Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Con đường chi viện của miền Bắc cho miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.42 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Khoa Kinh tế - Luật

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đề tài: Tìm hiểu con đường chi viện của miền Bắc cho miền Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975).


LỜI MỞ ĐẦU
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng nước ta
chuyển sang giai đoạn mới. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, từ căn bản hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Miền Nam còn ở dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, phải tiếp tục
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhiệm vụ chung của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn này là thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và
dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh.
Sau khi chế độ Việt Nam Cộng hòa ra đời dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, đã phủ
nhận tổng tuyển cử toàn quốc theo Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954, đưa
đến việc chia cắt Việt Nam. Để tiếp tục chi viện cho quân Giải phóng miền Nam,
chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định xây dựng những con
đường chiến lược.
Nhóm 03 chúng em chọn đề tài “ Tìm hiểu con đường chi viện của miền Bắc cho
miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975).” để làm rõ hơn
về con đường này.


MỤC LỤC
I. NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN VÀ CHỦ TRƯƠNG


HÌNH THÀNH CON ĐƯỜNG CHI VIỆN...........................................................1
1.1. Nguyên nhân của cuộc kháng chiến.............................................................1
1.2. Chủ trương của Đảng về hình thành con đường chi viện..........................1
II. CÁC CON ĐƯỜNG CHI VIỆN.......................................................................3
2.1. Đường bộ.........................................................................................................3
2.1.1. Quá trình hình thành và hoàn thiện...........................................................3
2.1.2. Hoạt động.....................................................................................................5
2.2. Đường biển......................................................................................................7
2.2.1. Quá trình hình thành và hoàn thiện...........................................................7
2.2.2. Hoạt động.....................................................................................................9
2.3. Con đường xăng dầu....................................................................................11
2.3.1. Quá trình hình thành và hoàn thiện.........................................................11
2.3.2. Hoạt động...................................................................................................13
2.4. Đường hàng không.......................................................................................14
2.4.1. Quá trình hình thành và hoàn thiện.........................................................14
2.4.2. Hoạt động...................................................................................................14
2.5. Đường chuyển ngân.....................................................................................15
2.5.1. Quá trình hình thành và hoàn thiện.........................................................15
2.5.2. Hoạt động...................................................................................................16
III. Ý NGHĨA CỦA CÁC CON ĐƯỜNG CHI VIỆN ĐỐI VỚI CUỘC
KHÁNG CHIẾN....................................................................................................21


I.

NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN VÀ CHỦ TRƯƠNG HÌNH
THÀNH CON ĐƯỜNG CHI VIỆN.

1.1.


Nguyên nhân của cuộc kháng chiến.
Sau nhiều năm trường kỳ kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã giành những thằng lợi lớn lao trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, buộc Pháp phải ký kết hiệp định Giơne-vơ
về Đông Dương. Song, với hiệp định này, mục tiêu thống nhất, độc lập vẫn chưa
được thực hiện trên phạm vi cả nước. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền
Bắc, Nam. Trong khi miền Bắc bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn
vết thương chiến tranh thì đế quốc Mỹ đã hất cẳng Pháp, nhảy vào miền Nam,
dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm.
Việc Mỹ can thiệp vào tình hình miền Nam Việt Nam là nhằm tiêu diệt phong
trào yêu nước của nhân dân ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới
của Mỹ, căn cứ quân sự tiến công miền Bắc và ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan tràn
xuống khu vực Đông Nam châu Á.
Tình hình miền Nam càng trở nên căng thẳng hơn bởi hành động phá hoại
Hiệp định Giơ-ne-vơ, cự tuyệt hiệp thương của Mỹ- Diệm. Chúng dùng chính sách
trả thù, khủng bố dã man, tàn bạo những người kháng chiến cũ và những người yêu
nước, đặc biệt là những người cộng sản bằng các đợt “ tố cộng, diệt cộng” gây nên
bao đau thương tang tóc cho đồng bào miền Nam. Cách mạng miền Nam đứng
trước thử thánh mới phải trực tiếp đương đầu với Mỹ, một đế quốc có tiềm lực
quân sự, kinh tế mạnh, trở thành kẻ thù chính, kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta và
nhân dân Đông Phương.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã kịp thời ra nghị quyết chuyển hướng cho cách
mạng miền Nam – Nghị quyết 15. Hội nghị Trung ương lần thứ 15 ( 1/1959) xác
định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân, bằng lực lượng chính trị của quần chúng là chủ
yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang nhân dân.Đây chính là bước ngoặt lớn trong sự
phát triển của tình hình ở miền Nam.
1.2. Chủ trương của Đảng về hình thành con đường chi viện.
Chủ trương của Đảng thể hiện ở nội dung cơ bản của hai Nghị quyết:
Trên cơ sở phân tích tình hình chiến trường khi Mỹ đưa quân đội viễn chinh và

quân đội của các nước phụ thuộc Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền
Nam, Đảng ta nhận định: tính chất cơ bản của cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền
1


Nam vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân mới. Mỹ tuy có tăng về lực lượng quân
sự nhưng lại có nhiều chỗ yếu cơ bản, nhất là về chính trị.
Về phía ta, từ một nửa nước có chiến tranh thành cả nước có chiến tranh với
mức độ và hình thức khác nhau. Cuộc chiến đấu gay go, quyết liệt hơn nhưng ta đã
vững mạnh hơn hẳn trước, đã có sự chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức. Từ đó, Đảng
đưa ra kết luận:
Một là, so sánh lực lượng giữa ta và địch căn bản không thay đổi. Vì thế, ta vẫn
giữ vững và phát huy chiến lược tiến công.
Hai là, ta tiếp tục tiến công và phản công, kết hợp đấu tranh quân sự và chính
trị nhưng đấu tranh quân sự ngày càng có tác dụng quyết định trực tiếp.
Ba là, ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại
giao, tăng cường tiếp xúc cả công khai và bí mật với nhiều nước trên thế giới, làm
rõ chính nghĩa và thiện chí của ta, góp phần hình thành trên thực tế một mặt trận
nhân dân chống Mỹ.
Hai Hội nghị Trung ương đã khẳng định quyết tâm đánh Mỹ và kiên quyết đánh
thắng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào
nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam.
Nêu rõ nhiệm vụ cấp bách ở miền Bắc lúc này là phải: "Kịp thời chuyển hướng
tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc
phòng cho phù hợp với tình hình mới". Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương
cũng nêu ra những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Bắc là: Kịp thời chuyển
hướng nền kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển
của tình hình; ra sức tăng cường công tác phòng thủ, trị an, bảo vệ miền Bắc, kiên
quyết đánh bại kế hoạch địch ném bom, bắn phá, phong tỏa miền Bắc bằng không
quân và hải quân; ra sức chi viện cho miền Nam để hạn chế dịch chuyển "chiến

tranh đặc biệt" ở miền Nam thành "chiến tranh cục bộ" và ngăn chặn địch mở
rộng" chiến tranh cục bộ" ra miền Bắc, kip thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức
cho phù hợp với tình hình mới; đẩy mạnh công tác đấu tranh ngoại giao nhằm
tranh thủ sự ủng hộ của bè bạn quốc tế, vạch rõ âm mưu mới của đế quốc Mỹ đối
với cách mạng miền Nam và miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
2


Phương châm chiến lược chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là:
Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh, cần phải cố gắng
đến mức độ cao, tập trung lực lượng cách mạng của cả hai miền để mở những cuộc
tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương
đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Phương châm đấu tranh là: kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với
đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công (quân sự, chính trị và binh
vận), trong đó đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí
ngày càng quan trọng. Tư tưởng chỉ đạo chiến lược là giữ vững và phát triển thế
tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công.
Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí cách mạng của hai miền Nam - Bắc vì mối
quan hệ giữa hai miền: miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn.
Hai nhiệm vụ đó không tách rời nhau, mà gắn bó mật thiết với nhau thực hiện khẩu
hiệu chung của nhân dân cả nước là "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng
giặc Mỹ xâm lược".
Sau khi có nghị quyết 15 của ban chấp hành Trung ương Đảng, phong trào đấu
tranh của nhân dân ta ở miền Nam có bước phát triển mới. Đấu tranh vũ trang ngày
càng lan rộng. Yêu cầu về cán bộ và vũ khí ngày càng lớn. Đường dây Thống Nhất
trên cơ sở đường giao liên bí mật xuyên Trường Sơn trong kháng chiến chống thực
dân Pháp không thể đáp ứng yêu cầu đó nhất là đối với các tỉnh Nam Bộ và Nam
Trung Bộ.
CÁC CON ĐƯỜNG CHI VIỆN

2.1. Đường bộ
2.1.1. Quá trình hình thành và hoàn thiện
Nhiệm vụ chi viện cho miền Nam đề ra trước mắt đã đặt ra một yêu cầu bức
thiết về con đường vận chuyển chi viện cho miền Nam. Trước tình hình đó, giữa
năm 1959, Bộ Chính trị ra chỉ thị: “Tổ chức một đoang giao thông quân sự đặc biệt
mở đường đưa cán bộ, tiếp tế vũ khí và những hàng cần thiết khác vào miền Nam.
Đây là một việc làm lớn, có tình chiến lược, quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất nước nhà”.

II.

3


Sau một thời gian nghiên cứu và
chuẩn bị, ngày 19/5/1959, thường trực tổng
quân ủy Bộ quốc phòng triệu tập ban cán
sự, chính thức giao cho Đoàn 559 chính
thức mở đường giao thông quân sự vào
Nam, dọc theo dãy Trường Sơn, vận
chuyển hàng quân sự cho miền Nam, đưa
đón cán bộ từ Bắc vào Nam và ngược lại
mà trước mắt là liên khu V. Binh đoàn
Trường Sơn (Đoàn 559) thành lập, đánh
dấu sự khởi đầu của tuyến đường Trường
Sơn. Mạng lưới giao thông quân sự này
chạy dọc dãy Trường Sơn, từ miền Bắc qua
miền Trung, hạ Lào và Campuchia để chi
viện cho Quân Giải phóng miền Nam và
Quân đội Nhân dân Việt Nam. Vào những

năm đầu, việc vận chuyển hàng chi viện
được thực hiện bằng hình thức đi bộ, gùi
thồ. Tuy giữ được bí mật nhưng việc vận
chuyển bằng phương pháp thô sơ không
đem lại hiệu quả do quãng đường vận tải
dài tới 2.000 km. Sau 2 năm như vậy, việc
vận tải bắt đầu chuyển sang cơ giới.
Hệ thống tuyến đường Trường
Sơn

4


Mạng lưới đường cơ giới dần được hình thành lẩn khuất giữa núi rừng
Trường Sơn tạo điều kiện cho những đoàn xe quân sự vận chuyển lượng lớn binh
lực, lương thực và vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam. Cũng từ đây, lực lượng quân
sự Mỹ ra sức đánh phá hệ thống giao thông này bằng bộ binh và không quân,
đường Trường Sơn trở thành tuyến lửa - nơi diễn ra cuộc đấu gan, đấu trí ác liệt
giữa hai bên.Bất chấp bom đạn và chất độc hóa học, những đoàn xe vẫn tiến về
miền Nam.

Các xe vận chuyển nhu yếu phẩm và vũ khí trên đường Trường Sơn
2.1.2. Hoạt động
Đường mòn Hồ Chí Minh là mạng lưới giao thông quân sự chiến lược vận
chuyển binh lực, lương thực và vũ khí từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền
Nam.
Người Mỹ ghi nhận đây là "Một trong những thành tựu vĩ đại của nền kỹ thuật
quân sự ở thế kỷ 20". Lúc đầu, đường Hồ Chí Minh trên bộ là con đường mòn đi
dọc phía Đông dãy Trường Sơn, luồn lách qua hàng rào, đồn bốt và sự đánh phá ác
liệt của Mỹ - ngụy. Sau một thời gian “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” trong điều

kiện địch đánh phá ác liệt, khí hậu, thời tiết phức tạp, việc xây dựng và bảo vệ
tuyến vận tải kéo dài hàng nghìn km, vượt xa với quy mô, phạm vi cả Đông và Tây
5


dãy Trường Sơn, xuyên qua 20 tỉnh thuộc 3 nước Đông Dương. Đường Hồ Chí
Minh là khúc ruột nối các tuyến vận tải của hậu phương lớn miền Bắc, các tuyến
vận tải của các chiến trường thuộc 3 nước Việt - Lào - Campuchia đã tạo nên một
hệ thống liên hoàn và vững chắc. Nói đến Trường Sơn là nói đến sự hy sinh, gian
khổ, đồng thời cũng nói đến khát vọng “Không có gì quý hơn độc lập - tự do” của
con người Việt Nam, bất chấp sự hủy diệt của kẻ thù và những khó khăn, trở ngại
của thời tiết, địa hình trong 16 năm (1959 - 1975).
Năm 1959, miền Bắc đưa vào miền Nam hơn 500 người. Năm 1964, con số đó
tăng lên hơn 17.000 người. Đặc biệt, từ sau năm 1964, đường Trường Sơn như một
“trận đồ bát quái” vươn ra các chiến trường bằng mọi ngả. Các đơn vị bộ đội và
thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn - Hồ Chí Minh đã vượt qua
muôn vàn gian lao, thử thách, dũng cảm, kiên cường chống trả cuộc chiến tranh
xâm lược tàn khốc của Mỹ - ngụy. Thời gian này, chúng đã ném xuống đây hơn 3,5
triệu tấn bom đạn, nhiều hơn số lượng bom đạn Mỹ đã sử dụng trong đại chiến thế
giới lần thứ hai. Trong thời gian diễn ra những cuộc tiến công chiến lược (1968,
1972, 1975), chỉ tính riêng số quân đưa vào miền Nam trong các năm kể trên như
sau: Năm 1968 là 141.000 người, năm 1972 xấp xỉ 153.000 người, năm 1975 là
117.000 người.
Ngoài lực lượng trực tiếp chiến đấu, các lực lượng vận tải, đảm bảo giao thông,
mở đường và các lực lượng bảo đảm khác gần hàng chục vạn người cũng được
động viên từ miền Bắc. Về vật chất, miền Bắc đã tổ chức tiếp nhận hàng triệu tấn
vật chất, vũ khí, phương tiện kỹ thuật do nước ngoài viện trợ; tổ chức nghiên cứu,
thiết kế, cải biên, cải tiến nhiều loại vũ khí, khí tài; tổ chức vận chuyển vượt hàng
nghìn kilômét dưới bom đạn đánh phá của địch tới các chiến trường, các vùng giải
phóng. Trong những năm từ 1965 đến 1968, miền Bắc đưa vào miền Nam khối

lượng vật chất gấp 10 lần so với những năm từ 1961 đến 1964. Con số đó trong
những năm chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” còn tăng gấp nhiều lần.
Bên cạnh việc chi viện sức người, sức của cho chiến trường, miền Bắc còn tiếp
nhận hàng chục vạn cán bộ, chiến sỹ, con em miền Nam tập kết; đón tiếp gần
310.000 thương bệnh binh và hơn 350.000 lượt người từ tiền tuyến ra hậu phương
chữa bệnh, học tập..., miền Bắc thực sự là chỗ dựa vững chắc về tinh thần cho
những người ra trận, cho đồng bào, cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu ở
miền Nam, đặc biệt trong những lúc cách mạng miền Nam bị tổn thất, gặp nhiều
thử thách, khó khăn...
Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, lực lượng công binh, bộ đội Đoàn 559,
6


ngành vận tải miền Bắc cùng hàng vạn dân công hỏa tuyến dồn sức sửa chữa, mở
rộng đường Trường Sơn, đặt thêm đường ống dẫn dầu. Trong hai năm này, 397.000
tấn vật chất từ miền Bắc được chuyển tới mặt trận, bằng 54% tổng khối lượng vật
chất giao cho các chiến trường trong suốt 16 năm trước đó.
Được hậu phương miền Bắc chi viện mạnh mẽ, toàn diện, thế và lực cách mạng
miền Nam biến chuyển nhanh chóng, áp đảo quân địch. Trước tình hình đó, tháng
1/1975, Bộ Chính trị hạ quyết tâm động viên cao độ sức mạnh của cả nước mở
cuộc Tổng tiến công chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, cả miền Bắc hướng ra tiền
tuyến, dốc sức chi viện cho miền Nam. Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội đồng
chi viện miền Nam ở Trung ương do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch.
Trên mọi nẻo đường ra mặt trận, những đoàn xe vận tải nối đuôi đi suốt ngày đêm,
chuyển nhanh các binh đoàn chủ lực, các đoàn cán bộ dân, chính, Đảng và hàng
vạn tấn vật chất vào Nam, tạo ra thế và lực áp đảo trước khi chiến dịch lịch sử Hồ
Chí Minh bắt đầu.
Quân ta với lực lượng các xe pháo hùng hậu, ngày đêm hối hả nối đuôi nhau
trên các ngả đường thần tốc, táo bạo, bí mật và bất ngờ, nên đã quét sạch quân thù

như thế chẻ tre, để tất cả cùng nhau “Tiến về Sài Gòn ta quét sạch giặc thù... Tiến
về Sài Gòn giải phóng miền Nam...” làm nên cuộc toàn thắng lịch sử - giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc vào mùa Xuân 1975 và hát vang khúc ca
khải hoàn “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”.
Đường Trường Sơn - Hồ Chí Minh là một sự sáng tạo độc đáo về chiến lược
của Đảng ta trong thời kì chống Mỹ cứu nước ta, là con đường huyền thoại thống
nhất Bắc - Nam, là con đường liên minh, đoàn kết và chiến đấu thắng lợi của 3
nước anh em: Việt Nam - Lào - Campuchia, là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh.
2.2. Đường biển
2.2.1. Quá trình hình thành và hoàn thiện
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sau những năm đầu hết
sức khó khăn, đến năm 1959, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết 15 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền
Nam có bước phát triển nhảy vọt. Phong trào nổi dậy của quần chúng kết hợp với
đấu tranh vũ trang ngày càng lan rộng.
Trước tình hình đó, yêu cầu về cán bộ và vũ khí ngày càng lớn. Đường vận
tải chiến lược Trường Sơn lúc này chỉ mới vươn tới được các tỉnh phía Bắc Khu 5,
7


còn các tỉnh thuộc miền Đông Nam và đồng bằng sông Cửu Long không đủ sức
đáp ứng yêu cầu, nhất là đối với các tỉnh Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ. Vì vậy, Bộ
Chính trị Việt Nam và Quân ủy Trung ương quyết định nghiên cứu mở tuyến
đường vận tải trên biển chi viện trực tiếp cho Quân Giải Phóng miền Nam.
Tháng 7-1959, tiểu đoàn vận tải biển 603 được thành lập, đóng tại cửa
biển sông Gianh- Quảng Bình với tên gọi là "Tập đoàn đánh cá Sông Gianh".
Thuyền được nguỵ trang giống thuyền đánh cá của ngư dân miền Nam. Sau một
thời gian tập luyện, thăm dò và chuẩn bị mọi mặt, đêm ba mươi Tết Canh Tý
(ngày 27 tháng 1 năm 1960), chuyến tàu đặc biệt đầu tiên xuất phát, gồm 6 người,

do Nguyễn Bất chỉ huy đã đi chuyến đầu tiên vào Nam.
Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương Việt Nam
quyết định mở tuyến đường biển Bắc-Nam. Trung tướng Trần Văn Trà, Phó Tổng
tham mưu trưởng được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ thành lập tuyến đường
này. Ngày 23-10-1961, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hoàng Văn Thái ký Quyết
định số 97/QP thành lập Đoàn 759, sau này trở thành Lữ đoàn 125 thuộc Hải quân
nhân dân Việt Nam. Đoàn 759 có trách nhiệm chi viện vũ khí cho miền Nam bằng
đường biển. Trung tá Đoàn Hồng Phước được giao nhiệm vụ làm Đoàn trưởng.
Đây là đơn vị đầu tiên đảm nhận nhiệm vụ vận tải vũ khí, hàng hóa vào chiến
trường miền Nam bằng các con tàu không số, mở ra sự phát triển mới của Đường
Hồ Chí Minh trên biển. Đoàn 759 nhanh chóng xây dựng lực lượng, chuẩn bị
phương tiện, tổ chức trinh sát nhằm nắm chắc quy luật tuần tra, hoạt động ngăn
chặn trên biển của địch; hiệp đồng với các tỉnh ven biển Nam Bộ và Nam Trung
Bộ, xây dựng các bến bãi sẵn sàng tiếp nhận vũ khí.
Ngày 11-10-1962, một tàu vỏ gỗ mang mật danh “Phương Đông 1”, do đồng
chí Lê Văn Một và đồng chí Bông Văn Dĩa chỉ huy, chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ
Sơn (Hải Phòng) rẽ sóng ra khơi nhằm hướng Cà Mau tiến tới. Đến ngày 19-101962, tàu cập bến Vàm Lũng an toàn. Nhân dân đón nhận chuyến tàu chi viện vũ
khí đầu tiên cho cách mạng miền Nam với lòng phấn khởi vô hạn. Họ nhanh chóng
khuân vác vũ khí cất giấu vào những kho bí mật an toàn. Tiếp theo là tàu Phương
Đông 2,3,4 cũng lần lượt lên đường vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ.
Trong vòng hai tháng, các tàu này đã chuyển vào Nam 111 tấn vũ khí, cập các bến
đã chuẩn bị của tỉnh Cà Mau. Vượt qua những thử thách ác liệt, gian nan, đấu trí và
đấu lực căng thẳng với địch và sóng gió biển khơi, các chiến sĩ Hải quân đã hoàn
thành nhiệm vụ xuất sắc thời kỳ đầu tiếp tế vũ khí cho cách mạng miền Nam, góp
8


phần rất quan trọng tăng cường nhanh chóng sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ
trang giải phóng...
Tại Nam Bộ, Bộ Chỉ huy quân khu IX của Quân giải phóng miền Nam Việt

Nam được giao nhiệm vụ thành lập Trung đoàn 962 chuyên trách nhiệm vụ chuẩn
bị bến bãi tại bờ biển các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau. Bộ chỉ huy các Khu V,
VI, VIII cũng được lệnh thiết lập các bến bãi bí mật để đón nhận vũ khí, đạn dược,
phương tiện và các hàng hóa khác từ miền Bắc Việt Nam chuyển vào bằng đường
biển. Công việc vận chuyển vũ khí vào chiến trường Nam Bộ tạm ổn, tuy số lượng
chưa nhiều, nhưng đã góp phần quan trọng giúp quân và dân các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long phát triển lực lượng vũ trang, tạo được thế mới, lực mới, đánh
thắng địch nhiều trận, củng cố và mở rộng vùng giải phóng.
Đồng thời với việc vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ, Quân ủy Trung ương và
Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân nghiên cứu mở đường
vận chuyển vũ khí bằng đường biển vào Nam Trung Bộ - một chiến trường có vị trí
chiến lược hết sức quan trọng. Vận chuyển bằng đường biển vào Nam Trung Bộ
tuy cung đường ngắn hơn nhưng lại hết sức khó khăn, nguy hiểm. Khó khăn lớn
nhất là tìm địa điểm tổ chức bến bãi. Địa hình vùng ven biển Nam Trung Bộ trống
trải, độ dốc lớn, không có nhiều kênh rạch và rừng ngập mặn như ở Nam Bộ. Các
cửa sông mà tàu của ta có thể vào để giao hàng dày đặc đồn bốt và căn cứ hải quân
của địch. Đây lại là vùng nằm dọc theo Quốc lộ 1 nên địch tổ chức tuần phòng rất
gắt gao.
Cũng giống như ở Nam Bộ, việc tổ chức xây dựng các bến bãi ở Nam Trung
Bộ đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ hết lòng của cấp ủy Đảng và nhân dân các địa
phương. Tính đến năm 1965, hàng chục bến bãi tiếp nhận vũ khí đã được bí mật
xây dựng ở một số tỉnh ven biển như: Vàm Lũng, Bồ Đề, Bến Cũ, Kiến Vàng, Cái
Bầu (Cà Mau, Bạc Liêu); Hố Lồng Đèn (Rạch Giá), Ba Động, Khâu Lầu, La Ghi,
Láng Nước, Rạch Cờ, Hố Tàu (Trà Vinh)... Chính hệ thống bến bãi kể trên đã góp
phần làm nên những chiến công của tuyến chi viện chiến lược. Trong suốt quá
trình tồn tại, đường Hồ Chí Minh trên biển có hai nghìn lần tàu thuyền vượt biển,
vận chuyển gần 160 nghìn tấn vũ khí, cập 19 bến bãi thuộc địa bàn 9 tỉnh miền
Nam, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng của Việt Nam Dân chủ cộng
hòa.
2.2.2. Hoạt động

Tính từ tháng 10-1962 đến tháng 2-1965, ta đã sử dụng 3 tàu vỏ gỗ, 17 tàu vỏ
sắt tổ chức đưa 88 chuyến tàu tới đích (không tính các chuyến trinh sát, mở đường)
9


vận chuyển được 4.919,636 tấn vũ khí và một số mặt hàng thiết yếu vào chiến
trường (Cà Mau, Bạc Liêu 45 chuyến, Bến Tre 23 chuyến, Trà Vinh 12 chuyến, Bà
Rịa 3 chuyến, Vũng Rô 4 chuyến, Bình Định 1 chuyến)
Qua con đường vận tải biển, hậu phương lớn miền Bắc đã tiếp tế kịp thời vũ
khí, đạn dược cho chiến trường miền Nam. Được trang bị vũ khí, kỹ thuật quân sự
tương đối đầy đủ, đồng bộ, năm 1964, Quân giải phóng mở chiến dịch tiến công
Bình Giã; năm 1965, mở chiến dịch Đồng Xoài và Ba Gia đánh bại hoàn toàn
“chiến lược chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Sau các chiến thắng có ý nghĩa
chiến lược này, năm 1965, khối chủ lực cơ động Quân giải phóng phát triển thành
5 sư đoàn và 11 trung đoàn bộ binh, cùng nhiều trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng
kỹ thuật, sẵn sàng bước vào cuộc đọ sức với quân Mỹ. Sự kiện này đánh dấu bước
trưởng thành vượt bậc của lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam nhờ vào sự chi
viện tích cực của hậu phương miền Bắc qua 2 con đường chiến lược huyền thoại:
Đường bộ Trường Sơn và Đường vận tải biển.
Từ tháng 2-1965 đến tháng 1-1973 là giai đoạn khó khăn nhất nhưng hết sức
hào hùng của tuyến chi viện chiến lược trên biển. Sau sự kiện xảy ra với tàu C143
ở Vũng Rô (Phú Yên), bí mật của tuyến chi viện chiến lược trên biển của ta không
còn nữa. Công việc tiếp tế cho miền Nam bằng đường biển vẫn phải tiếp tục,
nhưng ta chuyển hướng vận chuyển từ phương thức trực tiếp sang phương thức
gián tiếp. Bằng phương pháp vận chuyển này, trong một năm (từ 1-11-1968 đến
31-10-1969), lực lượng vận tải biển đã đưa vào cảng sông Gianh 21.737 tấn vũ khí.
Ngoài ra, trong giai đoạn này, cán bộ chiến sĩ Đoàn 125 còn tham gia chiến
dịch vận tải VT5 - Vận tải tranh thủ tụt thang (từ tháng 11-1968 đến năm 1969),
cùng các lực lượng trong và ngoài quân đội vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí,
lương thực, xăng dầu… từ Hải Phòng vào các tỉnh Nam Khu 4, tạo chân hàng cho

tuyến chi viện chiến lược trên bộ (Đoàn 559).
Trên con đường vận chuyển này, nhiều trận chiến đấu ác liệt đã diễn ra,
nhưng cán bộ, chiến sĩ Hải quân làm nhiệm vụ vận tải biển không sờn lòng, nản
chí, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiếp tế cho miền Nam, góp phần tăng cường
sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang giải phóng đánh bại “chiến lược Việt
Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.
Từ 1973 đến 1975, tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển đã dốc toàn bộ
lực lượng và phương tiện, sử dụng hàng ngàn lượt chuyến tàu chuyển vũ khí và vật
chất các loại vào các chiến trường. Đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân năm 1975, đã sử dụng 140 lượt chuyến tàu, vận chuyển 6.282 tấn vũ khí
10


và vật chất khác, cùng hàng ngàn lượt cán bộ chiến sĩ vào tăng cường cho chiến
trường Nam Bộ và Khu 5, cơ động bộ đội đặc công chiến đấu giải phóng các đảo
thuộc quần đảo Trường Sa, Cù Lao Thu, các đảo phía Nam và Tây Nam của Tổ
quốc.
Theo số liệu đã được Quân chủng Hải quân công bố, tính chung trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh
trên biển đã trực tiếp và gián tiếp vận chuyển hơn 96.000 tấn vũ khí đạn dược và
các vật chất khác cùng hơn 170.000 lượt cán bộ chiến sĩ chi viện chiến trường
miền Nam. Con số đó so với Đường Hồ Chí Minh trên bộ tuy ít hơn nhưng lại có ý
nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt.
Vận chuyển đường bộ phải qua nhiều cung, chặng, qua nhiều lực lượng
phương tiện... phải mất hàng tháng trời mới đến đích. Vận chuyển bằng đường biển
tuy gian nan, nguy hiểm vì phải độc lập đối phó với địch và sóng gió, nhưng nếu
vượt qua sự ngăn chặn của địch thì chỉ khoảng 5-6 ngày đã vào tới chiến trường
Tây Nam Bộ.
Trong giai đoạn từ tháng 10-1962 đến tháng 2-1965, với 88 chuyến tàu, mỗi
tàu có từ 10-20 cán bộ chiến sĩ, tỷ lệ đến đích đạt 93% (trong khi tỷ lệ cấp trên cho

phép là 50%), tuyến chi viện chiến lược trên biển đưa tới các chiến trường được
4.919,636 tấn vũ khí và các mặt hàng thiết yếu. Với khối lượng đó, nếu dùng người
gùi thồ, mỗi người trung bình gùi 25kg thì phải huy động tới 196.785 người đi lien
tục trong 6 tháng (trong điều kiện đường sá bị địch đánh phá ngăn chặn).
Tuyến chi viện chiến lược trên bộ được thành lập từ năm 1959 và ngay lập
tức được tiến hành soi đường, gùi vũ khí vào chiến trường. Nhưng những năm đầu
do bị địch ngăn chặn quyết liệt, do địa hình phía Đông Trường Sơn quá phức tạp và
hiểm trở nên hoạt động hết sức khó khăn. Chỉ sau khi mở đường sang phía Tây
Trường Sơn (năm 1961), lấy vận tải cơ giới là chính (từ mùa khô 1964-1965) qua 7
tỉnh, 17 huyện của nước Lào anh em rồi vòng về Nam Tây Nguyên, thì đường
Trường Sơn mới thực sự trở thành tuyến vận tải cơ giới, tuyến chi viện chiến lược,
thực sự trở thành “động mạch chủ” của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân hai nước Việt - Lào.
Còn Đường Hồ Chí Minh trên biển, ngay sau khi chính thức được khai thông
(tàu Phương Đông 1, tháng 10-1962) đã ngay lập tức phát huy hiệu quả, trở thành
tuyến chi viện chiến lược, tuyến chi viện chủ yếu cho chiến trường Nam Bộ và
Nam Trung Bộ. Đây cũng là tuyến chủ yếu vận chuyển, cơ động lực lượng giải
phóng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
11


2.3. Con đường xăng dầu.
2.3.1. Quá trình hình thành và hoàn thiện
Chiến trường ngày càng phát triển thì việc vận chuyển hàng hóa, vũ khí,
trong đó có xăng dầu chi viện bằng phương tiện thô sơ ngày càng trở nên bất cập.
Tình hình bức bách dẫn đến ý tưởng phải tìm một con đường khác để vận chuyển
xăng dầu liên tục, thường
xuyên và an toàn, hiệu quả
hơn. Ngày 12-4-1968, Tổng
cục Hậu cần thành lập một

đơn vị đặc biệt mang tên
“Công trường thủy lợi 01”
với 34 cán bộ, chiến sĩ được
huấn luyện cấp tốc về kỹ
thuật lắp đặt đường ống.
Đến ngày 29-4, đơn vị này
được điều vào Nghệ An với
mật danh “Công trường 18”,
có nhiệm vụ xây dựng hệ
thống ống dẫn xăng dầu đầu
tiên tại tuyến lửa Khu
4. Đường ống dẫn xăng dầu
ban đầu dài gần 1.400km,
được xây dựng tháng 6/1968
từ Khe Hó đến Lộc Ninh,
gồm 46 kho với sức chứa
17.050 tấn, 113 trạm bơm
đẩy và cấp phát. Bộ đội công
binh thi công đường ống
xăng dầu.

Sau này con đường này
được xây dựng thêm lên tới
5.000 km, để vận chuyển nhiên
12


liệu suốt từ biên giới Việt Trung và các cảng biển miền
Bắc vào đến tận Nam Bộ. Con
đường này người Mỹ dường

như cũng biết rằng có và cũng
đã đánh phá được một số điểm.
Nhưng nó có bằng cách nào và
nó đã đóng vai trò ra sao trong
việc cung cấp nhiên liệu cho
các đoàn xe vận tải vũ khí,
cung cấp nhiên liệu cho xe tăng
trong các trận đánh lớn ở miền
Nam, thì hình như trong những
tài liệu đã giải mật gần đây nhất
cũng không có thông tin cụ thể.
Hệ thống đường ống xăng dầu.
Bắt đầu từ hai ngả thuộc biên giới Việt - Trung là Lạng Sơn và Quảng Ninh,
hai tuyến đường ống cùng dẫn về trạm Nhân Vực, Thường Tín, Hà Nội. Từ đây, có
một đường ống chạy thẳng vào miền Trung qua Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh. Đến đây lại chia làm hai ngả: Một vượt đèo Mụ Giạ, sang Lào
vươn tới Hạ Lào, rồi vượt qua biên giới Lào và Campuchia để vào tới Nam Bộ.
Ngả còn lại theo đường Đông Trường Sơn đi tiếp qua Quảng Trị, Thừa Thiên,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, qua Tây Nguyên, Vượt Kon Tum, xuống Bình Phước.
Hai hệ thống Đông và Tây Trường Sơn hội tụ tại trạm cuối cùng ở Bù Gia
Mập, thuộc tỉnh Phước Long, Đông Nam Bộ.
Từ đây xăng dầu được cấp trực tiếp cho các xe vận tải chở tiếp trên những
tuyến ngắn từ miền Đông đến miền Tây. Xăng dầu được chuyển từ Bắc vào Nam
đã cung cấp cho hoạt động trên các chiến trưởng trong những năm đánh Mỹ, góp
phần quan trọng vào những trận chiến thắng lớn.
2.3.2. Hoạt động
Trên toàn bộ hệ thống chi viện xăng dầu dài 5.000km, đã có tới 316 trạm
bơm đẩy, 101 kho với sức chứa trên 300 nghìn m3. Bộ đội xăng dầu đã phát triển
thành 9 trung đoàn đường ống, 2 trung đoàn công trình, 1 trung đoàn thông tin, 2
13



nhà máy cơ khí, 3 tiểu đoàn xe vận tải. Trong vòng 7 năm, tuyến ống này đã vận
chuyển 5,5 triệu tấn xăng dầu cho các chiến trường.
Mạng lưới đường ống dẫn dầu dài hơn 5.000 km nêu trên là tính từ biên giới
phía Bắc nước ta, bắt đầu từ hai điểm đầu mối tiếp nhận thuộc tỉnh Quảng Ninh và
tỉnh Lạng Sơn; còn điểm khởi đầu là từ cảng Phòng Thành, Trung Quốc. Những
con tàu lớn chở xăng, dầu từ Liên Xô cập cảng Phòng Thành và nguồn nhiên liệu
từ đó sẽ theo hệ thống đường ống như những mạch máu chảy vào phía Nam, cung
ứng một nguồn vật chất hết sức thiết yếu cho những chiến dịch, cho từng trận
đánh. Trong thời chiến, hệ thống đường ống này vừa tăng nhanh khối lượng xăng,
dầu vận chuyển ra tiền tuyến, vừa giảm được rất nhiều hy sinh, tổn thất cho những
chiến sĩ lái xe và xe tải chở nhiên liệu.
Hệ thống đường ống tuỳ theo địa hình có đoạn nổi, đoạn chìm, có đoạn vắt
qua suối, luồn dưới dòng sông... nhưng phần lớn nằm trên địa bàn rừng núi hoang
vắng hoặc dân cư thưa thớt, khí hậu khắc nghiệt. Với hệ thống đường ống đó, theo
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn "Đã thực sự thỏa
mãn kịp thời cho vận tải, đảm bảo yêu cầu cơ động cao của các quân và binh chủng
với mọi quy mô, mọi thời gian, mọi địa điểm, phục vụ đắc lực cho các chiến dịch'.
Đại tá Phan Tử Quang, nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu (Tổng cục Hậu cần
- Bộ Quốc phòng) kể rằng, trong một lần tôi được làm việc với Chu Ân Lai, Thủ
tướng nước CHND Trung Hoa nói: "Tôi không ngờ là Việt Nam lại làm được
đường ống xăng dầu dài đến 5.000 km" và ông đã cử một phái đoàn gần 20 kỹ sư
và tiến sĩ về đường ống xăng dầu đi tham quan từ Hà Nội theo đường ống đến Mụ
Giạ (Quảng Bình).
2.4. Đường hàng không
2.4.1. Quá trình hình thành và hoàn thiện
Bí mật trong công khai – con đường hàng không quân sự và dân sự là con
đường thứ tư chi viện cho miền Nam, đi từ Phnom Penh, bay qua lãnh thổ miền
Nam Việt Nam, thậm chí bay qua chính Sài Gòn, tới Hồng Kông hoặc Quảng

Châu, rồi về Hà Nội. Đây là một trong những con đường được đánh giá vừa tương
đối an toàn, hiệu quả cao, vừa có tốc độ nhanh. Cuối tháng 2 năm 1960, Đại tướng
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp vào Quảng Bình - Vĩnh Linh xem xét địa thế, tình
hình và gợi ý mở tuyến đường hàng không nhằm rút ngắn đường vận tải từ Bắc vào
Nam. Nhiệm vụ này do Đoàn 919 đảm đương. Hàng hóa được máy bay quân sự
thả dù xuống Làng Ho, về sau, mở được sân bay ở Tà Khống - tỉnh Xêpôn Hạ Lào,
hàng hóa, cán bộ, bộ đội được Đoàn 559, Đoàn 17 chuyển vào các chiến trường
14


miền Trung, Nam Trung bộ và Nam Bộ… Từ năm 1960 đến tháng 4 năm 1975,
Đoàn 919 đã chuyển xuống Đông Bắc Campuchia hơn 30.000 tấn vũ khí - hàng
hóa quân sự, thuốc men, lương thực - thực phẩm… và 60.000 lượt bộ đội, cán bộ.
Con đường hàng không dân sự hoàn toàn công khai nhưng lại tuyệt đối bí mật,
rất an toàn. Ta sử dụng hãng hàng không Cambodia và France. Máy bay dân dụng
từ Hà Nội đi Phnom Pênh và ngược lại hoặc từ Phnom Pênh đi Quảng Châu, Hồng
Kông và ngược lại. Tuyến đường này chuyên chở các cán bộ cao cấp, thương binh
nặng, phụ nữ, trẻ em và hàng hóa đặc biệt. Giấy tờ của hành khách, hàng hóa đi lại
đều giả nhưng rất tinh vi. Nhân viên hành nghề ở các sân bay quá cảnh là người
Hoa, Khơ Me, Lào, Ấn kiều, Pháp… có cảm tình với cách mạng Việt Nam và là
những người giỏi, có tín nhiệm của các hãng hàng không Cambodia và France.
Nhưng vào thời điểm đó, phía Mỹ và Chính quyền Sài Gòn hình như cũng hoàn
toàn chưa biết gì.
2.4.2. Hoạt động
Con đường chi viện quá cảnh cho miền Nam còn một phương tiện đặc biệt
nữa là hàng không quân sự và dân sự. Con đường này vừa tương đối an toàn, hiệu
quả cao, tốc độ nhanh. Cuối tháng 2 năm 1960, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ
Nguyên Giáp vào Quảng Bình - Vĩnh Linh xem xét địa thế, tình hình và gợi ý mở
tuyến đường hàng không nhằm rút ngắn đường vận tải từ Bắc vào Nam. Nhiệm vụ
này do Đoàn 919 đảm đương. Hàng hóa được máy bay quân sự thả dù xuống Làng

Ho, về sau, mở được sân bay ở Tà Khống - tỉnh Xêpôn Hạ Lào, hàng hóa, cán bộ,
bộ đội được Đoàn 559, Đoàn 17 chuyển vào các chiến trường miền Trung, Nam
Trung bộ và Nam Bộ… Từ năm 1960 đến tháng 4 năm 1975, Đoàn 919 đã chuyển
xuống Đông Bắc Campuchia hơn 30.000 tấn vũ khí - hàng hóa quân sự, thuốc men,
lương thực - thực phẩm… và 60.000 lượt bộ đội, cán bộ. Con đường hàng không
dân sự hoàn toàn công khai nhưng lại tuyệt đối bí mật, rất an toàn. Ta sử dụng hãng
hàng không Cambodia và France. Máy bay dân dụng từ Hà Nội đi Phnom Pênh và
ngược lại hoặc từ Phnom Pênh đi Quảng Châu, Hồng Kông và ngược lại. Tuyến
đường này chuyên chở các cán bộ cao cấp, thương binh nặng, phụ nữ, trẻ em và
hàng hóa đặc biệt. Giấy tờ của hành khách, hàng hóa đi lại đều giả nhưng rất tinh
vi. Nhân viên hành nghề ở các sân bay quá cảnh là người Hoa, Khơ Me, Lào, Ấn
kiều, Pháp… có cảm tình với cách mạng Việt Nam và là những người giỏi, có tín
nhiệm của các hãng hàng không Cambodia và France.
Trong 3 năm từ 1960 đến 1962, trên chiến trường Lào, các máy bay của
Trung đoàn 919 phối hợp với các phi công Liên Xô đã thực hiện 3.821 chuyến bay,
15


vận chuyển 9.419 lượt bộ đội và 743 tấn hàng hóa, thả 3.227 dù hàng và kiện hang
xuống 20 địa điểm khác nhau trên đất Lào. Tuy nhiên tuyến vận tải máy bay quá
cảnh sang Lào chỉ tồn tại đến trước thời điểm Chính phủ Liên hiệp 3 phái ở Lào bị
xóa bỏ (1963). Những năm sau đó, do phái cực hữu gây sức ép nên việc đưa máy
bay sang đất Lào phải đình chỉ. Còn phần trong nước, thì từ năm 1965 không quân
Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc nên không thể sử dụng máy bay chở hàng vào
Quảng Bình hoặc vượt lên Tây Trường Sơn được nữa.
Chỉ từ đầu năm 1973, sau khi ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam, nhiều
vùng giải phóng hợp pháp đã hình thành ở miền Nam, thì hình thức vận chuyển
hàng không quân sự mới lại được sử dụng rộng rãi. Tính từ 1960 cho đến kết thúc
chiến tranh tháng 04/1975, Đoàn 919 đã vận chuyển vào miền Nam và xuống Nam
Lào 60.000 lượt bộ đội, 31.000 tấn vũ khí đạn dược, khí tài, lương thực, thuốc men

và các hàng hóa quân sự, ...
2.5. Đường chuyển ngân
2.5.1. Quá trình hình thành và hoàn thiện
Con đường bí hiểm chuyển ngân là con đường vô hình, không có đường, không
có lối trên đất liền, trên biển, trên không, trên những đường ống... Nó đi theo hệ
thống ngân hàng của chính các nước phương Tây và hệ thống ngân hàng ở ngay
Sài Gòn để chuyển tiền một cách hợp pháp từ Bắc vào Nam, từ các nguồn tài trợ
của các nước vào Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn rút ra tiền bản địa để chi tiêu cho những
lực lượng Giải phóng.
Chẳng cần phương tiện gì, không cần ô tô, không cần máy bay, không cần tàu
thủy, không cần gùi thồ, chỉ những mật mã, những cú điện... là tiền từ Paris, Lon
don, Hong Kong, Bangkok, Moskva, Bắc Kinh... được chuyển qua Sài Gòn rồi lên
các căn cứ địa ở khắp miền Nam, được thanh toán cho những địa chỉ cần thiết ở bất
kỳ nơi nào trên thế giới ... Con đường đó suốt hai mươi năm chiến tranh chỉ "ai làm
thì biết", Chính quyền Sài Gòn không biết, Mỹ cũng không biết nên không một ai
bị bắt, không một vụ chuyển ngân nào bị phát hiện...
Trong thời điểm ấy, mọi người chỉ biết phạm vi phụ trách của mình, Người phụ
trách đường bộ không biết được bao nhiêu về hệ thống đường biển. Người phụ
trách đường biển không biết bao nhiêu về hệ thống đường hàng không. Điều này
không chỉ riêng người Mỹ, không riêng những người nước ngoài, ngay cả những
người Việt Nam, thậm chí cả những chiến sĩ, những cán bộ và cả những người lãnh
đạo cấp cao trong hệ thống các con đường Hồ Chí Minh kể trên cũng không biết
hết được những gì ngoài phạm vi mình phụ trách. Đây vẫn luôn là con đường bí
16


hiểm nhất, và cũng mơ hồ nhất trong trí nhớ của mọi người trong khoảng thời gian
đó.
2.5.2. Hoạt động
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta, bên cạnh

bốn con đường chi viện từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam là: đường bộ
theo dãy Trường Sơn (đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh), đường thủy trên
biển Đông (đường Hồ Chí Minh trên biển), đường ống nhiên liệu xăng dầu, đường
hàng không, còn có con đường thứ năm tham gia chi viện cho tiền tuyến lớn miền
Nam. Đó là con đường tài chính, chuyển ngân. Con đường tài chính, chuyển ngân
này là hình thức rất đặc biệt: nó là con đường vô hình, chỉ "ai làm thì người ấy
biết", kể cả cán bộ lãnh đạo cấp cao. Tình báo Mỹ không biết, chính quyền ngụy
Sài Gòn không biết, trong 20 năm không có một cuộc đánh phá nào và không một
ai bị bắt.
Ngay sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam đã bắt đầu lo chuyện tiền bạc cho miền Nam, trong đó chủ yếu là loại
tiền do chính quyền Sài Gòn phát hành. Sở Quản lý ngoại hối (sau là Cục Ngoại
hối) được giao đảm nhiệm công tác này. Biện pháp đầu tiên mà Sở Quản lý ngoại
hối tiến hành là dùng ngân sách nhà nước để mua tiền Sài Gòn tại thị trường nước
ngoài, chủ yếu là tại Hồng Kông. Sở còn chỉ đạo cho các đơn vị đào số tiền được
chôn giấu từ trước khi các lực lượng lên đường ra Bắc tập kết, đem đổi sang tiền
Sài Gòn. Thời kỳ đầu, số tiền hàng năm lo cho miền Nam khoảng 1 triệu đô la.
Cùng với sự phát triển của cuộc kháng chiến, nhu cầu tiền trở nên cấp thiết và ngày
càng tăng, ta đã dùng nhiều cách thức để đưa tiền vào chiến trường. Sau đó khối
lượng, hình thức cũng tăng dần và hoạt động với nhiều phương thức khác nhau.
Lập Quỹ ngoại tệ đặc biệt: Năm 1965, khi đế quốc Mỹ tiến hành "Chiến
tranh cục bộ", Bộ Chính trị Trung ương Đảng cho lập tại miền Bắc "Quỹ ngoại tệ
đặc biệt", lấy từ các nguồn quốc tế viện trợ để chi viện trực tiếp cho miền Nam.
Với các nước anh em lúc bấy giờ, ngoài đề nghị viện trợ bằng vật chất như vũ khí,
đạn dược, lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng, ta còn đề nghị viện trợ
bằng ngoại tệ (chủ yếu là đồng đô la Mỹ) để chi viện cho những vùng, miền mà ta
chưa thể đưa hàng tới nơi được. Nhu cầu của các chiến trường lúc bấy giờ là tiền
Ngân hàng Sài Gòn và một số loại tiền của các nước lân cận như đồng Bạt (Thái
Lan), Riêl (Cam pu chia), Kíp (Lào)...
Vì vậy, ta phải tổ chức đổi đô la ra các loại tiền nói trên. Địa bàn quan trọng

đầu tiên để thực hiện nghiệp vụ này là Hồng Kông với thể chế chính trị đặc biệt và
17


một nền kinh tế mở, có nhiều mối quan hệ quốc tế, lại rất gần nước ta về mặt địa
lý, là một thuận lợi rất lớn. Ngoài Hồng Kông, nguồn viện trợ ngoại tệ từ các cá
nhân và các nước Tây Âu thì "chuyển" ra đô la Mỹ, rồi qua đường "giao thông
ngoại giao" chuyển từ Pa-ri qua Mát-xcơ-va về Hà Nội. Từ Hồng Kông và Hà Nội,
ta chuyển tiền vào miền Nam qua hai hình thức chuyển khoản và chuyển bằng tiền
mặt.
Trong lớp lớp những đoàn xe chở hàng ra mặt trận, có những chuyến xe đặc
biệt chở những hòm sắt hàn kín được giao nhận theo những quy định nghiêm ngặt,
có mật danh là "hàng Z". Đó chính là những hòm ngoại tệ chi viện cho miền Nam.
Phương thức Đổi tiền bằng tỷ giá "khuyến mại": Chính quyền Sài Gòn ở miền
Nam cũng như nhiều nước khác thường quy định giá trị bản tệ cao hơn giá trị thực
tế so với đồng đô la. Vào đầu những năm 1960, cứ 1 đô la thì đổi được 140 đồng
Sài Gòn, trong khi tại thị trường chợ đen thì được tới 190 đồng. Người nước ngoài
vào miền Nam phải đổi ngoại tệ với tỷ giá 1/140, nhưng không dễ gì ra thị trường
chợ đen để đổi theo tỷ giá 1/190 được, bởi hoạt động này bị cấm.
Lợi dụng tình hình này, ta đã đề ra một tỷ giá "khuyến mại" là 1/160 để thu
hút lượng tiền. Một cơ sở bí mật của ta được cài ngay trong Ngân hàng Sài Gòn
mang mật danh là N2683, đã lấy tiền ngay tại ngân hàng này do những chủ doanh
nghiệp lớn cung cấp. Theo thỏa thuận với với N2683, họ lấy tiền mặt ở ngân hàng
để "sản xuất kinh doanh", nhưng thực tế là để cung cấp cho cách mạng. Ta có tiền
Ngân hàng Sài Gòn nhận ngay tại Sài Gòn, trong khi họ lại được đổi đô la theo tỷ
giá "khuyến mại".
Phương pháp này có thuận lợi lớn là có thể chuyển nhanh một số tiền lớn chỉ
trong một ngày thay cho hàng, lại vừa rất an toàn, kín đáo, không bị thiệt hại do tỷ
giá mà còn sinh lợi nhờ hưởng lãi suất của ngân hàng. Riêng khoản lãi suất này
tính trong 10 năm lên tới gần 25 triệu đô la.

Phương thức Tiền trong va li, tiền đi đường thủy: Tại Hồng Kông, ngoài
nghiệp vụ đổi tiền qua chuyển khoản theo kiểu đáo hối nói trên, chúng ta còn thực
hiện đổi trực tiếp đô la lấy tiền Sài Gòn. Số tiền thu được ở Hồng Kông ta chuyển
về cơ sở ở Quảng Châu, rồi về Hà Nội. Từ Hà Nội tiền được Đại đội 100 của Đoàn
559 chuyển vào các chiến trường theo sự phân phối của Bộ Quốc phòng.Đại đội
100 thành lập tháng 7/1970, với nhiệm vụ vận chuyển tiền cho chiến trường B2
(tiền cho T4, Khu 5, B3 do đơn vị khác đảm nhiệm). Đoàn xe com-măng-ca của C100 xuất phát từ đèo Mụ Giạ trên đất Quảng Bình mang theo những chiếc va li
18


bằng sắt dài khoảng 70cm, ngang chừng 30cm, cao 20cm, chạy tới ngã ba Lằng
Khằng (một địa điểm trên vùng giải phóng Lào).
Từ đây, theo Hiệp định đã được ký kết, Quân giải phóng Lào cho xe con chở
tiền chạy trên đất Lào vượt qua Xiêng Phạn, Mường Phìn, La Hay rồi dừng lại tại
Bạc giao cho Đoàn 470 - Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Từ Bạc, những hòm tiền xuôi theo
đường thủy trên ca nô hoặc thuyền để đổ bộ lên ngã ba Phi Hà (còn được gọi là
ngã ba Đông Dương). Tùy theo từng thời điểm, căn cứ vào tình hình địch, nhu cầu
của chiến trường, phương tiện vận chuyển...
Bộ Tư lệnh Đoàn 470 quyết định chuyển những kiện đô la ngược sang đất
Cam pu chia để bàn giao cho cơ sở của ta tại tỉnh Stung-treng hoặc dùng xe con
chạy thẳng tới Bù Gia Mập - nơi đặt trạm giao liên trên đường tiến vào Sài Gòn.
Riêng trong năm 1970, C-100 đã vận chuyển được 1.875 hòm tiền an toàn. Tiền tệ
chi viện cho chiến trường miền Nam ngoài đô la Mỹ, tiền Ngân hàng Sài Gòn còn
có một khối lượng lớn tiền bạc Đông Dương là bạc hoa xòe. Thời kỳ giao nhận bạc
hoa xòe kéo dài từ năm 1961-1964, tháng nào cũng có nhiều chuyến, mỗi lần giao
nhận khoảng 10 hòm, mỗi hòm nặng gần 20kg. Số tiền này Quân khu 5 giao hết
cho Khu ủy để cấp phát thẳng cho các đơn vị.
Ngoài những con đường chi viện tiền tệ nói trên, chúng ta còn chuyển tiền
qua Phnôm Pênh, từ đó bí mật vận chuyển về Sài Gòn, hoặc cấp ngay cho Đoàn
hậu cần K20 để để thu mua hàng hóa tại 3 vùng biên giới. Ngoài ra, tiền còn được

theo những con tàu không số đến với các chiến trường cực Nam của Tổ quốc.
Việc đổi đô la ra tiền Ngân hàng Sài Gòn để chi tiêu là một hoạt động khó
khăn, gian khổ. Gánh vác phần lớn công việc này là những chiến sĩ tình báo. Hình
thức đổi cũng rất đa dạng, phong phú. Một trong những hình thức rất hiệu quả là
thông qua các tiệm buôn bán vàng. Các tiệm buôn vàng này đều có buôn đô la. Để
đề phòng bị lộ, cứ mỗi ngày cơ sở của ta đổi cho bốn tiệm vàng, mỗi tiệm 500 đô
la. Ngày hôm sau lại qua bốn tiệm vàng khác. Khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định
có hàng trăm tiệm vàng, nên bình quân khoảng 10 ngày sau mới quay lại tiệm vàng
cũ nên địch không phát hiện được, còn ta đổi được số lượng lớn tiền mặt.
Ở đây cũng cần nói thêm rằng, có ngoại tệ - nhất là ngoại tệ mạnh - có thể
mua được mọi thứ. Nhưng để mua và vận chuyển được những thứ đó đến dự trữ ở
các địa bàn chiến lược rồi cấp phát, sử dụng, đáp ứng yêu cầu chiến đấu là cả một
quá trình đấu tranh với địch một cách linh hoạt, khôn khéo và cũng đầy quyết liệt,
gian khổ. Trước hết, phải tìm mọi cách đưa ngoại tệ vào vùng địch để "chế biến" ra
19


loại tiền thích hợp - chủ yếu và phổ biến nhất là từ đô la Mỹ đổi lấy tiền của ngụy
quyền Sài Gòn và tiền Riêl của Cam pu chia.
Cơ quan tài vụ các mặt trận, quân khu và Ban Kinh tại các khu, tỉnh đều tổ
chức được các "đường dây đổi tiền bí mật, độc lập" gồm những cơ sở quần chúng
đáng tin cậy, móc nối được cả với nhân viên trong bộ máy hành chính, quân sự của
địch làm việc cho ta. Thực hiện nhiệm vụ này, các cán bộ tài vụ Quân giải phóng
ngày càng dày dạn kinh nghiệm: vừa nắm vững quy luật kinh tế, giá cả thị trường
để trao đổi có lợi không thiệt hại cho công quỹ, vừa tích cực tuyên truyền, vận
động quần chúng tự nguyện giúp đỡ cách mạng để giảm các chi phí về giao dịch,
môi giới, thuê mướn. Kế hoạch đổi tiền được quản lý chặt, bảo vệ tốt nên thực hiện
thường xuyên liên tục, an toàn, ít tổn thất.
Phương thức Tiền gùi trên vai: Tại Quân khu 5, việc tiếp nhận đô la, tiền
Ngân hàng Sài Gòn lúc đầu do Cục Hành lang thực hiện. Cục Hành lang là tổ chức

trực thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 5 (sau đó sáp nhập với Cục Hậu cần thành Cục
Hậu cần - Hành lang), có nhiệm vụ tiếp nhận hàng hóa chi viện của ta (trong đó có
đô la và bạc hoa xòe) từ miền Bắc qua Đoàn 70 (sau này là Đoàn 559) chuyển vào
và vận chuyển giao về cho Khu ủy Khu 5. Khu ủy Khu 5 tổ chức đưa vào Ngân
hàng Đà Nẵng đổi ra tiền Sài Gòn. Sau đó, thông báo sẽ cấp bao nhiêu tiền cho
quân khu tại cửa khẩu, cơ quan tài vụ phải đưa lực lượng xuống cửa khẩu, tận vùng
giáp ranh để nhận.
Đây là một công việc khó khăn, nguy hiểm nên lực lượng đi nhận tiền được
tuyển chọn rất kỹ lưỡng, phải là những người dũng cảm, thông thạo địa hình, địa
vật, đường sá. Có lần, đoàn nhận tiền với năm người gùi trên đường về bị địch
phục kích, đã chiến đấu rất dũng cảm chở tiền về đến nơi và giao nộp đầy đủ. Việc
nhận tiền từ Khu ủy kéo dài cho tới khi Khu ủy giải tán.
Phương thức Tiền trong thùng dầu: Có tiền Ngân hàng Sài Gòn rồi, việc vận
chuyển cho các chiến trường cũng là một công việc không dễ. Nhóm cán bộ tình
báo ở Sài Gòn, do đồng chí Trần Quốc Trung (tức Mười Tiến) chỉ huy, có nhiệm vụ
tổ chức vận chuyển tiền cho nhiều chiến trường. Với các Quân khu 8, 9 cán bộ ta
lợi dụng các thuyền chở gạo từ miền Tây lên Sài Gòn bán, khi về phải mang vỏ
bao không về, bỏ tiền vào các vỏ bao không này để che mắt quân địch; hoặc giao
cho các chủ ghe "hai đáy" của ta vận chuyển về địa bàn Quân khu 9. Với Quân khu
5, nhóm tình báo thuê tàu biển đổ tiền lên một vị trí đã thống nhất. Tại Quân khu 6,
tiền được bỏ vào các thùng dầu hỏa, buộc hớ hênh trên ô tô, khiến quân địch không
ngờ, nên vận chuyển được rất nhiều tiền.
20


Việc vận chuyển tiền cho các Quân khu 5, 6 được tiến hành theo cách này
cho đến khi Tuyến vận tải 559 trực tiếp chuyển được các hòm tiền cho hai quân
khu này. Ngoài nguồn tiền do nhóm tình báo ở Sài Gòn cung cấp, các quân khu
cũng tự thực hiện việc đổi đô la ra tiền Ngân hàng Sài Gòn. Quân khu 9 tổ chức
nhiều đường dây đổi tiền, trong đó có đường dây của đồng chí Trần Văn Ba (tức

Ba Xê), một cán bộ tài chính giàu kinh nghiệm. Ba Xê đóng giả làm tư sản, có ô tô
riêng, ăn mặc sang trọng, thường xuyên lên Sài Gòn, quan hệ với các nhà tư sản để
đổi tiền. Cho đến khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng năm 1975, đồng chí Ba
Xê đã đổi được 1,5 triệu đô la.
Tiền đổi được, Quân khu 9 giao cho đội vận tải của Phòng tài chính vận
chuyển bằng xuồng, ghe qua các kênh rạch rất khó khăn, gian khổ để đưa xuống
các đơn vị. Quân khu 7 cũng tổ chức những đơn vị chuyên làm nhiệm vụ đổi tiền,
còn việc vận chuyển tiền chủ yếu do đội vận tải bằng xe Hon đa 90 thực hiện. Lực
lượng này đông tới hàng trăm người. Những chiếc xe Hon đa 90 ngang dọc trong
những cánh rừng cao su, rừng khộp vận chuyển tiền cho các đơn vị, tạo nên nét
lãng mạn riêng của những chiến sĩ tài chính trên chiến trường miền Đông Nam Bộ
"gian lao mà anh dũng".
Con đường thứ năm chi viện cho chiến trường miền Nam - con đường tài
chính, con đường chuyển ngân đã mang đến sức mạnh vật chất vô cùng to lớn, góp
phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn
quân, toàn dân ta.
Tới năm 1975, hoàn thành sứ mệnh của mình, trong 10 năm số tiền được
quyết toán như sau:
- Trung Quốc viện trợ 626.042.653,52 USD.
- Cuba viện trợ 200.000 tấn đường trong 4 năm từ 1967-1970 bán được
9.131.280 USD.
- Nam Tư viện trợ 1.200.000 USD (một đợt năm 1970: 200.000 USD, một đợt
năm 1973: 1.000.000 USD).
- Việt kiều Thái Lan ủng hộ trong các năm 1971, 1972, 1974 là 4.348.083
USD.
- Một nhân sĩ quốc tế ủng hộ miền Nam bị bão lụt trong hai năm 1970 và
1971 số tiền là 2.021.616 USD. Đến cuối năm 1975 tồn quỹ đặc biệt là:
149.431.767,38 USD.Cộng với các nguồn tồn như:
- Tồn quỹ ngoại tệ từ các chiến trường nộp về (B.2 và K.5 thực hiện hết sức
nghiêm chỉnh): 53.803.36 USD

21


- Tổng cục Hậu cần quân đội giao lại 508.673,29 USD
- B.29 tiếp tục điều hành quản lý tác nghiệp quỹ đặc biệt, thu lãi tiền gửi ở
nước ngoài, và cả tiền gửi tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: 14.730.374,94
USD
- Tổng cộng quyết toán thu 218.474.176,61 USD.
III. Ý NGHĨA CỦA CÁC CON ĐƯỜNG CHI VIỆN ĐỐI VỚI CUỘC KHÁNG
CHIẾN
Con đường Hồ Chí Minh lịch sử nói chung và năm tuyến đường (bộ, biển,
xăng dầu, hàng không, chuyển ngân) nói riêng đã thể hiện vai trò chiến lược không
thể phủ nhận trong sự nghiệp kháng chiến chống đế quốc Mỹ oai hùng của dân tộc
Việt Nam.
Trước tiên, con đường Hồ Chí Minh mang tầm vóc lịch sử của thời đại Hồ
Chí Minh, cũng chính là biểu tượng ý chí sắt đá, chủ nghĩa anh hùng cách mạng
cao cả được hun đúc, kết tinh từ truyền thống lịch sử dựng nước, giữ nước trải qua
hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc; truyền thống yêu nước và cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thứ hai, đường mòn Hồ Chí Minh đã thể hiện thành công vai trò cốt yếu
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là tuyến đường thực hiện vai trò hậu
phương của miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam thông qua đường bộ, đường
biển, đường xăng dầu, đường hàng không và đường chuyển ngân.
 Con đường thứ nhất: Đường Hồ Chí Minh trên bộ - đường Trường Sơn.
Quân và dân ta bao gồm bộ đội Trường Sơn, thanh niên xung phong, dân
công hỏa tuyến, đồng bào các dân tộc và nhân dân nước bạn, với tinh thần dũng
cảm, thông minh đầy mưu trí sáng tạo, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ,
ác liệt đã đánh bại mọi thủ đoạn chiến tranh ngăn chặn của địch, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ vận chuyển sức người, sức của từ hậu phương lớn cho tiền
tuyến lớn, góp phần rất quan trọng vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến.

Trong 16 năm liên tục (1959-1975), lực lượng vận tải toàn tuyến đã vận
chuyển hơn một triệu tấn vũ khí và phương tiện vật chất, lương thực, vận
chuyển cơ động 10 lượt sư đoàn, 3 quân đoàn, hộ tống 90 đoàn binh khí kỹ
thuật, bảo đảm hành quân cho hơn 2 triệu lượt người vào ra qua đường Trường
Sơn cũng như các chiến trường. Hàng chục ngàn ki lô mét đường dây thông tin,
bảo đảm giao thông, thông tin liên tục thông suốt trong mọi tình huống. Bộ đội
Trường Sơn đã đánh bại 2.500 trận càn quét, biệt kích, tập kích của địch, tiêu
diệt và bắt sống 17.740 tên địch; bắn rơi 2.455 máy bay các loại.
 Con đường thứ hai: Đường xăng dầu.
Xăng dầu được chuyển từ Bắc vào Nam đã cung cấp cho hoạt động trên các
chiến trường trong những năm đánh Mỹ, góp phần quan trọng vào những trận
22


×