩn
hóa để theo dõi cho cả mục đích lâm sàng và
nghiên cứu. Các hướng dẫn của Hiệp hội Lồng

29


Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019

ngực Hoa Kỳ cho thử nghiệm đi bộ sáu phút
khuyên bạn nên sử dụng lối đi bộ 30 mét hoặc

100 feet với chiều dài của hành lang được đánh
dấu mỗi 3 mét. Điểm quay vòng được đánh dấu
bằng hình nón. Chống chỉ định người bị đau thắt
ngực và nhồi máu cơ tim không ổn định trong
vòng một tháng trước kể từ lúc thử nghiệm(25).
Có thể sử dụng GPS smartphone cung cấp
kết quả tương tự như dùng bánh xe đo quãng
đường và có thể thuận tiện hơn để người
khám hỗ trợ người bệnh nếu cần. Thử nghiệm
ngoài trời trên đất bằng không bang qua ngã

tư đường, cho phép thử nghiệm trong khu
phố riêng của người bệnh sau khi xuất viện
sau điều trị nội trú. Những người mắc bệnh
Alzheimer từ trung bình đến nặng có thể bị
suy giảm thăng bằng và cần hỗ trợ về thể chất
để di chuyển. Một số cá nhân cũng có thể yêu
cầu sử dụng một thiết bị hỗ trợ để đi bộ(14).
Người lượng giá có thể cần sử dụng trợ giúp
thể chất và lời nói trong giai đoạn thử nghiệm
nếu người bệnh khó có khả năng tập trung
hoặc gặp khó khăn trong việc hiểu hướng dẫn.

Hình 1. (A) Thử nghiệm đứng lên và đi-TUG; (B) Thử nghiệm thời gian 5 lần ngồi-đứng – 5xSTS; (C) Thang đo
lường thăng bằng Berg- BBS; (D) Thử nghiệm đi bộ 6 phút- 6MWT
mục được tính theo thang điểm từ 0 đến 3, với 0
THANG ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG ĐI
= suy yếu/ khiếm khuyết nghiêm trọng; 1 =
(FUNCTIONAL GAIT ASSESSMENT-FGA)
khiếm khuyết/ suy yếu trung bình; 2 = khiếm

Thử nghiệm FGA có 10 mục đánh giá khả
khuyết/ suy yếu nhẹ; 3 = bình thường. Điểm cao
năng thực hiện các hoạt động bao gồm: đi trên
nhất = 30. Việc đánh giá có thể được thực hiện có
bề mặt bằng phẳng, thay đổi tốc độ đi, đi với đầu
hoặc không có dụng cụ trợ giúp. Người bệnh
quay ngang và dọc, đi với xoay thân 180°, bước
nên đi mà không cần sự trợ giúp thể chất của
qua chướng ngại vật, đi với chân đế hẹp, đi với
người khác. Khi thực hiện các mục, người khám
mắt nhắm, đi lùi và lên xuống cầu thang. Mỗi
không đi phía trước hoặc ngay bên cạnh, vì điều

30

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
này "tạo nhịp" cho người bệnh và có thể ảnh
hưởng đến tốc độ họ đi. Thay vào đó, đi ít nhất
nửa bước phía sau(15).
Cần có đồng hồ bấm giờ, dụng cụ đo để
đánh dấu khu vực. Khu vực đi bộ được đánh
dấu: Chiều dài = 20 feet (6 mét); chiều rộng 12
inch (30,48 cm). Chướng ngại vật có chiều cao 9
inch (22,86 cm) sử dụng ít nhất 2 hộp giày xếp
chồng lên nhau. Cầu thang có các bước cao 7,75 –
9 inch (20-23 cm) với tay vịn hai bên. Vị trí của
người khám không tạo ra sự khác biệt về tính

ngoại tin cậy. Sử dụng thuốc khi đánh giá FGA
có thể dẫn đến một số điểm cắt (cut off) khác
nhau cho người bệnh Parkinson có nguy cơ bị
ngã. Khi xem xét thời gian dùng thuốc cho người
bệnh Parkinson, có báo cáo rằng khả năng dự
đoán té ngã trong thời gian thuộc hết hiệu lực
(off) tốt hơn so với trong thời gian thuốc có hiệu
lực (on). Do đó, họ đề nghị thử nghiệm khi thuốc
hết hiệu lực để cải thiện khả năng dự đoán nguy
cơ ngã(14).

THỬ NGHIỆM THỜI GIAN 5 LẦN
NGỒI-ĐỨNG (5 TIMES SIT-TO-STAND;
5XSTS)
Thử nghiệm tính thời gian người bệnh đứng
dậy năm lần từ ghế, tay khoanh trước ngực và
tựa lưng vào ghế. Hướng dẫn người bệnh: "Tôi
muốn bạn đứng lên và ngồi xuống nhanh nhất
có thể 5 lần khi tôi nói 'Đứng’. Thời gian tính bắt
đầu lúc nói "Đứng" và kết thúc khi mông chạm
vào ghế sau lần lặp lại thứ 5. Cho thử một lần
trước khi chính thức ghi hồ sơ. Với những người
bệnh đã bị đột quỵ, được phép để tay yếu ở bên
cạnh hoặc trong đai treo tay. Sử dụng ghế tiêu
chuẩn có chỗ để tay (giữ ghế nhất quán cho mỗi
lần kiểm tra). Chiều cao ghế được ghi nhận
thường là 43-45 cm. Đảm bảo rằng ghế không
dựa vào tường(5).
Với người không có khả năng hoàn thành
năm lần lặp lại mà không có sự trợ giúp hoặc sử

dụng hỗ trợ chi trên chỉ ra họ không thể làm bài
kiểm tra. Bất kỳ sửa đổi nào cũng phải được ghi
lại. Ghi nhận tốc độ và mức hỗ trợ (độc lập, giám

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

Tổng Quan

sát, trợ giúp trung bình, trợ giúp tối đa). Hướng
dẫn người bệnh đứng hoàn toàn giữa các lần lặp
cử động và không chạm vào lưng ghế trong mỗi
lần lặp. Nếu người bệnh có chạm vào lưng ghế
vẫn tiếp tục, nhưng không khuyến khích. Cố
gắng không nói chuyện với người bệnh trong
khi kiểm tra vì có thể làm giảm tốc độ của người
bệnh. Nếu quan ngại người bệnh có thể mệt mỏi
với một lần thử trước, người khám có thể thị
phạm v và yêu cầu người bệnh thực hiện hai lần
lặp lại trước để đảm bảo họ hiểu các hướng dẫn.
Được phép đặt chân thoải mái trong quá trình
thử nghiệm. Cần ghế có chiều cao tiêu chuẩn
(43-45 cm, 17-18 inch) với tựa lưng và đồng hồ
bấm giờ.
Người bị rối loạn thăng bằng thực hiện
5xSTS chậm hơn nhóm chứng và thử nghiệm
nhạy hơn trong dân số trẻ (<60 tuổi). 5xSTS phản
ứng với sự thay đổi số thăng bằng theo thời gian.
Hiện có nhiều biến thể tồn tại: Thử nghiệm đứng
mười lần, kiểm tra đứng –ngồi bằng 1 chân, bài
kiểm tra ngồi-đứng 1 phút, sáu lần ngồi-đứng,

30 giây ngồi- đứng. Các phép đo thời gian chính
xác hơn (5x ngồi - đứng; 10 lần ngồi - đứng) sau
đó đếm số lần làm được (30 giây ngồi - đứng; 10
giây ngồi - đứng). Tuy nhiên, những người yếu
có thể không hoàn thành được số lần lặp lại cần
thiết và do đó, đếm số lần lặp lại trong một
khoảng thời gian định sẵn có thể thích hợp hơn
cho một số nhóm bệnh nhất định(23).

THANG MỨC ĐỘ TỰ TIN THĂNG BẰNG
TRONG HOẠT ĐỘNG (ACTIVITIES-SPECIFIC
BALANCE CONFIDENCE (ABC)
Đây là phương pháp tự đánh giá châm điểm
gồm 16 mục trong đó người bệnh đánh giá sự tự
tin về thăng bằng của họ khi thực hiện các hoạt
động: Đi trong nhà; Đi lên xuống cầu thang;
Nhặt dép/giày từ sàn; Với ngang tầm mắt; Với
lên đầu khi đứng nhón chân; Đứng trên ghế với
tay; Quét nhà. Trong bộ câu hỏi, câu khởi đầu
gốc được sử dụng để dẫn vào từng hoạt động
được xem xét: "Bạn tự tin đến mức nào là bạn sẽ
không mất thăng bằng hoặc trở nên không vững,

31


Tổng Quan

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019


ổn định khi bạn ...". Các mục được đánh giá theo
trong khoảng từ 0 - 100. Điểm bằng 0 thể hiện sự
không tự tin, điểm 100 thể hiện sự tự tin hoàn
toàn. Điểm tổng được tính bằng cách cộng điểm
số của từng mục và sau đó chia cho tổng số mục.
Người bệnh có thể tự thực hiện hoặc thông qua
phỏng vấn; nhưng khuyến nghị nên phỏng vấn
trực tiếp. Cần có bản khảo sát bao gồm thang
điểm trực quan từ 0 - 100%. Đối với một số
người bệnh, cần định kỳ định hướng lại để đảm
bảo họ đang xem xét sự tự tin về khả năng di
chuyển thay vì phản hồi dựa trên mức độ hoạt
động thông thường của họ đối với từng mục
được liệt kê(14).

and clinical assessment tools in people with stroke. Physical
Therapy, 89(8):816-825.
3.

Bohannon RW, Andrews AW (2011). Normal walking speed: a
descriptive meta-analysis. Physiotherapy, 97(3):182-189.

4.

Buatois S, Perret-Guillaume C, Gueguen R, Miget P, Vançon G,
Perrin P, Benetos A (2010). A simple clinical scale to stratify risk
of recurrent falls in community-dwelling adults aged 65 years
and older. Physical Therapy, 90(4):550-560.

5.


Duncan RP, Leddy AL, Earhart GM (2011). Five times sit-tostand test performance in Parkinson's disease. Archives of
Physical Medicine and Rehabilitation, 92(9):1431-1436.

6.

Flansbjer UB, Holmbäck AM, Downham D, Patten C, Lexell J
(2005). Reliability of gait performance tests in men and women
with hemiparesis after stroke. Journal of Rehabilitation Medicine,
37(2):75-82.

7.

Fulk GD, He Y, Boyne P, Dunning K (2017). Predicting home
and community walking activity poststroke. Stroke, 48(2):406411.

8.

Halbert I, Iverson C, Miceli E, Shah P (2009). Use of
Standardized Outcome Measures in Physical Therapist
Practice: Perceptions and Applications. Physical Therapy,
89(2):125-35.

9.

Hiengkaew V, Jitaree K, Chaiyawat P (2012). Minimal
detectable changes of the Berg Balance Scale, Fugl-Meyer
Assessment Scale, Timed “Up & Go” Test, gait speeds, and 2minute walk test in individuals with chronic stroke with
different degrees of ankle plantarflexor tone. Archives of Physical
Medicine and Rehabilitation, 93(7):1201-1208.


10.

Lamola G, Bertolucci F, Rossi B, Chisari C (2015). Clinical
assessments for predicting functional recovery after stroke. Int J
Neurorehabil, 2:174.

11.

Lin JH, Hsu MJ, Hsu HW, Wu HC, Hsieh CL (2010).
Psychometric comparisons of 3 functional ambulation
measures for patients with stroke. Stroke, 41(9):2021-2025.

12.

Mak MK, Pang MY, Mok V (2012). Gait difficulty, postural
instability, and muscle weakness are associated with fear of
falling in people with Parkinson's disease. Parkinson’s Disease,
2012:901721.

13.

Mong Y, Teo TW, Ng SS (2010). 5-repetition sit-to-stand test in
subjects with chronic stroke: reliability and validity. Archives of
Physical Medicine and Rehabilitation, 91(3):407-413.

14.

Moore JL, Potter K, Blankshain K, Kaplan SL, O'Dwyer LC,
Sullivan JE (2018). A core set of outcome measures for adults

with neurologic conditions undergoing rehabilitation: a clinical
practice guideline. Journal of Neurologic Physical Therapy,
42(3):174.

15.

Andersson A, Kamwendo K, Seiger A, Appelros P (2006). How
to identify potential fallers in a stroke unit: validity indexes of 4
test methods. Journal of Rehabilitation Medicine, 38(3):186-191.

Petersen C, Steffen T, Paly E, Dvorak L, Nelson R (2017).
Reliability and minimal detectable change for sit-to-stand tests
and the functional gait assessment for individuals with
Parkinson disease. Journal of Geriatric Physical Therapy,
40(4):223-226.

16.

Beninato M, Portney LG, Sullivan PE (2009). Using the
International Classification of Functioning, Disability and
Health as a framework to examine the association between falls

Podsiadlo D, Richardson S (1991). The timed “Up & Go”: a test
of basic functional mobility for frail elderly persons. Journal of
the American Geriatrics Society, 39(2):142-148.

17.

Salbach NM, Mayo NE, Higgins J, Ahmed S, Finch LE,
Richards CL (2001). Responsiveness and predictability of gait


KẾT LUẬN
Bài viết này cung cấp một loạt các thông số
mang ý nghĩa thực tế để người đọc có thể tham
chiếu và sử dụng dễ dàng trên lâm sàng. Mục
tiêu bài này muốn cung cấp giá trị đề áp dụng
vào lâm sàng nên không đi sâu mô tả các đặc
tính giá trị, nội tin cậy, ngoại tin cậy của từng
thước đo. Tuy nhiên, các thư nghiệm được giới
thiệu trong bài đã dược chứng minh có các tính
chất trên ở mức cao trong nhiều dạng bệnh khác
nhau mà người đọc có thể tìm thấy dễ dàng
trong y văn. Tuy chưa có các nghiên cứu chuẩn
hoá ở Việt Nam nhưng những công cụ trên đã
được sự chấp thuận và thông qua của Bộ Y tế
công bố tại trang web của Cục khám chữa bệnh.
Như vậy, trong khi chờ đợi có những nghiên
cứu quy mô để chuẩn hoá những thử nghiệm
này, người nhân viên y tế có thể tham khảo để
sử dụng vào lâm sàng để có cái nhìn khách quan,
xác định vấn đề cụ thể mang tính chức năng và
chứng minh hiệu quả của phương pháp tập
luyện của mình nhằm nâng cao chất lượng công
tác khám chữa bệnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.


32

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
23.

Schenkman M, Ellis T, Christiansen C, Barón AE, TickleDegnen L, Hall DA, Wagenaar R (2011). Profile of functional
limitations and task performance among people with early-and
middle-stage Parkinson disease. Physical Therapy, 91(9):13391354.

Thomas JI, Lane JV (2005). A pilot study to explore the
predictive validity of 4 measures of falls risk in frail elderly
patients. Archives of Physical Medicine and Rehabilitation,
86(8):1636-1640.

24.

Schmid A, Duncan PW, Studenski S, Lai SM, Richards L,
Perera S, Wu SS (2007). Improvements in speed-based gait
classifications are meaningful. Stroke, 38(7):2096-2100.

Tilson JK, Sullivan KJ, Cen SY, Rose DK, Koradia CH, Azen SP,
Team LEAPSI (2010). Meaningful gait speed improvement
during the first 60 days poststroke: minimal clinically
important difference. Physical Therapy, 90(2):196-208.

25.


Wevers L, Kwakkel G, van de Port I (2011). Is outdoor use of
the six-minute walk test with a global positioning system in
stroke patients' own neighbourhoods reproducible and valid?
Journal of Rehabilitation Medicine, 43(11):1027-1031.

speed and other disability measures in acute stroke. Archives of
Physical Medicine and Rehabilitation, 82(9):1204-1212.
18.

19.

20.

Shumway-Cook A, Baldwin M, Polissar NL, Gruber W (1997).
Predicting the probability for falls in community-dwelling
older adults. Physical Therapy, 77(8):812-819.

21.

Steffen T, Seney M (2008). Test-retest reliability and minimal
detectable change on balance and ambulation tests, the 36-item
short-form health survey, and the unified Parkinson disease
rating scale in people with parkinsonism. Physical Therapy,
88(6):733-746.

22.

Tổng Quan

Ngày nhận bài báo:


20/07/2019

Ngày bài báo được đăng:

10/10/2019

Steffen TM, Hacker TA, Mollinger L (2002). Age-and genderrelated test performance in community-dwelling elderly
people: Six-Minute Walk Test, Berg Balance Scale, Timed Up &
Go Test, and gait speeds. Physical Therapy, 82(2);128-137.

Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học

33



×