Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Ngoại giao của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giai đoạn 1954 - 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.29 KB, 23 trang )

Đề tài: ngoại giao can Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
giai đoạn 1954-1975.
MỤC LỤC trang
I.GIỚI THIỆU……………………………………………………..2
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI, NGOẠI
GIAO
Bối cảnh lịch sử đầu những năm1954: ……………...…….3
Tình hình quốc tế……………………………………..…….4
Chủ trương của Đảng……………………………….………7
Chủ trương của Đảng………………………………….……8
Quá trình hình thành đường lối đối ngoại…………..…..…8
Ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa anh em………16
III.KẾT LUẬN…………………………………………………..….18
I.GIỚI THIỆU
Việt Nam ta là quốc gia văn hiến có một nền lịch sử ngoại giao lâu
đời và phong phú. Trong đó nổi bật nhất là nền ngoại giao trong giai đoạn
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do chủ tịch Hồ CHí Minh lãnh đạo , nay là
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.lịch sử nước ta đã trải qua biết bao
nhiêu lần kháng chiến chống quân xâm, lược ngoại bang, từ chống quân
Tống thời Lý Thường Kiệt, chống quân xâm lược Nguyên Mông thời trần và
mới đây chưa đầy nửa thế kỉ, chúng ta lại phải đương đầu với thế lực
phương tây vô cùng hung mạnh, đặc biệt là Mỹ, một nước đế quốc hùng
mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự trên thế giới. Nhưng chính nghĩa luôn luôn
dành thắng lợi, bằng lòng yêu nước truyền thống từ trước tới nay của ông
cha ta, sự dẫn dắt của các nhà lãnh đạo kiệt xuất, sự đoàn kết một lòng can
nhân dân ta, sự ngoại giao tài tình,… đã dần dần đẩy lùi bước xâm lăng kẻ
thù ra khỏi bờ cõi .
Trong nội dung của bài tiểu luận này chúng ta sẽ tìm hiểu về cuộc
kháng chiến của nhân dân ta bằng sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
tiến tới giải phóng hoàn toàn đất nước khỏi tay đế quốc Mỹ xâm lược giai
đoạn từ 1954-1975.


Tháng 7 năm 1954,sau hiệp định Gionevo,đất nước ta bị chia cắt ra
thành 2 miền: miền Bắc, hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong lúc đó Mỹ đặt chân vào Miền Nam
chiếm đóng, âm mưu biến khu vực này thành căn cứ quân sự lâu dài.
Do mới kết thúc chiến sự, nên tình hình thế giới lúc này đang có nhiều
diễn biến phức tạp, xu thế hòa hoãn giữa các nước lớn, gây cho chúng ta
nhiều khó khăn.
Trong tình hình đó , đảng ta đã đề ra những sách lược đúng đắn, phát
huy tinh thần độc lập tự cường dân tộc. lịch sử nước ta giai đoạn này đã
chứng kiến quá trình nhận thức yêu cầu của lịch sử, hình thành về cơ bản
đường lối đối ngoại của đảng ta, đồng thời từng bước triển khai thực hiện
đường lối đó, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế nhằm phục vụ sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống đế quốc Mỹ ở miền
Nam.
Chính trong quá trình này đã hình thành đường lối ,sách lược đúng
đắn của đảng, những kinh nghiệm quý báu, tạo tiền đề và là cơ sở vững chắc
cho mặt trận ngoại giao sau này.
II.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI, NGOẠI
GIAO
Bối cảnh lịch sử đầu những năm1954:
Bối cảnh trong nước.
Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết đã kết thúc
cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đối với ba
nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
sau hiệp định chúng ta đã thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản quy
định về đình chiến, tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực. Nhưng
phía Pháp chỉ thực hiện khi có những đấu tranh mạnh mẽ và kiên quyết của
nhân dân ta.
Ngày 10-10-1954, quân Pháp rút khỏi Hà Nội. Cùng ngày, quân ta tiến vào
tiếp quản. Thủ đô Hà Nội. Ngày 1-1-1955, tại quảng trường Ba Đình lịch sử

đã diễn ra cuộc mít tinh trọng thể của hàng chục vạn nhân dân Hà Nội chào
mừng Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh về Thủ đô.
Khi rút quân, Pháp mang theo hoặc trước đó đã phá hỏng nhiều máy
móc, thiết bị, tài sản để gây khó khăn cho ta. Pháp còn cùng với Mỹ và Ngô
Đình Diệm chỉ đạo bọn phản động tiến hành dụ dỗ, cưỡng ép nhiều đồng
bào công giáo vào Nam để thực hiện ý đồ chống phá cách mạng về sau.
Trong khi đó, ở miền Nam, thực dân Pháp cũng có những hành động phá
hoại Hiệp định mới được ký kết.
Quân Pháp rút toàn bộ khỏi miền Nam Việt Nam khi còn nhiều điều khoản
Hiệp định có liên quan đến trách nhiệm của họ chưa được thi hành, trong đó
có điều khoản về việc tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử hai miền Bắc-Nam
Việt Nam. Pháp trút bỏ trách nhiệm thi hành những điều khoản còn lại của
Hiệp định cho Mỹ-Diệm, người kế tục chúng ở miền Nam.
Đế quốc Mỹ ra sức thực hiện ý đồ đã vạch ra từ trước nhằm độc chiếm miền
Nam Việt Nam, tiến tới độc chiếm toàn Đông Dương.
Tháng 9-1954, Mỹ lôi kéo được một số đồng minh như Pháp, Anh... và một
số nước Đông Nam Á lập ra khối "Liên minh quân sự Đông - Nam Á"
(SEATO) và ngang nhiên đặt miền Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối
này.
Đưa được tay sai lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, gạt hết quân
Pháp và tay sai của chúng ra khỏi miền Nam, Mỹ đã thực hiện được bước
đầu ý đồ độc chiếm miền Nam Việt Nam.
Chính quyền Ngô Đình Diệm, với sự giúp đỡ và có sự chỉ đạo của Mỹ, ra
sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, từ chối hiệp thương với Chính phủ Việt
Nam dân chủ cộng hoà về việc tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để
thống nhất Việt Nam trong thời hạn hai năm theo điều khoản của Hiệp định.
Đến hạn hai năm, tháng 7-1956, Diệm tuyên bố. "Sẽ không có hiệp thương
tổng tuyển cử, vì chúng ta không ký Hiệp định Giơnevơ, bất cứ phương diện
nào chúng ta cũng không bị ràng buộc bởi Hiệp định đó". Bằng một loạt
hành động trái với hiệp định, như bầy trò "trưng cầu dân ý" để phế truất Bảo

Đại rồi suy tôn Ngô Đình Diệm làm Tổng thống (tháng 10-1955), tổ chức
bầu cử riêng rẽ, lập quốc hội lập hiến (tháng 5 -1956), ban hành hiến pháp
của cái gọi là "Việt Nam cộng hoà" (tháng 10-1956), Diệm đã trắng trợn từ
chối và phá hoại việc thống nhất Việt Nam.
Cùng với sự giúp đỡ dưới hình thức "viện trợ" quân sự, chính trị, kinh tế,
miền Nam Việt Nam được xây dựng thành căn cứ quân sự, thành cơ sở kinh
tế thực dân kiểu mới của Mỹ.
Tất cả việc làm trên của Mỹ - Diệm không ngoài mục đích tách hẳn một
phần lãnh thổ của Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để lập ra một quốc gia
riêng biệt, thậm chí là một phần lãnh thổ của nước Mỹ. Tháng 5-1957, Ngô
Đình Diệm tuyên bố tại Washington "Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến
17 " .
Tình hình quốc tế.
Chủ nghĩa xã hội thời kì này liên tục phát triển mạnh.chủ nghĩa xã hội nhanh
chóng lan rộng từ Châu Âu sang Châu Á. Liên Xô là một nước đi đầu trong
các nước xã hội chủ nghĩa càng phát triển mạnh hơn trước nữa. Năm 1955,
Liên Xô đã hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ năm (1950-1955) trước thời
hạn. Tổng sản lượng công nghiệp tăng mạnh so với lúc trước chiến
tranh.Ngành nông nghiệp cũng có những bước phát triển đáng kể, mạng lưới
giao thông được mở rộng, việc Liên Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo
tạo nên uy tín mạnh.
Các nước đồng minh của Liên Xô ở Đông Âu cũng được Liên Xô
giúp sức và ra sức phát triển kinh tế, nền kinh tế ở các nước này cũng có
những chuyển biến tích cực rõ rệt.Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa
cũng có nhiều phát triển vượt bậc, từ một nước nông nghiệp ngèo nàn , kém
phát triển đã tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội .
phong trào giải phóng dân tộc có những bước phát triển mới, bao trùm
các nước Trung Đông, lan nhanh sang Châu Phi và Mỹ Latinh, làm tan rã
từng mảng hệ thống thuộc địa, đưa nhiều quốc gia bước vào thời kỳ độc lập
về chính trị, thoát khỏi tình trạng lệ thuộc về kinh tế. Tháng 4-1955, Hội

nghị Băngđung được triệu tập với sự tham gia của 29 nước Á, Phi. Hội nghị
đã đánh dấu việc các nước Á, Phi quyết định bước lên vũ đài lịch sử, đoàn
kết với nhau từ những phong trào lẻ tẻ, tách rời, liên kết với nhau trong một
mặt trận thống nhất của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa đế quốc thực
dân. Sau Hội nghị Băngđung, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh
mẽ như vũ bão, nhiều nước Á, Phi, Mỹ Latinh giành độc lập ở mức độ khác
nhau.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã gợi lên cho nhân dân, trước hết là các
lực lượng cách mạng ở các nước châu Phi những suy nghĩ mới về đường lối
và phương pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Tháng 8-1954, Đảng
Cộng sản Marốc ra tuyên bố đòi chính phủ Pháp phải chấm dứt các hành
động đàn áp, khủng bố những người yêu nước, phải thả tù chính trị. Theo
kinh nghiệm của nhân dân Việt Nam, nhân dân Marốc đã cầm vũ khí, kiên
trì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ở các nước châu Phi khác như:
Tuynidi, Angiêri, Mali... phong trào đấu tranh giành độc lập cũng phát triển
mạnh mẽ với khí thế sôi nổi. Điển hình là phong trào giải phóng ở Angiêri.
Mặt trận giải phóng dân tộc Angiêri ra đời được sự hưởng ứng của phần lớn
các đảng phái và tổ chức yêu nước, đại diện cho các giai cấp công nhân,
nông dân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản, và các tầng lớp khác trong xã hội. Cuộc
chiến đấu của nhân dân Angiêri bắt đầu nổ ra ngày 1-11-1954 và được sự
ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới... Tiếp đó, năm 1956, 3 nước
Bắc Phi: Tuynidi, Marốc, Xuđăng giành độc lập. Tháng 3-1957, nước cộng
hoà Gana ra đời, mở đầu thời kỳ vùng dậy của các nước Tây Phi, để rồi đến
năm 1960 - có 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập và đi vào lịch sử với tên
gọi “Năm Châu Phi”.
Châu Á - đối tượng xâm lược của các đế quốc châu Âu và Bắc Mỹ từ
hàng trăm năm, cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc ở đây được tiếp
thêm sức mạnh rõ rệt, đặc biệt là ở Đông Dương, sự đoàn kết gắn bó giữa
nhân dân ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia càng thêm chặt chẽ, để
chuẩn bị đối phó với những thủ đoạn xâm lược kiểu thực dân mới mà đế

quốc Mỹ đang triển khai tích cực.
Đặc biệt, ngày 1-1-1959, cách mạng Cuba giành thắng lợi và tháng
5/1960, Chính phủ Cuba tuyên bố gia nhập hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa, bất chấp sự ngăn chặn thù địch của Mỹ. Cách mạng Cuba thành công
trên một đất nước nằm ngay ở cửa ngõ nước Mỹ đã xua tan ấn tượng về sức
mạnh của bọn tư bản thống trị, củng cố lòng tin vào sức mạnh của quần
chúng nhân dân, làm cho nhân dân các nước Mỹ Latinh càng giác ngộ về
nhiệm vụ đấu tranh giành quyền sống và độc lập tự do cho dân tộc mình.
Cuba đã trở thành ngọn cờ đầu của phong trào giải phóng dân tộc ở Mỹ
Latinh. Bằng việc công nhận hàng loạt các nước Á, Phi, Mỹ Latinh giành
độc lập, các nước đế quốc phương Tây phải thừa nhận sự sụp đổ của chủ
nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới.
Thêm vào đó là sự phát triển mạnh mẽ của phong trào vì hoà bình dân
chủ và tiến bộ của giai cấp công nhân ở các nước tư bản. “Nếu phong trào
giải phóng dân tộc ở thuộc địa có tác dụng đánh phá các hậu phương của chủ
nghĩa đế quốc thì phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở chính
quốc có tác dụng công phá vào sào huyệt của CNTB.Sau chiến thắng Điện
Biên Phủ ở Việt Nam, cuộc đấu tranh giữa các lực lượng dân chủ với các lực
lượng phản động ở các nước tư bản ngày càng phát triển với quy mô rộng
lớn, phong phú và linh hoạt. Ở Pháp, Italia, nhiều cuộc đấu tranh để bảo vệ
chế độ dân chủ, chống chế độ phản động của nền chuyên chế cá nhân cũng
phát triển bằng nhiều hình thức. Ở nhiều nước Mỹ Latinh, giai cấp cầm
quyền vẫn tiếp tục đi theo con đường cai trị của thực dân Tây Ban Nha hoặc
Bồ Đào Nha đã bị lật đổ, làm cho đời sống nhân dân vẫn chịu cảnh cơ cực,
xã hội càng suy thoái. Lạm phát, nợ nần, đói rách là những vấn đề nhức nhối
kéo dài mà chính quyền không giải quyết được. Nhân dân đã nổi dậy lật đổ
chính quyền ở nhiều nước. Ở Châu Á, cuộc đấu tranh của nhân dân lao động
chống sự hà khắc của chính quyền tư sản cũng không kém phần sôi nổi,
quyết liệt.
Chủ trương của Đảng

Trong tình hình đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền, Đảng và
Chính phủ đề ra cho cách mạng mỗi miền những nhiệm vụ chiến lược phù
hợp với đặc điểm tình hình và yêu cầu của cách mạng từng miền, nhằm
chấm dứt tình trạng đất nước bị chia cắt.
Ở miền Bắc, sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân căn bản hoàn thành, Đảng chủ trương chuyển sang xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước khi bắt đầu những nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc
phải trải qua giai đoạn đấu tranh đòi phía Pháp thi hành nghiêm chỉnh Hiệp
định Giơnevơ, tiếp quản vùng mới giải phóng, hoàn thành cải cách ruộng
đất, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế. Trong quá trình này,
Mỹ đã mở rộng hoạt động ném bom bắn phá, nên miền Bắc phải kết hợp cả
với cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, nhằm bảo vệ miền Bắc và
phối hợp với cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam. Xây dựng chủ nghĩa xã
hội còn nhằm xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của cả nước
và là hậu phương cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn dân
tộc.
Ở miền Nam, do vẫn còn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai,
Đảng chủ trương tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mở đầu
thời kỳ ta đấu tranh đòi Mỹ-Diệm thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ
1954 về Việt Nam. Trong quá trình diễn biến, cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân phát triển thành cuộc chiến tranh nhân dân, chiến tranh giải
phóng dân tộc chống cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ, nhằm
giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, phối hợp với cuộc chiến đấu của
nhân dân hai nước Lào và Campuchia...
Hai miền đồng thời thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu chung của cách
mạng cả nước là đánh Mỹ và bọn tay sai của chúng, giải phóng miền Nam,
bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước, thống nhất đất nước, tạo điều kiện để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội,
góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Trong việc thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu chung của cách mạng cả
nước, cách mạng mỗi miền có vị trí và vai trò khác nhau. Miền Bắc là hậu
phương nên nó có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ
cách mạng cả nước và sự nghiệp thống nhất đất nước. Miền Nam là tiền
tuyến nên nó có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị
của đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Hậu phương và tiền tuyến, cách mạng hai miền Bắc-Nam, do đó, có quan hệ
gắn bó với nhau, phối hợp với nhau, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau,
tạo điều kiện cho nhau phát triển.
Quá trình hình thành đường lối đối ngoại.

×