Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Buồn nôn - Tuyên ngôn hiện sinh của Jean-Paul Sartre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.88 KB, 7 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 22 (47) - Tháng 11/2016

Buồn nơn - Tun ngơn hiện sinh của Jean-Paul Sartre
Nausea – An existential declaration by Jean-Paul Sartre
NCS. Trần Thị Thảo
Trường Đại học Tài chính - Marketing
Tran Thi Thao, Ph.D. student.
University of Finance - Marketing
Tóm tắt
Jean-Paul Sartre là đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh. Với tác phẩm đầu tay Buồn nơn, được viết
trên phương pháp mơ tả hiện tượng học: tất cả cố gắng của Roquentin - nhân vật chính - nhằm xốy sâu
cái nhìn, xun thủng qua những lần vỏ ngồi bao bọc, để đạt đến tri kiến đích thực về bản chất của
thực tại. Sự vật hiện hữu. Sự hiện hữu ấy mang tính chất lầm lì, dày đặc, bất khả giải ngộ và ngẫu nhiên.
Chính cái tính cách bất tất (contingence) của sự vật là chất men gợi dậy cơn Buồn nơn. Ơng cho tận
cùng của cơn Buồn nơn ấy, con nguời đảm nhận lấy Tự do trong trách nhiệm để tự thể hiện vận mệnh
cuộc đời mình. Có thể nói rằng Buồn nơn là hồng tâm tư tưởng, là tun ngơn của Jean-Paul Sartre về
hiện sinh.
Từ khóa: Jean-Paul Sartre, “Buồn nơn”, chủ nghĩa hiện sinh.
Abstract
Jean-Paul Sartre is a notable representative philosopher of existentialism. His first work, “Nausea”, was
written using the the phenomenological method. All efforts of Roquentin, the protagonist, aim at
targeting the viewpoint penetrating the sequence of shells in order to achieve the true knowledge of the
nature of reality, the existing nature. This existence has the characteristics of taciturn, dense, impossible
realization and random. It is the contingence of the nature that makes nausea. Sartre believes that, at the
core layer of the Nausea, people with their responsibility will take Liberty to express their own destiny.
It can be said that “Nausea” is a bull ideological manifesto of Jean-Paul Sartre about existentialism.
Keywords: Jean-Paul Sartre, “Nausea”, existentialism.

hoảng của nền khoa học, bất lực của nó với


các vấn đề thế giới quan, các vấn đề về ý
nghĩa sự tồn tại con người.
Sự xuất hiện của Sartre đã làm cho chủ
nghĩa hiện sinh mang màu sắc mới bởi triết
lý hiện sinh của ơng ẩn nấp dưới nhiều
hình thức truyền tải. Ơng là nhà văn, là nhà
triết học - một trong những nhân vật nòng
cốt trong hệ thống triết học hiện sinh, cũng
là một trong những nhân vật có ảnh hưởng

1. Mở đầu
Chủ nghĩa hiện sinh được khởi tạo từ
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và nở rộ ở
châu Âu từ sau thế chiến lần thứ hai. Đây
là một triết thuyết đậm chất phản tư của
giới trí thức tư sản và tiểu tư sản với sự tha
hóa của xã hội, tha hóa của lao động và đối
với mặt trái của các thành tựu của khoa học
kỹ thuật trong xã hội tư bản cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, phản ánh sự khủng
125


lớn trong nền triết học Pháp thế kỷ XX.
Jean-Paul Sartre có một hệ thống các tác
phẩm khá phong phú từ tiểu thuyết, kịch,
đến khảo luận. Các tác phẩm cùng những
hoạt động sôi nổi trong cuộc đời ông đã có
một tác động sâu rộng trong đời sống xã
hội Pháp thập niên 1950 – 1960, khiến ông

trở thành thần tượng của thanh niên Pháp
một thời. Trong các tác phẩm của ông thì
cuốn Buồn nôn (1938) là một trong những
tác phẩm đáng chú ý nhất của Sartre. Đây
được coi là bản Tuyên ngôn của Jean-Paul
Sartre về chủ nghĩa hiện hiện sinh.
Cuốn tiểu thuyết “Buồn nôn” của
Jean-Paul Sartre chính là một trong những
cách viết thành công củng Roquentin và gã đàn ông
trong khách sạn Printana, Sartre đã gửi đến
một thông điệp với tha nhân: “Gã lại nhìn
chằm chằm vào tôi nữa. Lần này gã sắp sửa
nói với tôi đây, tôi cảm thấy toàn thân mình
cứng đờ. Không phải là vì giữa chúng tôi
đã nảy sinh mối thiện cảm, không: chỉ vì
chúng tôi giống nhau, thế thôi. Gã cũng cô
đơn như tôi, song còn chìm sâu vào nỗi cô
đơn hơn tôi nữa. Hẳn gã đang đợi cơn Buồn
nôn hay một thứ gì cùng loại. Như thế, hiện
giờ đã có người đang nhìn nhận tôi, những
kẻ nghĩ thầm trong đầu – sau khi nhìn kỹ
khuôn mặt tôi: “Thằng cha đó cũng thuộc
bọn mình”. Sao? Gã muốn gì cơ chứ? Gã
phải biết rõ ràng rằng chúng tôi không thể
làm gì trợ giúp cho nhau được” [5, tr.123].
Như vậy giữa tôi và tha nhân không thể
có sự cảm thông, không có sự trợ giúp và
còn khủng khiếp hơn tha nhân chỉ chực chờ
tước đoạt tự do của tôi. Chính vì vậy
Roquentin dù cho có trở về bên cạnh nàng

Anny, chàng cũng không thể tìm thấy ở
Anny như một điểm dừng của chú ngựa
chùn chân, chàng lại khước từ Anny: “Tôi
đã toan tính nhờ vào Anny biết là chừng
nào để tự giải thoát khỏi nỗi khủng khiếp
mãnh liệt nhất, cơn buồn nôn dữ dội nhất
của tôi, giờ đây tôi mới hiểu điều ấy. Quá
khứ của tôi đã chết, Anny chỉ trở về để tước
129


đoạt hết mọi hy vọng của tôi” [5, tr. 286].
Như vậy, con đường của Buồn nôn đi
từ nhân vật trốn chạy sự thật đó bằng đủ
thứ ứng xử nhưng những cơn buồn nôn vẫn
tồn tại. Buồn nôn như là một biểu tượng về
bản năng, về sự phi lý của việc con người
tồn tại bằng một lý do nào. Bản thân những
cơn buồn nôn đó tự nó không có lý do,
không lý giải bằng một tầng chìm ký ức
nào. Cuốn tiểu thuyết kết thúc với hình ảnh
Roquentin nghe một đoạn nhạc và bỗng
nhiên hiểu rằng nghệ thuật là điều tất yếu
duy nhất của con người. Như vậy con
người đã phải đối diện một cách cô đơn
giữa ý thức cá nhân và thân phận làm
người. Có lẽ chính vì vậy mà hiện sinh của
Sartre luôn bị hiểu nhầm là sự quẫy đạp
của con người cá nhân trong tính thế tranh
chấp mong manh, trong sự dòn mỏng của

số phận. Đó là một nhận xét phiến diện về
triết thuyết của ông, không phải chỉ đến
những giai đoạn sau này mà ngay trong tác
phẩm buồn nôn ông đã “mớm” tư tưởng về
một tiết lý nhập cuộc, hành động và trách
nhiệm lớn lao, cao cả của con người đối
với xã hội. Trong đoạn đối thoại của
Roquentin và anh chàng Tự Học, mặc dù
Roquentin quả quyết: “Tất cả chúng ta,
mỗi khi còn hiện hữu, đều phải ăn và uống
để bảo tồn cuộc hiện sinh quý báu của
mình nhưng lại chẳng có gì, chẳng có lấy
một lý do cỏn con nào để hiện hữu cả”
[5,tr. 206]. Đáp lại thái độ bi quan đó của
Roquentin, chàng Tự Học đã đáp trả:
“Cuộc đời có một ý nghĩa nếu ta muốn ban
cho nó một ý nghĩa. Trước hết phải hành
động, lao mình vào một công việc… À, có
một mục đích, thưa ông, có một mục
đích… còn có loài người” [5, tr. 207].
3. Kết luận
Tóm lại, La Nausée (Buồn nôn) là
tuyên ngôn của thuyết hiện sinh và được
nhìn nhận là một trong những tiểu thuyết
hay nhất của Sartre. Những trải nghiệm của
Roquentin trong tác phẩm này biểu hiện

phần lớn những chủ đề chính của “L’Être
et Le Néant” (Hữu thể và vô thể) xuất bản
5 năm sau. Tác phẩm được xem như sự

trầm tư nối dài về ngẫu nhiên của sự sống
và nổi khắc khoải của tinh thần phản ảnh
hiện tượng ngẫu nhiên đó. Trong một
thoáng trầm tư về cái rể cây, Roquentin
cảm nhận được sự tàn nhẫn trong sự hiện
hữu của nó và của mình: cả hai đơn thuần
chỉ hiện hữu ở đó, không một biện minh
nào, thừa thải. Tính cách vật lý của cảm
thức bệnh hoạn đầy mặc khải này không
nên bị xem thường. Tương tự như sự bối
rối trước cái nhìn của Tha nhân, ý hướng
cơ thể của chúng ta luôn mặc khải một thực
thể siêu hình.
Trong sự nhập cuộc của mình, con
người hiện sinh đã cố gắng đưa ra một giải
thoát cho tâm tư, bằng sự thể hiện vào trạng
thái hiện sinh tuyệt đối. Nhưng trên thực tế,
con người hiện sinh vẫn chỉ là con người
hữu hạn, bị giới hạn một cách tàn nhẫn.
Trong truyện, nhân vật luôn luôn buồn nôn
như một thái độ phản kháng những gì thuộc
về lí tính cứng nhắc siêu hình. Nhân vật
chính Roquentin đang trên con đường khám
phá lí do tồn tại của con người là không có
lí do gì hết. Con người là một hiện thực
ngẫu nhiên, không có lí do tồn tại.
Điểm mấu chốt của thuyết hiện sinh là
con người phải hành động, là sự dấn thân
và trải nghiệm. Con người, trước hết chỉ là
hư vô, vì vậy con người không thể định

nghĩa được. Con người phải hiện hữu, gặp
gỡ, xuất hiện trong thế giới đã, rồi mới
được định nghĩa. Và con người chỉ tồn tại
sau đó, chỉ tồn tại như những gì mà nó
được làm ra. Điều đó được thể hiện qua sự
hành động, sự dấn thân và sự trải nghiệm.
Chính từ đây, có thể nói rằng thuyết hiện
sinh định nghĩa con người bằng hành động.
Như vậy, tác phẩm “Buồn nôn” đã đưa
đến cho chúng ta một triết thuyết về hiện
sinh, đây cũng là điểm thành công làm nên
tên tuổi của tác phẩm. Theo đó, triết thuyết
130


hiện sinh cho rằng chúng ta đều là những
thực thể tự do và vì vậy, đều có trách
nhiệm với mọi sự lựa chọn và hành động
của bản thân mình, chúng ta là tác giả của
cuộc đời mình và kiến thiết những gì chúng
ta đeo đuổi. Đọc Buồn nôn có thể nhận
thấy được những trạng huống đầy đủ của
hiện sinh mà sau này Sartre tiếp tục làm rõ
hơn ở các tác phẩm tiếp theo, cho nên
“Buồn nôn” được xem như là tuyên ngôn
của Sartre về hiện sinh.
Trần Thái Đỉnh trong phần mở đầu
cho khảo luận về hiện sinh của Jean Paul –
Sartre đã phát biểu: “Người ta có lý để coi
cuốn tiểu thuyết La nausea (Buồn nôn) của

Sartre như bản tuyên ngôn triết hiện sinh
của ông. Điều chắc chắn: cuốn tiểu thuyết
đó đã phổ biến tư tưởng hiện sinh phi lý
của Sartre trong đại chúng. Cũng chính
trong cuốn sách đó, ông đã trình bày tư
tưởng của ông về vũ trụ vạn vật một cách
đầy đủ và dễ hiểu” [2, tr.310].
Võ Công Liêm đã có nhận định trong
bài viết Jean Paul Sartre với buồn nôn đăng
trên tạp chí điện tử tonvinhvanhoadoc như
sau: “Buồn Nôn không còn là hư cấu, nó
trở nên một luận cứ triết học của học thuyết
hiện sinh mà Jean-Paul Sartre là kẻ đưa
đường. Tác phẩm Buồn Nôn của ông đã
để lại hậu thế những giá trị tuyệt đối, vượt
thời gian qua những án văn chương bất hủ,
một phạm trù triết học đầy nhân tính trong
thuyết hiện sinh của ông. Jean-Paul Sartre
là nhân vật thời thượng qua mọi thời đại
của nền văn học sử hiện đại”
Tác giả Andre Niel nhận định: “Chìa
khóa của Triết học Sartre là sự phân tích
tâm bệnh lý học về hiện tượng “buồn nôn”,
hiện tượng Sartre cho là phát sinh do cảm
thức về tính chất bất tất, ngẫu nhiên của thế
giới” [1, tr.17]

“Các vấn đề triết học Sartre về phong trào
và hành động, về ý thức và thân xác, về di
chuyển và trú ẩn được xây dựng đầy đủ

nhất trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên Buồn
nôn. Mặc dù Sartre đã thực sự có một sự
thay đổi đáng kể trong sự nghiệp nhưng
những vấn đề cơ bản của Sartre về nhân
bản vẫn không thay đổi kể từ khi xuất bản
tiểu thuyết này… Như một số nhà phê bình
đã nhận định, Buồn nôn không chỉ dừng lại
với tư cách là thành tựu đầu tiên của Sartre,
vốn dĩ dễ dàng bị vượt qua hay phủ định
bởi những cống hiến tiếp theo của chính
tác giả trong quá trình trưởng thành của sự
nghiệp. Hầu như không có một chủ đề nào
được mở ra trong các tác phẩm sau này của
Sartre mà không mang bóng dáng của
những tư tưởng mà Sartre đã đặt nền móng
trong tác phẩm đầu tiên này” [7, p.480].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Andrê Niel (1968), Jean-Paul Sartre anh
hùng và nạn nhân của “ý thức khốn khổ”,
Nxb Ca Dao, Sài Gòn.
2. Trần Thái Đỉnh (1968), Triết học hiện sinh,
Nxb Thời Mới, Sài Gòn.
3. Đỗ Đức Hiểu (1978), Phê phán văn học hiện
sinh chủ nghĩa, Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Jean-Paul Sartre (1966), a nause , Le Livre
De Poche, France.
5. Jean-Paul Sartre (1967), Buồn nôn, Nxb An
Tiêm, Sài Gòn.
6. Nguyễn Quang Lục (1970), Mổ xẻ nhà văn
hiện sinh Jean-Paul Sartre, Nxb Hoa Muôn

Phương, Sài Gòn.
7. Paul Arthur Schilpp (1991), The philosophy of
Jean-Paul Sartre, Open Court Publishing
Company, La Salle, Illinois, USA.
/>
Ngày
nhận
bài: 16/5/2016
Biên định:
tập xong: 15/11/2016
Paul
Arthur
Schilpp thì khẳng

131

Duyệt đăng: 20/11/2016



×