Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

quy hoạch sử dụng đất - 9 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.55 KB, 11 trang )

I. Mở đầu
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá có vai trò to lớn
trong sự nghiệp phát triển của mỗi quốc gia. Với áp lực phát triển kinh tế xã hội,
biến đổi khí hậu làm cho thế giới ngày càng nóng lên khiến băng ở hai cực tan
ra, mực nước biển tăng cao nhấn chìm một bộ phận đất đai không nhỏ cộng
thêm sự bùng nổ dân số và hiện trạng sử dụng đất như hiện nay có thể thấy
nguồn tài nguyên đất đai ngày càng suy thoái, khan hiếm. Từ đó, đòi hỏi phải có
sự tính toán, phân bổ hợp lý để sử dụng nguồn lực tối đa từ đất đai, đồng thời
bảo vệ được nguồn tài nguyên giới hạn này. Hoà chung với tiến trình của toàn
thế giới, Việt Nam sử dụng quy hoạch sử dụng đất đai là nền tảng. Thế nhưng
việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập tồn tại dẫn
đến sự phát triển chậm của nền kinh tế nước nhà.
Thông qua bài tiểu luận lần này, em xin trình bày về những bất cập của công tác
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đồng thời tìm hiểu những quy định mới của
Luật đất đai năm 2013 trong việc góp phần khắc phục những bất cập nêu trên.


II. Nội dung
1. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là gì?
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 3 Luật đất đai 2013:
“Quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo không
gian sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh,
bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở tiềm năng đất đai và
nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh tế - xã hội
và đơn vị hành chính trong một khoảng thời gian xác định.
Kế hoạch sử dụng đất là việc phân chia quy hoạch sử dụng đất theo thời gian để
thực hiện trong kỳ quy hoạch sử dụng đất”.
Vậy quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có vai trò gì trong việc thực hiện các
quyền của người sử dụng đất?
Có thể thấy rằng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ngoài giữ vai trò hoạch định
chính sách, định hướng phát triển kinh tế vùng, đảm bảo việc sử dụng đất có


hiệu quả thì đó còn là cơ sở quan trọng để Nhà nước giao đất, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ), chuyển mục đích sử dụng đất, thậm chí là cơ sở
để Nhà nước đền bù về đất, chi phí về đất cho người dân khi bị thu hồi đất.
2. Những bất cập còn tồn tại
2.1. Tình trạng đất được giao, cho thuê sử dụng không đúng mục
đích, vi phạm pháp luật, găm giữ đất, chậm đưa vào sử dụng hoặc chuyển
nhượng
Giao đất, cho thuê đất là một trong những công cụ quan trọng trong quản
lý nhà nước về đất đai, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư và
bước đầu phát huy nguồn lực của đất đai trong phát triển của đất nước. Đến nay,
Nhà nước đã giao, cho thuê và công nhận quyền sử dụng đất cho các đối tượng
sử dụng là 24.996 nghìn ha, chiếm 75,53% tổng diện tích tự nhiên của cả nước.
Trình tự, thủ tục giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất đã được
thực hiện theo đúng quy định; từng bước khắc phục tình trạng giao đất, cho thuê


đất trái thẩm quyền, không đúng đối tượng. Đất được giao, cho thuê, được
chuyển mục đích về cơ bản là phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
được xét duyệt và quá trình chuyển đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động và bảo
đảm quốc phòng - an ninh.
Tuy nhiên, tình trạng đất được giao, cho thuê sử dụng không đúng mục đích, vi
phạm pháp luật, găm giữ đất, chậm đưa vào sử dụng hoặc chuyển nhượng dự án
còn xảy ra ở nhiều địa phương dẫn đến lãng phí đất đai và gây bất bình trong dư
luận. Nhiều địa phương còn thiếu cân nhắc trong việc chuyển mục đích sử dụng
đất chuyên trồng lúa nước, đất lâm nghiệp có rừng, giao đất, cho thuê đất tại các
khu vực nhạy cảm, vùng biên giới. Còn tình trạng nhiều tổ chức được Nhà nước
giao đất không thu tiền nhưng sử dụng lãng phí, thiếu trách nhiệm trong quản lý
để xảy ra nhiều sai phạm.
Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân
chủ yếu là:

- Theo chính sách hiện hành, đối tượng được giao đất không thu tiền sử dụng đất
quá rộng. Việc phân cấp mạnh về thẩm quyền giao đất, cho thuê đất và thẩm
quyền quyết định đầu tư của pháp luật về đầu tư chưa đi đôi với việc giám sát
thực thi trên thực tế đã bộc lộ nhiều bất cập.
- Quy định về căn cứ giao đất, cho thuê đất cùng với việc định giá đất để tính thu
tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thường thấp hơn nhiều so với giá đất trên thị
trường, đặc biệt là giá cho thuê đất quá thấp cũng là một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến tình trạng một nhà đầu tư được giao đất, cho thuê đất để
thực hiện nhiều dự án nhưng găm giữ đất, chậm đưa vào sử dụng hoặc chuyển
nhượng dự án.
- Quy định Nhà nước cho thuê đất trả tiền hàng năm hoặc trả tiền một lần cho cả
thời gian thuê đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nhà nước cho
thuê đất trả tiền hàng năm hoặc giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với tổ chức


kinh tế trong nước, dẫn đến sự không thống nhất giữa nhà đầu tư trong nước,
nhà đầu tư nước ngoài và chưa gắn với mục đích sử dụng đất.
- Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp hiện nay còn thấp nên
có nhiều trường hợp sử dụng đất có diện tích lớn đã lách luật bằng cách nhờ
người khác đứng tên khi nhận chuyển quyền sử dụng đất, gây khó khăn cho
công tác quản lý nhà nước về đất đai, gây phức tạp trong việc đăng ký sử dụng
đất, dễ phát sinh khiếu kiện, tranh chấp đất đai.
- Quy định giao đất, cho thuê đất theo hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu
thầu dự án có sử dụng đất chưa được nhiều địa phương nghiêm túc thực hiện.
Nhiều địa phương chạy theo nhà đầu tư trong việc phát triển các dự án đô thị
nhỏ lẻ, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, thiếu sự phối hợp thống nhất trên
quy mô liên vùng, liên tỉnh; chưa xem xét đồng bộ với điều kiện hạ tầng kỹ
thuật, xã hội, khả năng và thực tế lấp đầy các khu công nghiệp.
- Một số địa phương chưa đánh giá hết năng lực các nhà đầu tư khi giao đất, cho
thuê đất. Việc kiểm tra, xử lý vi phạm sau khi giao đất, cho thuê đất chưa được

tiến hành một cách thường xuyên. Chưa thống nhất các thủ tục về đầu tư, xây
dựng và đất đai trong việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích
sử dụng đất, hồ sơ còn phức tạp, thời gian thực hiện còn kéo dài...
2.3. Quy hoạch chưa sát, lãng phí đất đai
Nhiều tỉnh, thành quỹ đất để đưa vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng chưa được
tính toán khoa học, chưa sát với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội và nhu cầu
của thị trường bất động sản, dẫn đến tình trạng vừa thiếu, vừa thừa quỹ đất. Việc
lập quy hoạch sử dụng đất theo đơn vị hành chính không đảm bảo tính kết nối
liên vùng, không phát huy được thế mạnh của từng vùng, có tình trạng mỗi địa
phương vì lợi ích cục bộ đã đề xuất quy hoạch thiếu đồng bộ.
Đơn cử như, theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến đến hết năm
2014, cả nước có 295 KCN được thành lập, nhưng chỉ 212 KCN đi vào hoạt
động, 83 KCN vẫn đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng (GPMB) và


xây dựng cơ bản. Tổng diện tích đất có thể cho thuê lên đến 56 nghìn ha, nhưng
các KCN chỉ cho thuê vỏn vẹn 26 nghìn ha; còn tỷ lệ lấp đầy tại các KCN đã đi
vào hoạt động mới đạt khoảng 65%.
2.2. Công tác lấy ý kiến của nhân dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất đai chưa thực sự được chú trọng.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những phương thức quản lý
đất đai của Nhà nước (một trong những căn cứ giao đất, cho thuê đất, chuyển
mục đích sử dụng đất và thu hồi đất là kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp
huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt), ảnh hưởng trực tiếp
đến việc sử dụng đất của nhân dân nói chung và người sử dụng đất nói riêng. Do
vậy, việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân cần được thực hiện trong quá trình tổ
chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở tất cả hệ thống quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất, bao gồm: Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia; quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp
huyện và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc phòng - an ninh. Mặc dù pháp

luật đất đai thời kỳ trước đã có quy định về lấy ý kiến nhân dân về quy hoạch sử
dụng đất, tuy nhiên chỉ dừng lại ở phạm vi cấp xã nhưng việc thực thi chế định
này còn mang tính hình thức. Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới năm 2010
ở 63 tỉnh, 3 Bộ, 24 Uỷ ban nhân dân cấp huyện, 117 Ủy ban nhân dân cấp xã về
việc thực thi pháp luật về đất đai, trong đó có việc lấy ý kiến nhân dân về quy
hoạch sử dụng đất thì việc thực hiện quy trình lấy ý kiến người dân về quy
hoạch sử dụng đất cấp xã gần như không được thực hiện.
2.4. Lợi dụng quy hoạch để tăng lợi ích cá nhân và đầu cơ đất
Việc quản lý đất đai theo quy hoạch, kế hoạch chưa thật sự trở thành yêu
cầu bắt buộc đối với các cơ quan, tổ chức, thậm chí nhiều nơi lợi dụng việc điều
chỉnh, bổ sung quy hoạch để làm lợi cho cá nhân hay một nhóm người.
Đất đai là yếu tố đầu vào của bất kỳ lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào (đặc biệt
là kinh doanh BĐS) nên đầu cơ đất đai sẽ làm tăng giá thành sản xuất, hạn chế


đầu tư, bởi việc tiếp cận đất đai của các chủ thể kinh doanh sẽ càng khó khăn
hơn. Bên cạnh đó, đầu cơ đất đai sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí đất đai, chuyển
mục đích SDĐ tùy tiện, làm cho quy hoạch, kế hoạch SDĐ bị phá vỡ. Những
bất cập trong quản lý đất đai đã tạo ra miếng mồi béo bở cho những kẻ đầu cơ,
nắm giữ đất đai. Hiện nay hoạt động đầu cơ đất đai ở nước ta đến ngưỡng báo
động, nhất là ở Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Đây là một vấn đề nóng bỏng hiện
nay bởi Nhà nước đang cần vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thực hiện đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp thì một phần ngân sách không nhỏ bị thất thu
nằm ở lĩnh vực đất đai chủ yếu gây ra do đầu cơ đất đai (ĐCĐĐ) và các tiêu cực
trong lĩnh vực này gây ra. Hơn nữa những tín hiệu thất thường của thị trường
nhà đất ở nước ta trong thời gian qua gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế và
đời sống của dân cư. Chúng ta đã có rất nhiều văn bản hướng dẫn thị trường,
văn bản pháp lý nhằm khắc phục đầu cơ đất đai nhưng hoạt động này không
những không giảm mà còn gia tăng một cách đáng lo ngại.

3. Luật Đất đai 2013 ra đời với những sự thay góp phần khắc phục tình
trạng nêu trên.
Thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thời gian qua, cả nước nhìn
chung đã phân bổ và sử dụng khá hiệu quả tài nguyên đất, đưa đất đai trở thành
nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế, xã hội. Song bên cạnh những mặt
đạt được, công tác quy hoạch sử dụng đất cũng còn bộc lộ nhiều bất cập.
3.1. Luật Đất đai 2013 góp phần khắc phục "kẽ hở" trong giao đất,
cho thuê đất.
Một là, quy định về căn cứ giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất.
Điều 52. Căn cứ để giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất


“1. Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt.
2. Nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất, thuê đất,
chuyển mục đích sử dụng đất.”
Điểm đáng chú ý trong Điều 52 là quy định việc giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất phải căn cứ vào kế hoạch sử dụng đất hàng năm đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Trường hợp giao đất, cho thuê
đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với đất trồng lúa, đất rừng phòng
hộ, đất rừng đặc dụng để sử dụng vào mục đích khác thì phải có Nghị quyết của
Quốc hội, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, văn bản chấp thuận của Thủ
tướng Chính phủ và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với các dự
án, công trình thuộc các trường hợp theo quy định.
Điều 37. Kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
“1. Kỳ quy hoạch sử dụng đất là 10 năm.
2. Kỳ kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp tỉnh và kỳ kế hoạch sử dụng đất
quốc phòng, đất an ninh là 05 năm. Kế hoạch sử dụng đất cấp huyện được lập

hàng năm.”
Việc đổi mới này cùng với đổi mới về căn cứ để giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích SDĐ chỉ duy nhất là “kế hoạch sử dụng đất hằng năm của cấp
huyện” nhằm khắc phục tình trạng giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích SDĐ
tràn lan (thường tập trung vào những năm đầu của kỳ KHSDĐ 5 năm và cũng
chính là đầu nhiệm kỳ như đã diễn ra trong thời gian qua), tránh tình trạng bỏ
hoang hoá, gây lãng phí tài nguyên đất.
Nguyên tắc lập qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất được qui định rõ tại khoản 2
điều 35 luật đất đai 2013. Đó là: “…Qui hoạch sử dụng đất cấp quốc gia phải
đảm bảo tính đặc thù, liên kết của các vùng kinh tế -xã hội; qui hoạch sử dụng
đất cấp huyện phải thể hiện rõ nội dung sử dụng đất của cấp xã”. Như vậy sẽ


không còn việc lập qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp xã theo như qui định
của Luật đất đai 2003, hệ thống qui hoach, kế hoạch sử dụng đất theo luật đất
đai 2013 chỉ còn 3 cấp là: cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp huyện. Tại khoản 8
điều 35 qui định: “Qui hoạch kế hoạch của ngành, lĩnh vực, địa phương có sử
dụng đất phải bảo đảm phù hợp với qui hoach, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt”.
 Những qui định nêu trên của Luật đất đai năm 2013 đã khẳng định vai trò,
vị trí của qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho các ngành, lĩnh vực sử dụng đất
hợp lý, hiệu quả, tránh được sự chồng chéo; khắc phục những khó khăn, bất cập
trong việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Đây chính là căn
cứ để văn bản dưới Luật qui định chi tiết trách nhiệm của UBND các cấp trong
việc rà soát qui hoạch, kế hoạch của ngành, lĩnh vực, địa phương có sử dụng đất
bảo đảm phù hợp với qui hoach, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt.
3.2. Luật đất đai 2013 đã quy định cụ thể về vấn đề lấy ý kiến của
nhân dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Đây là nội dung được bổ sung mới trong Luật Đất đai năm 2013 và được quy

định tại Điều 43, trong đó quy định: Cơ quan có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến
đóng góp của nhân dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là cơ quan tổ chức
lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng; hình thức, nội dung và thời gian lấy ý kiến
nhân dân đối với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của từng cấp; việc xây dựng
báo cáo tổng hợp, tiếp thu, giải trình ý kiến của nhân dân và hoàn thiện phương
án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trước khi trình Hội đồng thẩm định quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất cơ quan tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
thực hiện. Ngoài ra, nhằm đảm bảo tính khả thi của của việc lấy ý kiến, nâng cao
vai trò, ý nghĩa của việc lấy ý kiến về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Luật còn
giao Chính phủ quy định chi tiết Điều này. Theo điểm a khoản 2 Điều 43: “ Việc
lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc
gia, cấp tỉnh được thực hiện thông qua hình thức công khai thông tin về nội


dung của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên trang thông tin điện tử của Bộ
Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; việc lấy ý kiến đóng góp
của nhân dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện được thực hiện
thông qua hình thức tổ chức hội nghị, lấy ý kiến trực tiếp và công khai thông tin
về nội dung của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên trang thông tin điện tử
của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện” thì việc lấy ý
kiến bây giờ không còn bó hẹp trong phạm vi cấp xã như trước đây.
3.3. Luật đất đai 2013 bổ sung thêm những quy định góp phần sử
dụng tiết kiệm đất
Luật thiết lập sự bình đẳng hơn trong việc tiếp cận đất đai giữa nhà đầu tư
trong và nước ngoài; quy định cụ thể điều kiện được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất để thực hiện dự án đầu tư nhằm lựa chọn được nhà đầu tư có năng lực
thực hiện dự án. Đặc biệt, Luật đã bổ sung quy định về điều kiện được giao đất,
cho thuê đất để thực hiện các dự án có sử dụng đất trồng lúa, đất có rừng, dự án
đầu tư tại khu vực biên giới, ven biển và hải đảo. Nhằm chuyên môn hóa các tổ
chức, cá nhân hoạt động tư vấn quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, góp phần nâng

cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Luật đất đai năm 2013 bổ sung
thêm vấn đề“Tư vấn lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất” (Điều 47), cụ thể là:
Trong quá trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, cơ quan chịu trách nhiệm
chủ trì việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được thuê tư vấn lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Luật giao Chính phủ quy định điều kiện của tổ
chức, cá nhân hoạt động tư vấn lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
3.4. Luật đất đai 2013 góp phần hạn chế tham những trong quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai
Điểm đổi mới đặc biệt và có tính đột phá trong nội dung quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất trong Luật đất đai năm 2013 là quy định cụ thể “Nội dung kế
hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện” tại khoản 4 Điều 40 nhằm đảm bảo
là căn cứ thu hồi đất. Trong đó quy định: “Xác định vị trí, diện tích đất phải thu


hồi để thực hiện công trình, dự án sử dụng đất vào mục đích quy định tại Điều
61 và Điều 62 của Luật này trong năm kế hoạch đến từng đơn vị hành chính cấp
xã. Đối với dự án hạ tầng kỹ thuật, xây dựng, chỉnh trang đô thị, khu dân cư
nông thôn thì phải đồng thời xác định vị trí, diện tích đất thu hồi trong vùng phụ
cận để đấu giá quyền sử dụng đất thực hiện dự án nhà ở, thương mại, dịch vụ,
sản xuất, kinh doanh” (điểm c khoản 4 Điều 40). Đồng thời, Luật còn quy định
trong nội dung kế hoạch sử dụng đất phải đồng thời xác định vị trí, diện tích đất
thu hồi trong vùng phụ cận đối với dự án hạ tầng kỹ thuật, xây dựng, chỉnh trang
khu đô thị, khu dân cư nông thôn để đấu giá quyền sử dụng đất thực hiện dự án
nhà ở, thương mại, dịch vụ, sản xuất, kinh doanh.
Với quy định này sẽ tạo sự rõ ràng, minh bạch trong thu hồi đất, tạo được sự
công bằng hơn trong việc sử dụng đất, khắc phục tình trạng chỉ một bộ phận dân
cư bên cạnh công trình hạ tầng (được nhà nước đầu tư) được hưởng lợi từ quy
hoạch sử dụng đất đem lại; hạn chế tiêu cực, tham nhũng trong việc triển khai
thực hiện QHKHSD đất, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo ổn định xã hội.



III. Kế luận
Trong những năm qua, các quy định của pháp luật về quy hoạch, kế hoạch sử
dung đất không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý ngày
càng đầy đủ hơn để triển khai thực hiện, phục vụ kịp thời những yêu cầu khác
nhau của từng giai đoạn phát triển KT-XH của đất nước. Những nội dung đổi
mới trong công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong pháp luật đất đai năm
2013 đã có những bước tiến rõ rệt và đạt được những kết quả tích cực, khắc
phục các mâu thuẫn, chồng chéo trong quy hoạch sử dụng các loại đất của các
ngành, cân đối việc sử dụng hợp lý quỹ đất quốc gia giữa các ngành thông qua
việc phân bổ hợp lý quỹ đất.



×