Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Mối liên hệ giữa chất liệu và bố cục trong điêu khắc công cộng thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.72 KB, 9 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 66 (6/2019)
No. 66 (6/2019)
Email: ; Website:

MỐI LIÊN HỆ GIỮA CHẤT LIỆU VÀ BỐ CỤC TRONG ĐIÊU KHẮC
CÔNG CỘNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
The relationship between material and structure
in public sculpture in Ho Chi Minh City
ThS. Phạm Tấn Phước
Trường Đại học Thủ Dầu Một
TÓM TẮT
Điêu khắc công cộng Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng nhiều về số lượng lẫn chất lượng, góp một
phần không nhỏ vào việc giáo dục tư tưởng thẩm mỹ. Bên cạnh những thành quả đạt được, vẫn còn
không ít tác phẩm bị “thô”, đi vào lối mòn và thiếu sót về mối quan hệ chất liệu - bố cục. Mỗi chất liệu
có tính vật lý, biểu cảm khác nhau nên phù hợp với từng dạng bố cục khác nhau. Bố cục được tư duy
dựa trên nội dung của đề tài, một phương pháp làm việc mang ý đồ chiến lược của tác giả cho việc xây
dựng một hình tượng nghệ thuật. Đối tượng chính được ngắm nhìn là tác phẩm điêu khắc nhưng để có
được sự hoàn mỹ cần một tổng thể các yếu tố kết hợp một cách logic. Chất liệu – bố cục trong điêu khắc
công cộng là một tổng thể, có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau để tạo nên một tác phẩm trường tồn cùng
năm tháng.
Từ khóa: bố cục, chất liệu, điêu khắc
ABSTRACT
Public sculpture in Ho Chi Minh city has increasingly grown in both quality and quantity, which makes
a significant contribution to aesthetic education. Besides some achievements, there are several crude
sculptures stuck in a rut and poor in the material-structure relationship. Each material has its own


texture and expression that suits a different structure. The structure is thought based on the theme,
which is a strategic method of sculptors for building an artistic image. The main object is the sculpture
itself, yet to achieve perfection requires a logical composition of elements. Material- structure in public
sculpture is such composition with a mutual relationship serving a lasting piece of work.
Keywords: structure, material, sculpture

trí tưởng tượng bay cao, bay xa cùng với
dòng cảm xúc của mình nhưng khi thể hiện
tác phẩm thực tế thì cần phải có một giải
pháp hiện thực và thực hiện được. Từ khi
hình thành ý tưởng đến lúc thể hiện ở dạng
phác thảo, tác giả phải tư duy để tìm ra một
phương án hoàn hảo về chất liệu mà không
vi phạm các quy luật thông thường của chất
liệu. Chất liệu thể hiện trước tiên là về tính

1. Giới thiệu tổng quan về chất liệu,
bố cục trong điêu khắc và điêu khắc
công cộng
1.1. Khái niệm chất liệu
“Chất liệu (danh từ): cái dùng làm vật
liệu, tư liệu để sáng tạo nên tác phẩm nghệ
thuật” (Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn
Khang, Vũ Quang Hào, Phan Xuân Thành,
2013, tr. 248). Một nhà điêu khắc có thể cho
Email:

85



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 66 (6/2019)

vật lý của chất liệu. Khả năng chịu lực, tiến
hành chọn chất liệu nào có cấu trúc, kết cấu
phù hợp nhất để khi thể hiện ra thực tế
nhằm đạt được hiệu quả tối ưu với bố cục.
Chất liệu đó phải phù hợp với không gian
đặt tác phẩm và phải bền vững cùng thời
gian. Cấu trúc phân tử của bề mặt chất liệu
không chỉ mang yếu tố vật lý bền vững mà
còn có một khả năng khác là năng lực biểu
cảm bằng ngôn ngữ riêng (“chất” của chất
liệu).
1.2. Khái niệm bố cục
“Bố cục là phương pháp tìm tòi, xác
định cách biểu đạt thích hợp nhất cho một
nội dung” (Đàm Luyện, 2011, tr. 5). “Bố
cục: 1. Tổ chức, sắp xếp một cách hợp lí
giữa các phần để tạo thành một tác phẩm
hoàn chỉnh; bố cục lại cho chặt chẽ hơn. 2.
Sự sắp xếp bố trí các phần trong một chỉnh
thể” (Nguyễn v.v., 2013, tr. 138) hay “bố
cục là sự sắp xếp (sắp đặt) các yếu tố tạo
hình sao cho hợp lí, logic và đạt được hiệu
quả cao nhất trong một tác phẩm mĩ thuật”
(Tạ Phương Thảo, 1998, tr. 61). Bố cục
trong điêu khắc là sự sắp đặt hợp lí nhằm
nêu bật được nội dung chủ đề mà tác giả

cần truyền đạt đến công chúng một cách
hiệu quả nhất, thông qua một phương pháp
tìm tòi, tự rèn luyện bằng nhận thức và cả
thực hành. Quá trình làm việc, nghiên cứu,
sáng tạo… kể cả yếu tố kỹ năng và kỹ
thuật nhằm xác định cách biểu đạt thích
hợp nhất cho một tác phẩm theo đúng ý đồ
tác giả. Bố cục còn là phương pháp làm
việc mang tính ý đồ chiến lược, suy tính và
hình dung trước các bước cho việc xây
dựng nên một hình tượng nghệ thuật.
1.3. Khái niệm điêu khắc công cộng
Từ điển Mĩ thuật phổ thông định nghĩa
điêu khắc là “Nghệ thuật thực hiện những
tác phẩm có không gian 3 chiều (tượng

tròn) hoặc 2 chiều (chạm khắc, chạm nổi)
bằng cách gọt, đẽo, gò, đắp, gắn… những
khối vật liệu rắn chắc như gỗ, đá, kim
loại… Điêu khắc còn là nghệ thuật nặn
tượng hoặc tạc tượng bằng đôi bàn tay
khéo léo của người nghệ sĩ…” (Nguyễn
Thị Hiên, 2008, tr. 11).
“Công cộng (tính từ): chung cho hoặc
thuộc về mọi người” (Nguyễn v.v., 2013,
tr. 454). Điêu khắc công cộng là tác phẩm
điêu khắc được sáng tạo nhằm mục đích đặt
để trong một không gian công cộng (ngoài
trời hay trong nhà). Điêu khắc ngoài trời là
một loại hình điêu khắc gắn bó mật thiết với

kiến trúc cảnh quan, một yếu tố tô điểm cho
đô thị. Trên thế giới, đặc biệt là ở các nước
phương Tây, Mỹ… đô thị được trang trí
bằng rất nhiều công trình điêu khắc.
2. Nội dung
2.1. Thực trạng các công trình điêu
khắc công cộng thành phố Hồ Chí Minh
trong việc kết hợp chất liệu – bố cục
2.1.1. Chất liệu - bố cục của tác phẩm
điêu khắc đặt ở công viên - vườn hoa
Thành phố Hồ Chí Minh
Trong khuôn viên Công viên Lê Văn
Tám, tác phẩm Đuốc sống với chất liệu bê
tông, sơn màu và kết hợp với hồ nước phía
sau. Qua năm tháng, Tác phẩm chịu tác
động của nhiệt độ và độ ẩm đã gây ra hiện
tượng lớp sơn bị bong, tróc, nứt chân
chim… làm mất thẩm mỹ và phản cảm.
Bức tượng nếu được thi công bởi chất liệu
đá hay đồng thì giá trị thẩm mỹ sẽ tăng lên
gấp nhiều lần. Bố cục tác phẩm kết hợp với
quy hoạch không gian tạo nên một thể
thống nhất, một bức tranh phong cảnh hài
hòa. Tượng gồm nhóm thiếu nhi bay lên
cùng “ngọn lửa bất diệt”, thể hiện bằng
những hình khối chắc khỏe, tính trang trí
cao, nhẹ nhàng tươi trẻ.
86



PHẠM TẤN PHƯỚC

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

(tác giả Nguyễn Thành Thi, chất liệu đồng)
đặt trong khuôn viên của Nhà hát Thành
phố Hồ Chí Minh.

Hình 1: Phan Gia Hương – Đuốc Sống –
Bê tông – 8m – 1985
Tượng trang trí như voi, mục đồng
chăn trâu… được các nghệ nhân đắp trực
tiếp bằng xi măng, sơn màu lên, đặt ở công
viên Phú Nhuận nhằm trang trí nhưng chỉ
đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ tức thời,
không có độ bền vững với thời gian và
nâng tầm nhận thức thẩm mỹ của cộng
đồng. Tác phẩm điêu khắc bày trí trong
công viên – vườn hoa, đề tài nhẹ nhàng
nhưng vẫn có sự kết hợp, tương tác giữa
chất liệu - bố cục để tạo nên “điểm dừng”
thị giác hay “điểm nhấn” trọng tâm của
không gian. Việc kết hợp đạt được hiệu
quả cụ thể ở các tác phẩm như tác phẩm
Bác Hồ với thiếu nhi ở khuôn viên Nhà
Thiếu nhi Thành phố Hồ Chí Minh rất đẹp,
ấn tượng, hài hòa và bền vững. Tượng voi
bằng đồng đặt ở Thảo Cầm Viên (vua Thái
Lan Paramindr Maha Prajadhipok tặng
Việt Nam, năm 1935, cao 1,5m), hai bức

tượng Người chơi đàn và Người thổi sáo

Hình 2: Diệp Minh Châu - Bác Hồ với
thiếu nhi – Đồng – 3,5m – 1993
Phù điêu tưởng niệm đồng chí Trần
Phú được xây dựng tại Công viên văn hóa
Lê Thị Riêng bằng chất liệu đá hoa cương,
chân dung được tạc nổi trên khối phù điêu
mang hình cờ Đảng cùng câu nói “Hãy giữ
vững chí khí chiến đấu”. Chất liệu đá góp
phần tạo nên thành công của tác phẩm khi
làm rõ hơn nội dung của đề tài về ý chí
chiến đấu, nhưng bố cục nặng về tính
tưởng niệm hơn là trang trí của một tác
phẩm điêu khắc công viên. Bố cục được
xây dựng mang tính kể chuyện, dàn trải từ
chân dung nhân vật đến lá cờ đỏ búa liềm
và câu nói cổ động, thể hiện tính vững
vàng về con đường cách mạng tạo nên
thành công của tác phẩm với đề tài.
87


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 66 (6/2019)

Hình 3: Võ Công Chiến, Nguyễn Trung Tín
– Trần Phú – đá granite – 40m2 – 2005
Ở công viên Tao Đàn, mặc dù các tác

phẩm còn bị hạn chế về không gian nhưng
chất liệu của tác phẩm đã có thành công
nhất định khi sử dụng chất liệu đá granite,
đá vôi. Màu trắng tự nhiên của đá vôi làm
cho tác phẩm tương phản với màu xanh
của cỏ cây, tạo nên sự chú ý về thị giác.
2.1.2. Chất liệu - bố cục của tác phẩm
điêu khắc đặt trước công trình kiến trúc
Thành phố Hồ Chí Minh
Chất liệu đồng được sử dụng cho hai
khối tượng Bưu điện thời kỳ kháng chiến
và Bưu điện thời kỳ hiện đại là một thành
công khi tác phẩm được đặt ngoài trời.
Đồng có khả năng diễn tả “chất”, khối chi
tiết, có độ bền vững với thời gian, màu của
chất liệu đồng ấm nóng, đậm nổi lên trên
màu nền của tòa nhà tạo một sự tương phản
hòa hợp. Đặc biệt chất liệu đồng rất phù
hợp với chi tiết quả cầu kết nối trong tương
lai ở nhóm tượng bên phải vì chỉ có chất
liệu đồng mới có thể thể hiện tốt và bền
vững.

Hình 4: Nguyễn Xuân Tiên – Bưu điện thời
kỳ kháng chiến – Đồng – 5m – 2000, 2001
Tác giả đã xây dựng bố cục Bưu điện
thời kỳ kháng chiến với hình ảnh hai nhân
vật trong tư thế hiên ngang, kiên cường của
người chiến sĩ cách mạng. Tác phẩm sử
dụng hình ảnh điển hình của “Lực lượng

Giao bưu - Thông tin” là cô gái Giao liên
với chiếc “nón tay bèo”, vai khoác súng
Carbine và hình tượng người nam chiến sĩ
Thông tin vai mang máy vô tuyến. Bố cục
theo hình chữ nhật nhằm thể hiện cái khỏe
khoắn, kiên cường của hai nhân vật thể
hiện ở dáng đứng, bước đi. Tác giả rất
khéo khi chọn bố cục, phong cách thể hiện
theo dạng Tân cổ điển để có được mô típ
hài hòa với hình khối tổng thể của công
trình kiến trúc. Đối với nhóm tượng Bưu
điện thời kỳ hiện đại, tác giả thay đổi bố
cục với mục đích tránh sự lặp lại gây cảm
giác nhàm chán cho người xem và để phù
hợp với nội dung tác phẩm. Hai nhân vật
cùng đưa tay cao lên hướng đến hội nhập,
88


PHẠM TẤN PHƯỚC

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

chi tiết quả cầu bay vào tương lai được đưa
vào hợp lý, nói lên được tính toàn cầu hóa,
hội nhập, phát triển.
Bố cục hình chữ nhật được thay bằng
hình mũi tên tạo nên bởi hình ảnh hai cánh
tay vươn lên tạo thành đường dẫn thị giác,
hướng mắt người xem đi từ bố cục bên trái

là quá khứ đến bên phải là hiện đại, kế tiếp
là sự hòa nhập toàn cầu. Ý đồ bố cục tác
phẩm ở đây rất rõ ràng và đạt hiệu quả
thẩm mỹ khi kết hợp với tòa nhà Bưu điện,
bởi với bố cục đó nếu kết hợp với công
trình kiến trúc khác thì hiệu quả thẩm mỹ
của tác phẩm không thể đạt được tối đa mà
đôi khi là có hiệu quả ngược lại.

đồng là một thành công của tác giả khi khai
thác và phát huy được đặc tính của chất
liệu đồng. Đó là sự dẻo dai, nhẹ nhàng hơn
so với chất liệu bê tông nặng trĩu, sự căng
tròn của các khối cơ được phát huy tối đa,
tạo nên một sự rắn chắc, khỏe khoắn của
ngựa đua.
Chất liệu thép trắng (inox) cũng được
tác giả Phan Nhất Phương sử dụng rất
thành công ở tác phẩm Gia đình. Tính cách
điệu, trang trí và bố cục phù hợp với chất
liệu inox, khối tượng được hàn ghép từ các
mảng phẳng của những mảnh thép dày 2
mm diễn tả một gia đình đang đi mua sắm
trong siêu thị. Có hồ nước bao quanh, nên
tác giả sử dụng chất liệu inox rất phù hợp
vì chất liệu này kém bị ôxy hóa. Tác phẩm
không chỉ đạt được sự phù hợp về tính vật
lý của chất liệu mà cả về tính thẩm mỹ, sự
hài hòa của chất liệu inox với chất liệu
công trình kiến trúc.

Tại khuôn viên Trường Đoàn Lý Tự
Trọng, nhóm tượng Thiếu nhi được tác giả
Phan Gia Hương chọn hình thức bố cục với
bàn tay nâng thiếu nhi bay lên, hình khối
mang tính trang trí nêu lên sự quan tâm
chăm sóc đến thế hệ tương lai. Tác giả đã
xử lý khoảng trống khá hợp lý tạo cho tác
phẩm sự thanh thoát, nhẹ nhàng, bay bổng
như chủ đề của tác phẩm.
2.1.3. Chất liệu - bố cục của công
trình điêu khắc hoành tráng Thành phố Hồ
Chí Minh
Nhiều công trình điêu khắc đã được
xây dựng trong lửa đạn chiến tranh, nhưng
do nền kinh tế của đất nước thời kỳ đó bị
ảnh hưởng nặng của chiến tranh nên phần
lớn các công trình không được thể hiện
bằng chất liệu quý hiếm, đắt tiền, bền
vững… Đất nước được giải phóng, hoàn
toàn thống nhất thì điêu khắc hoành tráng

Hình 5: Nguyễn Xuân Tiên – Bưu điện thời
kỳ hiện đại – Đồng – 5m – 2000, 2001
Trên cổng Trường đua Phú Thọ, bức
tượng một chú ngựa đua làm “điểm nhấn”
cho công trình kiến trúc. Vì đặc điểm đó
của bức tượng, nên việc lựa chọn chất liệu
89



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 66 (6/2019)

vẫn phát triển nhưng vấn đề chất liệu chưa
đáp ứng đủ sức sáng tạo của các nghệ sĩ.
Điều kiện kinh tế nhiều khó khăn, chịu ảnh
hưởng nặng nề của lối sống bao cấp nên
“với nguồn kinh phí hạn hẹp không cho
phép các tác giả sử dụng những chất liệu
quý hiếm, đắt tiền, bền vững… do đó các
công trình hầu hết được làm bằng bê tông
cốt thép” (Nguyễn Xuân Tiên, 2009,
tr. 226). Sự phát triển của khoa học kỹ
thuật đã tạo ra những vật liệu trong kiến
trúc phát triển nhanh chóng đã làm cho
chất liệu của điêu khắc không còn phù hợp
với không gian đô thị.
Các công trình điêu khắc hoành tráng
thường được thể hiện bằng chất liệu bền
vững nhưng đa số tượng đài xây dựng
trước năm 1975 ở Thành phố Hồ Chí Minh
đều được xây dựng bằng chất liệu bê tông
cốt thép, do đó qua năm tháng tượng đài đã
xuống cấp. Đáng chú ý hơn là tượng Thánh
Gióng đã bị bong xi măng, làm giảm giá trị
thẩm mỹ và ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị.
Mặc dù kinh tế còn khó khăn nhưng
cũng đã có một số công trình điêu khắc
hoành tráng được tác giả chuyển sang chất

liệu bền vững như đồng, đá, hợp kim. Khi
tác phẩm được chuyển ra chất liệu thì lại
xuất hiện vấn đề là tác phẩm có sự thay đổi
so với phác thảo ban đầu, “thậm chí có
công trình chỉ đạt được 60 - 70 % so với
phác thảo ban đầu” (Nguyễn Xuân Tiên,
2009, tr. 226).
Một phần là do việc “khoán trắng” cho
những người thợ làm nghề hoặc là tác giả
không có đủ kinh nghiệm về kỹ thuật chất
liệu để có thể quán xuyến được công đoạn
này. Việc đấu thầu để chọn những nhà thầu
có đủ điều kiện thực hiện và lúc này người
trúng thầu đã không phải là tác giả, không
là cha đẻ của tác phẩm, không hiểu hết về

tác phẩm nên khi thực hiện việc chuyển
chất liệu đã dẫn đến sai lệch ý tưởng, dẫn
đến chất lượng thẩm mỹ kém. Trong khuôn
viên nghĩa trang liệt sĩ Thành phố Hồ Chí
Minh, bức tượng Mẹ Tổ Quốc nằm ở trung
tâm trong quần thể tượng tưởng niệm, đây
là tượng đài mang hình tượng người mẹ
Việt Nam cao nhất tại Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay. Mẫu phác thảo ban đầu
được nhà điêu khắc Nguyễn Hải bố cục
khá đẹp và hoàn chỉnh, nhưng đến giai
đoạn thi công và hoàn thiện thì “đã để xảy
ra tình trạng chỉnh sửa mẫu phác thảo… vô
tình đã phá hủy toàn bộ cấu trúc và ngôn

ngữ mạnh mẽ” (Nguyễn Hoàng Ánh, 2006,
tr. 43) khi bức tượng được dựng lên từ
1400 viên đá nhỏ.

Hình 6: Nguyễn Hải - Mẹ Tổ quốc – Đá
granite – 25m – 1990
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, một số
công trình tượng đài được thực hiện trước
90


PHẠM TẤN PHƯỚC

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

năm 1975, chủ đề ca ngợi các vị anh hùng
dân tộc có công với đất nước. Tuy nhiên, về
mặt bố cục, bút pháp và hình thức thể hiện
thì các tác phẩm chưa thể hiện được chất
hoành tráng khi “hình thức thể hiện, bố cục,
bút pháp quá nghèo nàn, tay nghề chuyên
môn yếu, thậm chí sai cả tỷ lệ cơ bản của
cấu tạo con người” (Nguyễn Xuân Tiên,
2009, tr. 218), dẫn đến sự bức xúc của
người dân về tượng đài và có người đã ví
các tác phẩm đó như là một trong những tác
nhân gây ô nhiễm môi trường sống ở đô thị.
Điêu khắc hoành tráng ngoài trời
thường thể hiện đề tài lớn về lịch sử, tinh
thần thời đại. Tượng hoành tráng được xây

dựng những năm trước khi đất nước thống
nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn
nguyên giá trị về mặt tinh thần nhưng hình
thức bên ngoài đã không có được mối liên
hệ chặt chẽ giữa chất liệu – bố cục làm cho
tính thẩm mỹ còn rất thấp và gây nên phản
cảm cho người xem. Những công trình
điêu khắc hoành tráng được xây dựng từ
khi đất nước thống nhất đến nay đã có
những bước tiến xa về bố cục, sử dụng chất
liệu bền vững như: tượng Mẹ Tổ Quốc,
Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt trước
trụ sở Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh.
2.2. Giải pháp
“Khái niệm Điêu khắc mới được dùng
phổ thông trong thế kỷ 20 ở Việt Nam”
(Phan Cẩm Thượng, 1997, tr. 5). Loại hình
nghệ thuật này, đặc biệt là điêu khắc công
cộng mới chỉ “chập chững” những bức đi
đầu tiên trong nền điêu khắc Việt Nam. Để
có được những bước tiến về giá trị nghệ
thuật cũng như mối liên hệ giữa chất liệu
và bố cục trong tác phẩm điêu khắc công
cộng thì “người nghệ sĩ phải hoạch định
cho tác phẩm là sử dụng chất liệu gì, xử lý

bề mặt như thế nào để phát huy tối ưu hiệu
quả, bộc lộ khả năng biểu cảm cho tác
phẩm” (Nguyễn Xuân Vinh, 2004, tr. 39).

Tác giả cần phải hiểu, cảm nhận được từng
chất liệu như lạnh, nặng, xù xì, nhẵn, của
đá; trầm, ấm, xù xì, nhẵn và có tính chất
ánh kim của đồng; mộc mạc, nhẵn, xốp của
gốm; trong suốt, phản quang, nhẵn, bóng
của thủy tinh. Mỗi chất liệu có sự kết hợp
hoàn hảo với một hình thức bố cục riêng
nhằm nêu lên được nội dung, chủ đề tác
phẩm. Khi tư duy bố cục cần tránh sự vội
vàng, ảo tưởng về ý tưởng hay đi theo lối
mòn của một hình thức bố cục đã thành
công trước đó.
Các nhà điêu khắc không chỉ tham
khảo trên sách vở mà cần học hỏi trực
quan kinh nghiệm của các nước trong khu
vực và thế giới thông qua các hoạt động
như Trại sáng tác, triển lãm, hội thảo
chuyên đề, trao đổi học thuật, giúp cho
nghệ sĩ Việt Nam có cơ hội được làm việc,
học hỏi và trao đổi kinh nghiệm chuyên
môn với các chuyên gia nước ngoài giúp
nâng cao năng lực và tư duy sáng tác, “các
nhà điêu khắc tiếp cận, chà sát với môi
trường điêu khắc hiện đại trong khu vực,
trên thế giới để tiếp cận những cái mới”
(Nguyễn Xuân Tiên, Trịnh Dũng, Hoàng
Minh Phúc, Trần Ngọc Vân, Phạm Thị
Yến, 2014, tr. 159).
3. Kết luận
Điêu khắc công cộng Thành phố Hồ

Chí Minh trải qua một chặng đường tuy
không gọi là dài nhưng cũng đủ để thấy
được những thành tựu đáng kể cần phát
huy. Đó là một quá trình phát triển, để lại
dấu ấn và hình ảnh đẹp trong lòng người
dân thành phố. Sự góp mặt của điêu khắc
công cộng ngày càng nhiều về số lượng lẫn
chất lượng là thành quả lao động của các
91


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 66 (6/2019)

nhà điêu khắc, góp một phần không nhỏ
vào việc giáo dục tư tưởng thẩm mỹ không
chỉ dành riêng cho giới yêu nghệ thuật mà
dành cho tất cả mọi người có thể tiếp xúc
và cảm thụ thẩm mỹ. Sự hưởng ứng và
tham gia nhiệt tình của các nhà điêu khắc
là một điều đáng được khích lệ. Bên cạnh
những thành quả đạt được, song song đó
vẫn còn không ít tác phẩm bị “thô”, đi vào
lối mòn và thiếu sót về mối quan hệ chất
liệu - bố cục. Tác phẩm được sáng tạo nên
từ sự dâng trào cảm xúc của tác giả nhưng
sự thành công của tác phẩm không phải là
một sự “ăn may” mà nó là sản phẩm có sự
tính toán từ trước tới từng chi tiết, sự kết

hợp giữa tâm hồn của một thi sĩ và khối óc
của một kỹ sư. Phải có ý đồ, sự tính toán
nhằm mục đích dẫn mắt người xem (nghệ
thuật thị giác) đi đúng với những gì tác giả
đã dự toán trước.
Chọn chất liệu cho tác phẩm ít được
các nhà điêu khắc quan tâm mà chỉ tập
trung vào việc sáng tạo nên một tác phẩm
thật hoàn hảo, điều đó đã làm cho tác phẩm
không thể phát huy được giá trị thẩm mỹ
khi kết hợp ý tưởng sáng tạo với một chất
liệu kém. Nghệ sĩ chính là người có tri thức
hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật chứ
không phải đơn thuần là thể hiện kỹ năng
nghề nghiệp, cần có một sự tính toán trên
cơ sở khoa học chứ không phải là dựa trên
cảm hứng tùy ý. Mỗi chất liệu có tính vật
lý, biểu cảm khác nhau nên phù hợp với
từng dạng bố cục khác nhau. Bố cục được
tư duy dựa trên nội dung của đề tài, một
phương pháp làm việc mang ý đồ chiến

lược của tác giả cho việc xây dựng một
hình tượng nghệ thuật. Nó không chỉ mang
yếu tố kỹ năng, kỹ thuật còn là sự suy tính
và hình dung trước các bước, quá trình
sáng tạo ra một hình thức gắn chặt với nội
dung của chủ đề tác phẩm. Cùng một đề tài
nhưng sử dụng các dạng bố cục khác nhau
sẽ đưa đến một thông điệp khác nhau. Vì

bố cục là vấn đề cốt yếu nhất của tác phẩm
nghệ thuật, nó được coi như bộ khung
xương của tác phẩm. Đặc trưng quan trọng
của phong cách cá nhân, thậm chí còn được
đánh giá như đặc điểm sống còn của một
trường phái hay trào lưu nghệ thuật.
Khi công chúng cảm thụ tác phẩm, đó
là thành quả của một quá trình làm việc,
học tập và nghiên cứu. Tác phẩm nghệ
thuật và người xem giống như là cây và
đất, tác phẩm có sống được và ngày càng
mới lạ ngày càng phong phú là nhờ còn có
người xem còn có người chiêm ngưỡng và
cảm thụ nơi trái tim của người tạo ra và
người đón nhận. Trong cuộc sống, bất cứ ai
đều cũng có những rung động về tình yêu,
những cung bậc cảm xúc và đôi mắt chiêm
ngưỡng nghệ thuật chính vì vậy mà người
xem rất cần những tác phẩm có giá trị
nhân văn và nghệ thuật để vun đắp đời
sống tinh thần, nuôi dưỡng những ước mơ.
Đối tượng chính được ngắm nhìn là tác
phẩm điêu khắc nhưng để có được sự hoàn
mỹ cần một tổng thể các yếu tố kết hợp
một cách logic. Chất liệu – bố cục trong
điêu khắc công cộng là một tổng thể, có
mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau để tạo nên
một tác phẩm trường tồn cùng năm tháng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Hoàng Ánh (2006). Hiệu ứng ngôn ngữ chất liệu điêu khắc tại Thành phố Hồ Chí
Minh, Mỹ thuật tạo hình. Hồ Chí Minh: Trường Đại Học Mỹ Thuật thành phố Hồ
Chí Minh.
92


PHẠM TẤN PHƯỚC

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Nguyễn Thị Hiên (2008). Điêu khắc. Hà Nội: NXB Đại học Sư Phạm.
Đàm Luyện (2011). Giáo trình bố cục. Hà Nội: NXB Đại học Sư Phạm.
Tạ Phương Thảo (1998). Ký họa và bố cục. Hà Nội: NXB Giáo Dục.
Phan Cẩm Thượng (1997). Điêu khắc cổ Việt Nam. Hà Nội: NXB Mỹ thuật.
Nguyễn Xuân Tiên (2009). Điêu khắc hoành tráng Việt Nam thế kỷ XX thành tựu và vấn
đề. Hà Nội: NXB Mỹ Thuật.
Nguyễn Xuân Tiên (Chủ nhiệm đề tài), Trịnh Dũng, Hoàng Minh Phúc, Trần Ngọc Vân,
Phạm Thị Yến (2014). Điêu khắc trong không gian văn hóa đô thị ở Nam Bộ. Báo
cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu khoa học đề tài cấp Bộ - Trường Đại học Mỹ thuật
Thành phố Hồ Chí Minh, trang 159.
Nguyễn Xuân Vinh (2004). Một vài suy nghĩ về sử lý bề mặt chất liệu trong điêu khắc. Tạp
chí Nghiên cứu Mỹ thuật Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội – Viện Mỹ thuật”, số 3
(10-2004), tr.37-42.
Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Vũ Quang Hào, Phan Xuân Thành (2013). Đại từ điển
Tiếng Việt. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày nhận bài: 08/3/2019

Biên tập xong: 15/6/2019

93


Duyệt đăng: 20/6/2019



×