Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Lý thuyết chung về kiểm toán tài chính và quy trình kiểm toán tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.59 KB, 28 trang )

LÝ THUYẾT CHUNG VỀ KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH VÀ QUY 
TRÌNH KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH
Kiểm toán tài chính là việc kiểm tra và xác nhận về  tính trung thực và hợp lý của các tài  
liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính (BCTC) của đơn vị, phục vụ đối tượng có nhu cầu  
sử dụng thông tin trên BCTC của đơn vị.
1. Tổng quan chung về kiểm toán tài chính
1.1. Đối tượng kiểm toán tài chính
Theo định nghĩa của Liên đoàn kế  toán quốc tế  (International Federation of Accoutants –  
IFAC): “Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình  
về  báo cáo tài chính”. Theo Tiến sỹ  Robert N.Anthony, giáo sư  Trường Đại học Harvard  
(Mỹ) thì: “Kiểm toán là việc xem xét, kiểm tra các ghi chép kế toán bởi các kế toán viên công  
cộng”. Kiểm toán tài chính là việc kiểm tra và xác nhận về tính trung thực và hợp lý của các 
tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính (BCTC) của đơn vị, phục vụ đối tượng có nhu 
cầu sử dụng thông tin trên BCTC của đơn vị.
Đối tượng thường xuyên và chủ yếu của kiểm toán tài chính là các báo cáo tài chính. Chính vì  
thế  kiểm toán tài chính còn được gọi là kiểm toán báo cáo tài chính. Theo chuẩn mực kiểm 
toán Việt nam số 200, điểm 04 đã định nghĩa báo cáo tài chính như sau: “Báo cáo tài chính là 
hệ  thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế  độ  kế  toán hiện hành (hoặc được chấp  
nhận) phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị”
BCTC ở các đơn vị kinh doanh bao gồm các báo cáo sau:
– Bảng cân đối kế toán
– Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
– Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
– Thuyết minh BCTC
BCTC  ở  đơn vị  kinh doanh là những báo cáo được tổng hợp số  liệu từ  các sổ  kế  toán theo  
các chỉ  tiêu kinh tế  tài chính tổng hợp, phản ánh có hệ  thống tình hình tài sản, nguồn hình 
thành tài sản của doanh nghiệp, tình hình và hiệu quả  sản xuất kinh doanh, tình hình lưu 


chuyển tiền tệ  và tình hình quản lý, sử dụng vốn của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất  
định vào một hệ thống mẫu biểu quy định thống nhất


BCTC ở đơn vị hành chính sự nghiệp
Bảng cân đối tài khoản
Tổng hợp tình hình kinh phí và quyết toán kinh phí Báo cáo tình hình tăng giảm TSCĐ Thuyết 
minh BCTC
Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước tại cơ quan tài chính xã, phòng tài chính huyện, sở tài 
chính, bộ tài chính, cơ quan thuế, kho bạc nhà nước
Ngoài báo cáo tài chính thì đối tượng của kiểm toán tài chính còn có các bảng kê khai có tính  
chất tài chính tức là trong các bảng kê khai đó có yếu tố  tiền tệ, thông tin được biểu hiện  
dưới hình thái bằng tiền chẳng hạn như  bảng kê khai tài sản cá nhân, bảng kê khai tài sản 
doanh nghiệp phá sản…
Đặc điểm của đối tượng kiểm toán:
Các báo cáo tài chính được lập ra vào một thời điểm cụ thể theo những nguyên tắc xác định 
(nguyên tắc kế  toán: trọng yếu, dồn tích, nhất quán, phù hợp…) theo chuẩn mực kế  toán,  
Chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận
Quan hệ trực tiếp với kiểm toán: khi tiến hành kiểm toán tài chính, kiểm toán viên không thể 
không kiểm tra các tài liệu kế toán, hoạt động kinh doanh và tổ chức quản lý của đơn vị.
Có 2 cách phân chia đối tượng kiểm toán thành các phần công việc kiểm toán như sau:
Phân theo khoản mục: là cách chia từng khoản mục hoặc từng nhóm khoản mục vào một 
phần hành
Ví dụ: Kiểm toán vốn bằng tiền, kiểm toán tài sản cố  định, kiểm toán nợ  phải thu khách  
hàng, kiểm toán doanh thu, kiểm toán giá vốn…
Phân theo chu trình:là cách chia căn cứ  vào mối liên hệ  chặt chẽ  giữa các khoản mục trên  
BCTC, các quá trình cấu thành các yếu tố trong một chu trình chung của hoạt động tài chính.
Ví dụ: kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền, kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán, 
kiểm toán chu trình tiền lương và nhân viên, kiểm toán chu trình hàng tồn kho, kiểm toán chu  
trình đầu tư và chi trả, kiểm toán tiếp nhận và hoàn trả vốn…


1.2. Mục tiêu kiểm toán báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính được lập bởi các đơn vị được kiểm toán nhưng báo cáo này chủ yếu phục  

vụ cho các đối tượng bên ngoài đơn vị để đưa ra các quyết định kinh tế chẳng hạn như Ngân  
hàng cần có thông tin về tình hình kinh doanh, khả năng thanh toán của doanh nghiệp để đưa 
ra quyết định cho vay, các nhà đầu tư chứng khoán cần có thông tin về kết quả kinh doanh để 
đưa ra quyết định mua hay bán cổ phiếu, các đối tác đầu tư cần có thông tin về tình hình kinh  
doanh, khả năng thanh toán để có quyết định đầu tư vốn, hợp tác kinh doanh…
Tuy nhiên để có được các quyết định đúng đắn thì các thông tin trên báo cáo tài chính phải có 
độ tin cậy, phản ánh trung thực, hợp lý, hợp pháp về tình hình tài chính của đơn vị. Để những  
người sử dụng bên ngoài có thể tin được thông tin trên báo cáo tài chính thì báo cáo tài chính 
này cần được kiểm toán bởi các doanh nghiệp kiểm toán. Vì thế, mục tiêu của kiểm toán báo  
cáo tài chính là xác nhận độ  tin cậy của các thông tin trên BCTC, làm căn cứ  để  Nhà nước  
tính các khoản thuế phải nộp của đơn vị được kiểm toán, để những người sử dụng thông tin 
bên ngoài đơn vị đưa ra được các quyết định kinh tế đúng đắn
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 200­ “Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm 
toán báo cáo tài chính”, đoạn 11 chỉ rõ: “Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho  
kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được  
lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ  kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ 
pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay 
không?
Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những 
tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị”
Thông tin tài chính trung thực là thông tin phản ánh đúng nội dung, bản chất và thực trạng các  
nghiệp vụ kinh tế phát sinh
Thông tin tài chính hợp lý là thông tin đảm bảo độ tin cậy cần thiết, phù hợp về không gian,  
thời gian
Trọng yếu là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế 
toán) trong báo cáo tài chính. Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin 


đó hay thiếu chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng  
báo cáo tài chính. Mức độ trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của thông tin hay của sai 

sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin phải xem xét cả trên  
tiêu chuẩn định lượng và định tính (Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 200, đoạn 05).
1.3. Nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 200, đoạn 13, các nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm 
toán báo cáo tài chính bao gồm:
– Tuân thủ pháp luật của Nhà nước
– Tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp
– Tuân thủ Chuẩn mực kiểm toán
– Kiểm toán viên phải có thái độ hoài nghi nghề nghiệp
Tuân thủ  pháp luật của Nhà nước: Kiểm toán viên luôn luôn coi trọng và chấp hành đúng  
pháp luật của Nhà nước trong quá trình hành nghề kiểm toán
Tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp kiểm toán:
Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên.
Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải thực sự không bị chi phối hoặc tác động bởi 
bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan và độc  
lập nghề nghiệp của mình.
Kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán cho các đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế 
hoặc quyền lợi kinh tế như góp vốn cổ  phần, cho vay hoặc vay vốn từ khách hàng, hoặc là  
cổ đông chi phối của khách hàng, hoặc có ký kết hợp đồng gia công, dịch vụ, đại lý tiêu thụ 
hàng hoá,…
Kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán cho các đơn vị  mà bản thân có quan hệ họ 
hàng thân thuộc (như bố, mẹ, vợ, chồng, con cái, anh chị em ruột) với những người trong bộ 
phận quản lý (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, các trưởng, phó phòng và những người 
tương đương) trong đơn vị được kiểm toán.
Kiểm toán viên không được vừa làm dịch vụ kế toán (như trực tiếp ghi chép, giữ số kế toán  
và lập báo cáo tài chính) vừa làm dịch vụ kiểm toán cho cùng một khách hàng.


Trong quá trình kiểm toán, nếu có sự  hạn chế  về  tính độc lập thì kiểm toán viên phải tìm 
cách loại bỏ sự hạn chế này. Nếu không loại bỏ  được kiểm toán viên phải nêu rõ điều này  

trong báo cáo kiểm toán.
Chính trực : Kiểm toán viên phải thẳng thắn, trung thực và có chính kiến rõ ràng.
Khách quan: Kiểm toán viên phải công bằng, tôn trọng sự  thật và không được thành kiến,  
thiên vị.
Năng lực chuyên môn và tính thận trọng: Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán 
với đầy đủ năng lực chuyên môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tinh thần làm việc  
chuyên cần. Kiểm toán viên có nhiệm vụ duy trì, cập nhật và nâng cao kiến thức trong hoạt  
động thực tiễn, trong môi trường pháp lý và các tiến bộ  kỹ thuật để  đáp ứng yêu cầu công  
việc.
Tính bí mật: Kiểm toán viên phải bảo mật các thông tin có được trong quá trình kiểm toán, 
không được tiết lộ bất cứ một thông tin nào khi chưa được phép của người có thẩm quyền,  
trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu cầu của pháp luật hoặc trong phạm vi quyền hạn  
nghề nghiệp của mình.
Tư  cách nghề  nghiệp: Kiểm toán viên phải trau dồi và bảo vệ  uy tín nghề  nghiệp, không  
được gây ra những hành vi làm giảm uy tín nghề nghiệp.
Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn: Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán theo 
những kỹ thuật và chuẩn mực chuyên môn đã quy định trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam  
(hoặc các chuẩn mực kiểm toán quốc tế  được Việt Nam chấp nhận) và các quy định pháp 
luật hiện hành.
Kiểm toán viên phải tuân thủ  chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hoặc chuẩn mực kiểm toán  
viên được Việt Nam chấp nhận. Các chuẩn mực kiểm toán này quy định các nguyên tắc, thủ 
tục cơ  bản và hướng dẫn thể  thức áp dụng các nguyên tắc và thủ  tục cơ  bản và liên quan  
đến kiểm toán và báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên phải có thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp trong quá trình lập kế hoạch  
và thực hiện kiểm toán và phải luôn ý thức rằng có thể  tồn tại những tình huống dẫn đến  
những sai sót trọng yếu trong các báo cáo tài chính. Ví dụ: Khi nhận được bản giải trình của 


Giám đốc đơn vị, kiểm toán viên không được thừa nhận ngay các giải trình đó đã là đúng, mà  
phải tìm được những bằng chứng cần thiết chứng minh cho giải trình đó.

Các nguyên tắc đạo đức nghề  nghiệp kiểm toán được giải thích trong đoạn 16, chuẩn mực  
Kiểm toán Việt nam số 200 như sau:
Hoài nghi nghề nghiệp là thái độ  cần thiết của kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán để 
tránh bỏ  sót những tình huống có thể dẫn đến báo cáo tài chính bị sai lệch trọng yếu.
1.4. Chủ thể kiểm toán báo cáo tài chính
Chủ  thể  kiểm toán đề  cập đến kiểm toán viên. Đối với báo cáo tài chính người tiến hành 
kiểm toán có thể  là kiểm toán viên nhà nước, kiểm toán viên độc lập hoặc kiểm toán viên  
nội bộ.
Kiểm toán báo cáo tài chính là lĩnh vực kiểm toán chủ yếu của các kiểm toán viên độc lập. Ở 
Việt nam, dịch vụ kiểm toán này chiếm đến 60% tổng doanh thu của các doanh nghiệp kiểm  
toán. Kiểm toán viên nhà nước thường tiến hành kiểm toán việc tuân thủ  các văn bản pháp  
luật của nhà nước có liên quan đến hoạt động của đơn vị  được kiểm toán. Tuy nhiên kèm  
theo việc kiểm toán tuân thủ  các kiểm toán viên nhà nước tiến hành kiểm toán báo cáo tài 
chính của các đơn vị  để  kiểm tra, xác nhận tính trung thực hợp lý của các thông tin được  
phản ánh trên các báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước.
1.5. Các thử nghiệm kiểm toán trong kiểm toán tài chính
Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải vận dụng, kết hợp các phương pháp kiểm  
toán khác nhau để  xác minh các nghiệp vụ, các số  dư  tài khoản hoặc các khoản mục cấu  
thành bảng khai tài chính, việc vận dụng, kết hợp như vậy gọi là các thử nghiệm kiểm toán.
Các thử nghiệm trong kiểm toán tài chính bao gồm:
Thử nghiệm kiểm soát
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 500 – “Bằng chứng kiểm toán”, đoạn 06, định nghĩa: 
“Thử  nghiệm kiểm soát (kiểm tra hệ  thống kiểm soát) là việc kiểm tra để  thu thập bằng  
chứng kiểm toán về  sự thiết kế phù hợp và sự  vận hành hữu hiệu của hệ  thống kế toán và  
hệ thống kiểm soát nội bộ”
Những phương pháp kiểm toán được sử dụng trong thử nghiệm kiểm soát gồm:


– Phỏng vấn (phỏng vấn nhân viên đơn vị về các thủ tục kiểm soát đã áp dụng)
– Quan sát(việc áp dụng các thủ tục kiểm soát, các hoạt động kiểm soát nội bộ trong đơn vị)

– Kiểm tra tài liệu (kiểm tra chữ ký, phê duyệt, kiểm tra tính đầy đủ của chứng từ kèm theo). 
Ví dụ  kiểm tra các chứng từ  liên quan đến phiếu chi tiền có được phê duyệt đầy đủ  hay  
không
– Kiểm tra lại việc thực hiện các thủ tục kiểm soát nội bộ, ví dụ kiểm tra lại bảng
đối chiếu tiền gửi của đơn vị với ngân hàng, xem xét lại biên bản kiểm kê quỹ, kiểm kê hàng  
tồn kho, đối chiếu lại công nợ để đảm bảo rằng chúng có được đơn vị thực hiện hay không
Kết quả thử nghiệm kiểm soát chỉ cho biết về thiết kế và vận hành của hệ thống kiểm soát 
nội bộ hơn là tính xác thực của số liệu trên báo cáo tài chính
Thử nghiệm cơ bản
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số  500, đoạn 07, định nghĩa: “Thử  nghiệm cơ  bản  
(kiểm tra cơ bản) là việc kiểm tra để thu thập bằng chứng kiểm toán liên quan đến báo cáo  
tài chính nhằm phát hiện ra những sai sót trọng yếu làm  ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. 
Thử nghiệm cơ bản bao gồm:
– Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư
– Quy trình phân tích
Kiểm tra chi tiết là cách thức kết hợp các phương pháp kiểm toán để xác định độ tin cậy của  
các số dư (hoặc tổng số phát sinh) ở Sổ cái ghi vào Bảng cân đối kế toán hoặc vào Báo cáo 
kết quả hoạt động kinh doanh và kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
Quy trình phân tích: Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 520­“Quy trình phân tích”­ đoạn 
04 chỉ rõ: “Quy trình phân tích là việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng, 
qua đó tìm ra những xu hướng, biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các 
thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến”
Quy trình phân tích bao gồm việc so sánh các thông tin tài chính như:
– So sánh thông tin tương ứng trong kỳ này với các kỳ trước
– So sánh giữa thực tế với kế hoạch của đơn vị, ví dụ kế hoạch sản xuất, kế hoạch bán hàng 



– So sánh giữa thực tế với ước tính của kiểm toán viên ví dụ chi phí khấu hao ước tính…
– So sánh giữa thực tế của đơn vị với các đơn vị khác trong cùng ngành có cùng quy mô hoạt 

động, hoặc với số  liệu thống kê, định mức cùng ngành (Ví dụ: tỷ suất đầu tư, tỷ  lệ  lãi 
gộp…)
Quy trình phân tích có ý nghĩa lớn trong việc đánh giá khái quát tính hợp lý chung của các xu 
hướng biến động và các mối quan hệ kinh tế đồng thời xác định mức độ, phạm vi áp dụng 
các thử nghiệm khác qua đánh giá trên.
Tham khảo thêm >>> Những lý luận chung về phân tích tài chính trong doanh nghiệp
2. Lập kế hoạch kiểm toán tài chính
2.1. Vai trò của lập kế hoạch kiểm toán
Sự  cần thiết của lập kế hoạch kiểm toán đã được đề  cập trong chuẩn mực kiểm toán việt 
nam số  300­ lập kế  hoạch kiểm toán: “Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải lập kế 
hoạch kiểm toán để đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành một cách có hiệu quả”.
Cũng theo chuẩn mực này, đoạn 08 chỉ  rõ: “Kế  hoạch kiểm toán phải được lập một cách  
thích hợp nhằm đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán; phát  
hiện gian lận, rủi ro và những vấn đề  tiềm ẩn và đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành 
đúng thời hạn. Kế hoạch kiểm toán trợ  giúp kiểm toán viên phân công công việc cho trợ  lý  
kiểm toán và phối hợp với kiểm toán viên và chuyên gia khác về công việc kiểm toán”.
Lập kế  hoạch kiểm toán  ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả  chung của toàn bộ  cuộc 
kiểm toán, cụ thể như sau:
– Kế hoạch kiểm toán giúp kiểm toán viên thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ 
và có tính thuyết phục làm cơ sở cho kết luận kiểm toán về báo cáo tài chính.
– Phối hợp công việc của kiểm toán viên một cách có hiệu quả nhằm giảm chi phí kiểm toán 
và nâng cao chất lượng kiểm toán.
– Kế hoạch kiểm toán là căn cứ để công ty kiểm toán tránh xẩy ra những bất đồng với khách  
hàng. Trong kế  hoạch kiểm toán, kiểm toán viên đã thống nhất với các khách hàng về  nội  
dung công việc sẽ  thực hiện, thời gian tiến hành kiểm toán cũng như  trách nhiệm của mỗi 
bên.


– Là căn cứ để đánh giá và kiểm soát chất lượng công việc kiểm toán đã và đang thực hiện
Lập kế hoạch kiểm toán không chỉ  giúp kiểm toán viên chuẩn bị những điều kiện vật chất 

cơ bản của cuộc kiểm toán để tiến hành một cuộc kiểm toán có chất lượng mà lập kế hoạch  
kiểm toán còn được quy định trong chuẩn mực kiểm toán (trong văn bản pháp luật) đòi hỏi 
các kiểm toán viên phải tuân thủ khi thực hiện.
2.2. Trình tự giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
– Chuẩn bị để lập kế hoạch kiểm toán
– Tìm hiểu về khách hàng kiểm toán
– Xác lập mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán
– Xây dựng kế hoạch và thiết kế chương trình kiểm toán
2.2.1. Chuẩn bị để lập kế hoạch kiểm toán
Đây là giai đoạn tiền kế hoạch, là giai đoạn tiếp cận để  thu thập những thông tin về  khách 
hàng nhằm giúp kiểm toán viên tìm hiểu về các nhu cầu của họ, đánh giá về khả năng phục 
vụ và các vấn đề  khác như thời gian thực hiện, phí kiểm toán, tính liêm chính của ban giám 
đốc công ty khách hàng..Dựa vào đó, nếu đồng ý, kiểm toán viên sẽ  ký kết hợp đồng kiểm  
toán với khách hàng.
Trong ngành nghề  kiểm toán cũng có sự  cạnh tranh. Đối với công ty kiểm toán độc lập  
nguyên tắc hoạt động của nó là hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, cạnh tranh với các công ty  
kiểm toán độc lập khác để chiếm lĩnh thị trường và đạt được lợi nhuận tối đa. Như vậy việc  
có và giữ được một khách hàng có thể khó khăn nhưng kiểm toán viên vẫn cần cẩn trọng khi  
quyết định tiếp nhận khách hàng bởi vì rủi ro có thể phải gánh trách nhiệm pháp lý của kiểm 
toán viên rất cao. Do đó nếu nhận kiểm toán cho những khách hàng thiếu trung thực hoặc 
thường tranh luận về  phạm vi kiểm toán, giá phí hoặc vi phạm đạo đức nghề  nghiệp thì  
kiểm toán có thể gặp những bất lợi trong tương lai.Vì vậy trong giai đoạn chuẩn bị kế hoạch 
này kiểm toán viên phải thực hiện các công việc đó là: đánh giá khả  năng chấp nhận kiểm 
toán, nhận diện lý do kiểm toán của khách hàng, lựa chọn đội ngũ kiểm toán viên và ký hợp  
đồng kiểm toán.


Đánh giá khả  năng chấp nhận kiểm toán: Đây là công việc quan trọng trước khi chấp nhận  
một khách hàng mới hay quyết định có tiếp tục kiểm toán cho một khách hàng cũ. Kiểm toán 
viên phải tiến hành một số  công việc để  xem xét rủi ro kiểm toán mà công ty có thể  gặp 

phải:
– Thu thập và xem xét thông tin tài chính về khách hàng: giúp kiểm toán viên nhận định, đánh 
giá tình hình tài chính và công việc kinh doanh của khách hàng
– Trao đổi với kiểm toán viên tiền nhiệm: Nếu khách hàng này trước đây đã được kiểm toán 
bởi một công ty kiểm toán khác thì kiểm toán viên mới phải chủ động liên lạc với kiểm toán  
viên cũ về tính liêm chính của ban quản trị, những bất đồng giữa ban quản trị với kiểm toán 
viên cũ, xem xét hồ sơ kiểm toán của kiểm toán viên tiền nhiệm
– Đánh giá tính liêm chính của ban giám đốc Công ty khách hàng: Đây là một bộ  phận quan  
trọng của môi trường kiểm soát. Nếu ban giám đốc thiếu tính liêm chính thì khả năng báo cáo 
tài chính tồn tại nhiều sai phạm trọng yếu là rất cao và kiểm toán viên không thể dựa vào bất  
kỳ  bản giải trình nào cũng như  không thể  dựa vào sổ  sách kế  toán (đôi khi kiểm toán viên 
thấy rằng ban giám đốc thiếu tính liêm chính đến mức mà có thể  đưa ra quyết định từ  chối  
không tiến hành kiểm toán)
– Đánh giá khả năng thực hiện kiểm toán của công ty kiểm toán: xem xét khả năng, trình độ 
của nhân viên kiểm toán có thể  thực hiện được cuộc kiểm toán đối với khách hàng này 
không để  tránh những vụ  kiện tụng đối với công ty kiểm toán. Những vụ  kiện tụng này  
không chỉ  gây tổn thất về  mặt tài chính mà còn  ảnh hưởng lớn đến hình  ảnh và uy tín của  
công ty
– Xem xét tính độc lập của kiểm toán viên trong mối quan hệ với khách hàng Nhận diện các  
lý do kiểm toán của công ty khách hàng
Nhận diện các lý do kiểm toán của công ty khách hàng nhằm mục đích đánh giá quy mô phức 
tạp của công việc kiểm toán cần thực hiện từ đó đề  ra quyết định hợp lý trong việc ký kết 
hợp đồng kiểm toán và thiết kế phương pháp kiểm toán.
Khi tiến hành kiểm toán để biết được lý do kiểm toán của công ty khách hàng không có cách  
nào hiệu quả  hơn là phỏng vấn giám đốc khách hàng hoặc dựa vào kinh nghiệm của cuộc 


kiểm toán trước đó. Những thông tin có thể thu thập được là xác định người sử  dụng thông  
tin và mục đích kiểm toán của công ty khách hàng. Nếu như  báo cáo tài chính của công ty  
khách hàng là đối tượng quan tâm của nhiều người sử dụng thông tin chẳng hạn như báo cáo 

tài chính của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán thì mức độ trung thực, hợp lý của 
các thông tin trên BCTC được đòi hỏi càng cao và do đó số lượng cũng như chất lượng bằng 
chứng kiểm toán cần thu thập tăng lên. Chính vì vậy quy mô và độ phức tạp của cuộc kiểm  
toán sẽ càng tăng lên.
Lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán: để đảm bảo cuộc kiểm toán đạt được hiệu quả cao  
nhất đồng thời tuân thủ  các chuẩn mực kiểm toán phải có đội ngũ kiểm toán viên phù hợp  
cho từng cuộc kiểm toán cụ thể
Hợp đồng kiểm toán
Sau khi đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán cho công ty khách hàng và xem xét các vấn 
đề về lý do kiểm toán của khách hàng, lựa chọn đội ngũ kiểm toán viên công ty kiểm toán sẽ 
quyết định việc ký kết hợp đồng kiểm toán.
Theo chuẩn mực kiểm toán việt nam số  210­Hợp đồng kiểm toán, định nghĩa: “Hợp đồng 
kiểm toán là sự  thoả  thuận bằng văn bản giữa các bên tham gia ký kết (công ty kiểm toán, 
khách hàng) về các điều khoản và điều kiện thực hiện kiểm toán của khách hàng và công ty  
kiểm toán, trong đó xác định mục tiêu, phạm vi kiểm toán, quyền và trách nhiệm của mỗi  
bên, hình thức báo cáo kiểm toán, thời gian thực hiện và các điều khoản về phí, về xử lý khi  
tranh chấp hợp đồng”. Hợp đồng kiểm toán là thoả thuận chính thức giữa công ty kiểm toán 
và khách hàng về việc thực hiện kiểm toán và các dịch vụ liên quan khác.
Chuẩn mực kiểm toán việt nam số 210 cũng quy định: “Hợp đồng kiểm toán phải có các điều  
khoản chung của hợp đồng kinh tế theo quy định hiện hành, có thể thay đổi phù hợp với sự 
thoả thuận của các bên, nhưng phải bao gồm các yếu tố chủ yếu sau:
Số hiệu văn bản, ngày, tháng, năm ký hợp đồng;
Tên, địa chỉ, số tài khoản và ngân hàng giao dịch của các bên; Nội dung dịch vụ;
Chất lượng hoặc yêu cầu kỹ thuật của công việc..
Ngoài những yếu tố chủ yếu nói trên, hợp đồng kiểm toán còn có các nội dung sau:


Mục đích, phạm vi và nội dung kiểm toán hoặc dịch vụ khác;
Trách nhiệm của Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán trong việc lập và 
trình bày báo cáo tài chính

Trách nhiệm của khách hàng trong việc cung cấp chứng từ, tài liệu kế  toán và những thông  
tin khác liên quan đến công việc kiểm toán;..”
Trong hợp đồng, kiểm toán viên cần nêu rõ loại báo cáo kiểm toán được phát hành sẽ  tuỳ 
theo mức độ  trung thực và hợp lý và phù hợp với các chuẩn mực và chế  độ  kế  toán hiện 
hành. Đồng thời, cần khẳng định với đơn vị là kiểm toán viên không có trách nhiệm phát hiện 
mọi gian lận và sai sót.
2.2.2 Tìm hiểu về khách hàng kiểm toán
Sau khi ký kết hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên chuyển sang giai đoạn lập kế  hoạch 
kiểm toán. Để có thể xây dựng và thực hiện kế hoạch và chương trình kiểm toán hữu hiệu 
và hiệu quả, kiểm toán viên phải có hiểu biết đầy đủ về khách hàng chủ yếu là về tình hình  
kinh doanh và hệ thống kiểm soát nội bộ. Những hiểu biết này sẽ giúp kiểm toán viên hoạch  
định các thủ  tục kiểm toán phù hợp với đặc điểm hoạt động của đơn vị  nhất là giúp kiểm 
toán viên xác định được các khu vực có rủi ro cao để có những biện pháp thích hợp.
Chuẩn mực kiểm toán việt nam số 310­ Hiểu biết về tình hình kinh doanh – quy định: “Để 
thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải có hiểu biết đầy đủ về tình hình  
kinh doanh nhằm đánh giá và phân tích được các sự kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động 
của đơn vị  mà theo kiểm toán viên thì có  ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, đến  
việc kiểm tra của kiểm toán viên hoặc đến báo cáo kiểm toán..”
Những nội dung cần hiểu biết
Kiểm  toán viên  cần  đạt  được  sự   hiểu biết  trên  một phạm  vi rất  rộng,   bao  gồm  nhiều  
phương diện như sau:
– Hiểu biết chung về nền kinh tế như thực trạng nền kinh tế, m ức độ  lạm phát, các chính 
sách của chính phủ, biến động thị trường chứng khoán
– Hiểu biết về môi trường và lĩnh vực hoạt động của đơn vị  được kiểm toán như  tình hình  
thị trường và cạnh tranh, các đặc điểm của ngành nghề kinh doanh; chuẩn mực và chế độ kế 


toán có liên quan, sự thu hẹp hay mở rộng quy mô kinh doanh, rủi ro kinh doanh, các quy định  
của pháp luật và các chính sách chế dộ cụ thể có liên quan
– Hiểu biết về những yếu tố nội tại của đơn vị  được kiểm toán bao gồm những đặc điểm  

về sở hữu và quản lý, tình hình kinh doanh của đơn vị, khả năng tài chính của đơn vị..
Đặc điểm về sở hữu và quản lý:
– Hội đồng quản trị: số  lượng uỷ  viên và thành phần, uy tín và kinh nghiệm của từng cá 
nhân, sự tồn tại và phạm vi hoạt động của ban kiểm soát, sự tồn tại và tác động của quy chế 
hoạt động của đơn vị;
– Giám đốc và bộ máy điều hành(kinh nghiệm và uy tín, thu nhập, các chế độ  khuyến khích 
vật chất, khen thưởng và kỷ  luật, sử  dụng các  ước tính kế  toán và dự  toán, áp lực đối với  
giám đốc hoặc người đứng đầu);
– Loại hình doanh nghiệp(nhà nước, tư  nhân, cổ  phần, trách nhiệm hữu hạn, công ty liên 
doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài)
– Cơ cấu vốn
– Phạm vi hoạt động,
– Cơ sở sản xuất, kinh doanh chính và các chi nhánh, đại lý
– Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý
– Quan niệm và thái độ của Giám đốc đối với hệ thống kiểm soát nội bộ,
– Công ty kiểm toán và kiểm toán viên năm trước
Tình hình kinh doanh của đơn vị  (sản phẩm, thị  trường, các nhà cung cấp, chi phí, các hoạt 
động nghiệp vụ)
– Đặc điểm và quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh
– Các điều kiện sản xuất, kho bãi, văn phòng
– Sản phẩm, dịch vụ  và thị  trường (thí dụ: các khách hàng và hợp đồng chính, các đối thủ 
cạnh tranh, xuất khẩu, các chính sách giá cả, danh tiếng các mặt hàng, xu hướng, chiến lược  
và mục tiêu tiếp thị, quy trình sản xuất..)
– Các nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ  quan trọng (Thí dụ: mức độ   ổn định của nhà cung  
cấp, điều kiện thanh toán, các hình thức nhập khẩu..)


– Hàng tồn kho
– Các khoản chi phí quan trọng
– Luật pháp và các quy định có ảnh hưởng lớn đến đơn vị được kiểm toán

– Cơ cấu nợ vay
Khả năng tài chính: tình hình thanh toán và khả năng thanh toán của đơn vị được kiểm toán.
Phương pháp tìm hiểu
Để đạt được những hiểu biết như trên, kiểm toán viên phải thu thập và nghiên cứu tài liệu,  
tham quan đơn vị, phỏng vấn các cá nhân có liên quan và thực hiện phân tích sơ bộ.
Thu thập và nghiên cứu tài liệu về tình hình kinh doanh
Việc nghiên cứu tài liệu sẽ giúp kiểm toán viên có nhiều thông tin hữu ích về tình hình kinh 
doanh để  xem xét  ảnh hưởng của chúng đối với báo cáo tài chính của đơn vị. Dưới đây là 
một vài tài liệu cần thu thập và nghiên cứu:
– Điều lệ công ty và giấy phép thành lập (kiểm toán viên yêu cầu đơn vị cung cấp những bản  
sao của tài liệu này để  nghiên cứu vì điều lệ  giúp kiểm toán viên hiểu và xem xét về nhiều  
vấn đề như cơ cấu tổ chức, thể lệ họp cổ đông, thủ tục phát hành cổ phần, thể thức công bố 
về  cổ  tức..; giấy phép hay quyết định thành lập là tài liệu pháp lý chứng minh về  tư  cách  
pháp nhân của đơn vị, hiểu được về  mục tiêu hoạt động, các lĩnh vực kinh doanh hợp pháp  
của đơn vị)
– Báo cáo tài chính và các báo cáo kiểm toán, thanh tra hay kiểm tra của năm hiện hành và  
một vài năm trước
– Các biên bản họp Đại hội cổ  đông, Hội đồng quản trị  (hay Hội đồng thành viên) và Ban  
giám đốc: Đây là tài liệu tóm tắt về  những vấn đề  quan trọng đã được thảo luận và quyết  
định trong những cuộc họp. Nó bao gồm nhiều thông tin quan trọng như là quyết định về cổ 
tức, chuẩn y việc hợp nhất, giải thể các đơn vị trực thuộc, xét duyệt về việc mua bán các tài 
sản quan trọng, cho phép vay dài hạn..Nhờ  nghiên cứu chúng, kiểm toán viên sẽ  xác định  
những dữ kiện có ảnh hưởng đến việc hình thành các thông tin tài chính và trình bày báo cáo 
tài chính.


– Các hợp đồng hoặc cam kết quan trọng (giúp hình dung những khía cạnh pháp lý có  ảnh  
hưởng đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị)
– Các nội quy, chính sách của khách hàng: việc nghiên cứu này giúp kiểm toán viên xác định 
xem các quyết định của nhà quản lý có phù hợp với luật pháp, với chính sách hiện hành của 

công ty hay không và hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị
– Các tài liệu khác: các văn bản luật, chế độ, chính sách của Nhà nước có liên quan đến môi 
trường kinh doanh và những lĩnh vực hoạt động của đơn vị..
Xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước và hồ  sơ  kiểm toán chung: hồ  sơ kiểm toán  
năm trước có rất nhiều thông tin về khách hàng, về công việc kinh doanh, cơ cấu tổ chức và  
các đặc điểm hoạt động khác.
Khảo sát thực tế hoạt động của đơn vị
Nếu như  chỉ thu thập và nghiên cứu để  đưa ra những đánh giá, nhận xét về  hệ  thống kiểm  
soát nội bộ và tình hình hoạt động kinh doanh của đơn vị thì chưa đủ. Những gì diễn ra trong  
thực tế có thể khác những gì phản ánh trên tài liệu sổ sách, kế toán của đơn vị. Vì vậy, kiểm  
toán viên phải tận mắt quan sát các hoạt động của khách hàng. Để tận mắt quan sát về mọi 
hoạt động của khách hàng, kiểm toán viên cần phải tham quan nhà xưởng, kho tàng, cửa 
hàng, văn phòng làm việc.. của đơn vị. Điều này rất hữu ích vì sẽ  tạo cơ  hội để  kiểm toán  
viên:
– Tiếp cận và quan sát về thiết kế và vận hành của hệ thống kiểm soát nội bộ
– Bước đầu hình dung về hoạt động của các phân xưởng, cửa hàng, về  sản phẩm  dở  dang, 
về thiết bị.. nhờ đó kiểm toán viên hiểu hơn về tình hình hoạt động thực tế của khách hàng
Các vấn đề ghi nhận được khi quan sát sẽ giúp cho kiểm toán viên hiểu khái quát về phương  
thức sử dụng và bảo vệ  tài sản, sơ bộ  đánh giá hệ  thống kiểm soát nội bộ, giúp kiểm toán  
viên phát hiện ra những vấn đề nghi vấn từ đó xác định các trọng tâm kiểm toán.
Phỏng vấn
Kiểm toán viên có thể phỏng vấn người đứng đầu trong đơn vị hoặc các cán bộ chủ chốt tại 
các bộ  phận trong quá trình tham quan để  hiểu biết về  hệ  thống kiểm soát nội bộ  và tình 
hình kinh doanh của đơn vị.


Kiểm toán viên có thể yêu cầu đơn vị cử người có thẩm quyền để trình bày về tình hình của  
đơn vị, về hệ thống kiểm soát nội bộ, chính sách kinh doanh, cơ cấu tổ chức. Ngoài ra, trong  
quá trình tham quan, kiểm toán viên có thể  trực tiếp trao đổi với những cán bộ  chủ  chốt tại  
các bộ phận. Thí dụ như phỏng vấn trưởng phòng kỹ thuật về quy trình công nghệ, trao đổi 

với phòng vật tư về số lượng kho hàng, tình hình bảo quản vật tư hàng hoá; phỏng vấn nhân 
viên bán hàng về thể thức bán hàng, thu tiền Thực hiện thủ tục phân tích
Thủ tục phân tích áp dụng trong giai đoạn lập kế hoạch giúp xác định bản chất, nội dung các 
thủ tục kiểm toán, thời gian và phạm vi thực hiện các thủ tục kiểm toán
Thủ  tục phân tích trong giai đoạn lập kế  hoạch kiểm toán giúp cho kiểm toán viên hiểu rõ 
hơn về  tình hình hoạt động của khách hàng, phát hiện những biến động bất thường về  kế 
toán và hoạt động kinh doanh, qua đó giúp dự đoán về những khu vực có rủi ro cao. Ngoài ra 
còn giúp kiểm toán viên xác định các vấn đề  nghi vấn về  hoạt động liên tục của Công ty 
khách hàng.
2.2.3 Xác lập mức trọng yếu và đánh giá rủi ro kiểm toán Xác lập mức trọng yếu
Khi kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên có trách nhiệm bảo đảm hợp lý rằng báo cáo  
tài chính không có những sai lệch trọng yếu. Vì vậy, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, 
kiểm toán viên cần xác lập mức trọng yếu có thể chấp nhận được đối với các sai lệch phát 
hiện được (tức là xác định mức sai lệch tối đa cho phép).
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 200­ “Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm  
toán báo cáo tài chính”, giải thích: “Trọng yếu là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng  
của một thông tin (một số liệu kế toán) trong báo cáo tài chính”
Tính trọng yếu của thông tin phải được xem xét trên cả tiêu chuẩn định lượng và định tính.
Về mặt định lượng, được gọi là trọng yếu khi sai lệch trên báo cáo tài chính đạt đến một số 
tiền nhất định có thể  gây  ảnh hưởng đến quyết định của những người sử  dụng báo cáo tài 
chính
Về mặt định tính, kiểm toán viên phải nhận thức rằng có những trường hợp tuy sai lệch có 
giá trị  thấp nhưng do bản chất của nó nên có thể  vẫn gây  ảnh hưởng đến quyết định của 


người sử dụng báo cáo tài chính thí dụ như sai lệch có tác động dây chuyền, sai lệch là gian  
lận, sai lệch luỹ kế.
Xác định mức trọng yếu là vấn đề  thuộc xét đoán chuyên nghiệp của kiểm toán viên. Kiểm 
toán viên xác lập mức trọng yếu cho toàn bộ báo cáo tài chính và phân bổ mức trọng yếu đó  
cho từng khoản mục trên báo cáo tài chính

Xác lập mức trọng yếu trong giai đoạn lập kế  hoạch nhằm mục đích thiết lập các thủ  tục  
kiểm toán thích hợp để phát hiện những sai lệch có thể có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo  
tài chính. Thí dụ: khi xác lập mức trọng yếu thấp tức là sai lệch được phép khá nhỏ, kiểm 
toán viên phải mở rộng phạm vi kiểm tra cũng như tăng cỡ mẫu của các thử nghiệm cơ bản.
Đánh giá rủi ro
Khả  năng kiểm toán viên đưa ra nhận xét không xác đáng về  báo cáo tài chính được kiểm 
toán là điều có thể  xẩy ra (do những hạn chế tiềm tàng khi tiến hành kiểm toán như  kiểm 
toán viên chỉ lấy mẫu để kiểm tra, việc thu thập bằng chứng kiểm toán là do kiểm toán viên  
cần dựa vào đó để  thuyết phục chứ  không phải nhằm chứng minh số  liệu của báo cáo tài 
chính là tuyệt đối chính xác, sự xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên..). Vì vậy, trong giai 
đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải đánh giá rủi ro kiểm toán bao gồm rủi ro  
kiểm toán mong muốn, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nhằm xác định mức rủi ro phát  
hiện phù hợp. Trên cơ  sở  đó thiết kế  các thử  nghiệm kiểm toán thích hợp. (Ví dụ: đối với 
khoản mục mà rủi ro phát hiện chấp nhận được là thấp, kiểm toán viên cần tăng cường thử 
nghiệm chi tiết, mở rộng cỡ mẫu. Ngược lại, đối với khoản mục có thể cho phép mức rủi ro 
phát hiện cao, kiểm toán viên có thể  giảm bớt các thử  nghiệm cơ  bản và giảm cỡ  mẫu để 
tăng hiệu quả kinh tế )
Đánh giá rủi ro kiểm toán: kiểm toán viên xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn cho  
từng khoản mục.
Rủi ro kiểm toán là rủi ro do công ty kiểm toán và KTV đưa ra ý kiến nhận xét không thích 
hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu (Theo chuẩn mực  
kiểm toán việt nam số 400, mức rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định dựa vào hai yếu  
tố:


Mức tin tưởng vào BCTC của người sử dụng. Có thể xác định qua các thông tin như quy mô  
của công ty khách hàng, sự phân phối quyền sở hữu, bản chất và quy mô của công nợ  (quy 
mô càng lớn thì số lượng người sử dụng báo cáo tài chính càng nhiều. Nếu báo cáo tài chính  
càng được nhiều người sử dụng quan tâm và đặt niềm tin thì kiểm toán viên phải xác định  
một mức rủi ro kiểm toán thấp. Từ  đó phải tăng cường các thủ  tục kiểm toán và tăng số 

lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập và tăng độ chính xác của các kết luận kiểm toán)
Khả năng công ty khách hàng gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo tài chính và báo cáo 
kiểm toán được công bố. Có thể  cân nhắc các yếu tố  như: khả  năng chuyển đổi thành tiền  
của tài sản, các khoản lãi hoặc lỗ trong các năm trước, bản chất hoạt động của công ty khách  
hàng
Đánh giá rủi ro tiềm tàng
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 400, đoạn 04, định nghĩa: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro 
tiềm  ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa  
đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ  hoặc tính gộp mặc dù có hay không hệ  thống kiểm  
soát nội bộ”
Kiểm toán viên phải dựa vào việc xét đoán chuyên môn của mình để  đánh giá rủi ro tiềm 
tàng trên những nhân tố chủ yếu sau:
Bản chất kinh doanh của khách hàng (doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc đá quý thì khả năng  
xẩy ra các gian lận và sai sót đối với khoản mục tiền cao hơn là các đơn vị  sản xuất kinh  
doanh) Tính trung thực của ban giám đốc
Kết quả của các lần kiểm toán trước: đối với khoản mục được phát hiện có sai phạm trong 
các lần kiểm toán trước thì rủi ro tiềm tàng thường được xác định ở mức cao
Hợp đồng kiểm toán lần đầu và hợp đồng kiểm toán dài hạn
Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên: rủi ro tiềm tàng thường được đánh giá cao đối 
với khoản mục chứa đựng nhiều nghiệp vụ không thường xuyên này
Các ước tính kế toán
Số lượng tiền của các số dư tài khoản
Đánh giá rủi ro kiểm soát


Rủi ro kiểm soát là khả  năng xẩy ra các sai phạm trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng  
khoản mục trong báo cáo tài chính khi hệ  thống kiểm soát nội bộ  không ngăn ngừa, không  
phát hiện và sửa chữa kịp thời.
Rủi ro kiểm soát liên quan đến sự  yếu kém của hệ  thống kiếm soát nội bộ, do hệ  thống 
kiểm soát nội bộ không hoạt động hoặc hoạt động không có hiệu quả.

Đánh giá rủi ro phát hiện
Rủi ro phát hiện là khả  năng xẩy ra các sai phạm trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng  
khoản mục trong báo cáo tài chính mà trong quá trình kiểm toán kiểm toán viên và công ty  
kiểm toán đã không phát hiện được.
Rủi ro phát hiện có nguyên nhân từ chính các kiểm toán viên: từ nội dung, thời gian và phạm 
vi của các thử nghiệm cơ bản do kiểm toán viên thực hiện
Rủi ro phát hiện được xác định từ  ba loại rủi ro: rủi ro kiểm toán mong muốn, rủi ro tiềm  
tàng và rủi ro kiểm soát.
2.2.4 Xây dựng kế hoạch và thiết kế chương trình kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán bao gồm:
– Lập kế hoạch chiến lược
– Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể
– Thiết kế chương trình kiểm toán
Kế hoạch chiến lược
Kế hoạch chiến lược bao gồm các định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và phương pháp  
tiếp cận chung của cuộc kiểm toán do cấp chỉ  đạo vạch ra dựa trên hiểu biết về  tình hình 
hoạt động và môi trường kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
Theo chuẩn mực kiểm toán việt nam số 300­ lập kế hoạch kiểm toán­quy định:
“Kế hoạch chiến lược phải được lập cho các cuộc kiểm toán lớn về quy mô, tính chất phức  
tạp, địa bàn rộng hoặc kiểm toán báo cáo tài chính của nhiều năm..”
Như vậy khi cuộc kiểm toán có đặc điểm trên thì công ty kiểm toán phải lập kế hoạch chiến  
lược còn trong những cuộc kiểm toán khác thì không nhất thiết phải lập kế hoạch này.


Cuộc kiểm toán lớn về quy mô là cuộc kiểm toán báo cáo tài chính tổng hợp (hoặc báo cáo  
tài chính hợp nhất) của Tổng công ty, trong đó có nhiều công ty đơn vị  trực thuộc cùng loại 
hình hoặc khác loại hình kinh doanh
Cuộc kiểm toán có tính chất phức tạp là cuộc kiểm toán có dấu hiệu tranh chấp, kiện tụng 
hoặc nhiều hoạt động mới mà kiểm toán viên và công ty kiểm toán chưa có nhiều kinh  
nghiệm

Cuộc kiểm toán địa bàn rộng là cuộc kiểm toán của đơn vị  có nhiều đơn vị  cấp dưới nằm  
trên nhiều tỉnh, thành phố khác nhau, kể cả chi nhánh ở nước ngoài
Kiểm toán báo cáo tài chính nhiều năm là khi công ty ký hợp đồng kiểm toán cho một số năm 
tài chính liên tục
Kế hoạch kiểm toán tổng thể
Kế hoạch kiểm toán tổng thể  là việc cụ  thể hoá kế hoạch chiến lược và phương pháp tiếp  
cận chi tiết về nội dung, lịch trình và phạm vi dự kiến của các thủ tục kiểm toán.
Mục tiêu của kế hoạch kiểm toán tổng thể là để có thể thực hiện công việc kiểm toán một  
cách có hiệu quả và theo đúng thời gian dự kiến
Kế hoạch kiểm toán tổng thể thường bao gồm các nội dung sau:
Hiểu biết của kiểm toán viên về hoạt động kinh doanh của khách hàng
Hiểu biết của kiểm toán viên về hệ thống kiểm soát nội bộ
Xác lập mức trọng yếu và đánh giá rủi ro kiểm toán
Nội dung, thời gian và phạm vi của các thủ tục kiểm toán: bao gồm phương hướng áp dụng 
các kỹ thuật kiểm toán đối với những khoản mục chủ  yếu của báo cáo tài chính. Nội dung 
này có thể được trình bày dưới dạng một bảng phác thảo vắn tắt về các thủ  tục kiểm toán 
chủ yếu hoặc một bảng kế hoạch sơ bộ cho kiểm toán các khoản mục:
Sự  phối hợp, chỉ đạo, giám sát và kiểm tra: bao gồm việc dự kiến nguồn nhân lực và trách  
nhiệm của họ  trong cuộc kiểm toán; sự  tham gia của các chuyên gia; sự  tham gia của các 
kiểm toán viên khác đảm trách kiểm toán tại những đơn vị cấp dưới.
Các vấn đề khác: bao gồm những vấn đề như các điều khoản của hợp đồng kiểm toán, lịch 
trình thực hiện hợp đồng kiểm toán..


Chương trình kiểm toán
Chương trình kiểm toán là toàn bộ  những chỉ  dẫn cho kiểm toán viên và trợ  lý kiểm toán 
tham gia vào công việc kiểm toán và là phương tiện ghi chép, theo dõi, kiểm tra tình hình thực 
hiện kiểm toán. Chương trình kiểm toán chỉ  dẫn mục tiêu kiểm toán từng phần hành, nội  
dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán cụ  thể và thời gian ước tính cần thiết 
cho từng phần hành.

2.2. Thực hiện kế hoạch kiểm toán
Thực chất của quá trình kiểm toán là quá trình sử  dụng các thử  nghiệm kiểm toán để  thu 
thập đầy đủ  bằng chứng kiểm toán có chất lượng để  làm căn cứ  hợp lý đưa cho những ý  
kiến về bảng khai tài chính
Thực hiện kế hoạch kiểm toán là quá trình triển khai một cách chủ  động và tích cực các kế 
hoạch, chương trình kiểm toán nhằm đưa ra những ý kiến xác thực về mức độ trung thực và  
hợp lý của Bảng khai tài chính
Quyết định về  loại trắc nghiệm được sử  dụng phụ  thuộc vào kết quả  đánh giá độ  tin cậy 
của hệ thống kiểm soát nội bộ
Nếu KTV khẳng định không dựa vào hệ  thống kiểm soát nội bộ thì kiểm toán viên sẽ  triển 
khai sử dụng ngay các thử nghiệm cơ bản với số lượng lớn
Nếu KTV khẳng định có thể  dựa vào hệ  thống kiểm soát nội bộ  thì sử  dụng kết hợp thử 
nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản với số lượng ít hơn các nghiệp vụ
Nếu KTV đánh giá hệ  thống kiểm soát nội bộ  có độ  tin cậy cao thì bằng chứng kiểm toán 
thu thập được chủ yếu qua thử nghiệm kiểm soát kết hợp với một số ít thử nghiệm cơ bản
2.3 Thực hiện thử nghiệm kiểm soát
Sau khi tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ với đánh giá ban đầu là khách thể kiểm toán có 
hệ  thống kiểm soát nội bộ  hoạt động có hiệu lực thì kiểm toán viên thực hiện thử  nghiệm  
kiểm soát
Thử nghiệm kiểm soát (còn được gọi là thử nghiệm tuân thủ) là những thử nghiệm dùng để 
thu thập bằng chứng kiểm toán về  sự  hữu hiệu trong thiết kế  và vận hành của hệ  thống 
kiểm soát nội bộ.


2.4. Thực hiện thử nghiệm cơ bản
Thử  nghiệm cơ  bản là thử  nghiệm dùng để  thu thập bằng chứng về  những sai lệch trọng  
yếu trong báo cáo tài chính. Nó bao gồm thủ tục phân tích và thủ tục kiểm tra chi tiết.
Thực hiện thủ tục phân tích
Thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết: là việc thực hiện kiểm tra chi tiết  nghiệp vụ hay số 
dư tài khoản hoặc số phát sinh

Quá trình kiểm tra chi tiết bao gồm các công việc chính sau:
Lập kế hoạch để kiểm tra chi tiết : trong bước này bao gồm các công việc như xác định mục 
tiêu kiểm tra tức là thu nhận bằng chứng kiểm toán về  sai phạm trọng yếu trong các cơ  sở 
dẫn liệu thuộc các mục tiêu kiểm toán
Lựa chọn các khoản mục để kiểm tra chi tiết: khi không có đủ  thời gian để  tiến hành kiểm 
tra tất cả các nghiệp vụ và số dư (kiểm tra tất cả các khoản mục) thì kiểm toán viên có thể 
tiến hành chọn mẫu để kiểm tra. Khoản mục được chọn phải điển hình và đại diện hoặc là  
những khoản mục chính
Thực hiện các biện pháp kỹ thuật kiểm tra chi tiết trên các khoản mục được chọn: sau khi đã 
chọn ra được các khoản mục để  kiểm tra thì kiểm toán viên phải xác định kỹ  thuật kiểm 
toán nào được sử dụng để kiểm tra các khoản mục đó. Kỹ thuật kiểm toán thường được sử 
dụng là xác nhận và kiểm tra thực tế (kiểm kê)
Đánh giá kết quả  kiểm tra chi tiết: sau khi kiểm tra chi tiết, kiểm toán viên phát hiện ra  
những sai phạm về tài khoản và chức năng hoạt động của hệ  thống kiểm soát nội bộ. Sau  
khi kiểm tra kiểm toán viên cũng phát hiện ra những chênh lệch thì cần điều tra nguyên nhân 
và tính chất, xem xét chênh lệch đó có trọng yếu hay không để có quyết định điều chỉnh phù  
hợp
3. Kết thúc kiểm toán
Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán đóng vai trò quan trọng, là yếu tố đảm bảo cho một cuộc  
kiểm toán có chất lượng và hiệu quả, giai đoạn thực hiện kiểm toán là quá trình thu thập đầy 
đủ bằng chứng kiểm toán có chất lượng thì giai đoạn cuối cùng của quá trình kiểm toán cũng  
giữ  một vai trò quan trọng. Đây là giai đoạn kiểm toán viên phải đánh giá và tổng hợp các  


bằng chứng kiểm toán và đưa ra ý kiến nhận xét của mình về  báo cáo tài chính được kiểm  
toán, ý kiến nhận xét đó được trình bày trên báo cáo kiểm toán. Trong giai đoạn cuối cùng 
này một công việc quan trọng mà kiểm toán viên phải thực hiện là lập báo cáo kiểm toán.
3.1 Khái niệm kết thúc kiểm toán
Kết thúc kiểm toán thì kiểm toán viên phải thông báo kết quả kiểm toán của mình. Trong báo 
cáo kiểm toán thể hiện ý kiến nhận xét về báo cáo tài chính. Nội dung của các ý kiến kiểm 

toán có thể  khác nhau nhưng báo cáo kiểm toán phải cho người đọc thấy được những đánh 
giá của kiểm toán viên về tính trung thực và hợp lý của các thông tin phản ánh trên báo cáo tài  
chính xét trên khía cạnh trọng yếu, sự tuân thủ chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các văn 
bản pháp lý khi soạn thảo báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính được xem là trung thực khi nó 
phản ánh đúng thực trạng tài chính của đơn vị, đúng tình hình thực tế tại đơn vị. Báo cáo tài 
chính được xem là hợp lý khi thông tin trên báo cáo là trung thực là cần thiết, phù hợp về 
không gian, thời gian và sự kiện được nhiều người thừa nhận.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 700­ “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính”, đoạn 
06, định nghĩa: “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính là loại báo cáo bằng văn bản do kiểm 
toán viên và công ty kiểm toán lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về báo  
cáo tài chính của một đơn vị đã được kiểm toán”
3.2 Vai trò, ý nghĩa của báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán là sản phẩm của cuộc kiểm toán và nó có vai trò rất quan trọng đối với  
kiểm toán viên, đối với đơn vị được kiểm toán và đối với người sử dụng thông tin
Đối với kiểm toán viên, báo cáo kiểm toán là tài liệu trình bày các kết luận sau cùng về báo  
cáo tài chính được kiểm toán. Nó là sản phẩm của kiểm toán viên cung cấp cho xã hội và họ 
phải chịu trách nhiệm về ý kiến của mình.
Đối với người sử  dụng thông tin, báo cáo kiểm toán là căn cứ  để  đánh giá độ  tin cậy của  
thông tin trên báo cáo tài chính và từ đó đưa ra quyết định kinh tế đúng đắn.
Đối với đơn vị  được kiểm toán, báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần sẽ  góp phần làm 
tăng độ tin cậy của thông tin trên báo cáo tài chính


3.3 Trách nhiệm lập, trình bày và gửi báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
Kiểm toán viên và công ty kiểm toán có trách nhiệm lập báo cáo kiểm toán và trình bày ý  
kiến của mình về tính trung thực và hợp lý của các thông tin được trình bày trên báo cáo tài  
chính xét trên khía cạnh trọng yếu và về việc tuân thủ chuẩn mực, chế độ kế toán hiện hành  
cũng như các quy định pháp lý có liên quan
Phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu nghĩa là ý kiến của kiểm toán 
viên đưa ra trên báo cáo kiểm toán một sự đảm bảo chắc chắn rằng báo cáo tài chính đã phản 

ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu; nhưng không đảm bảo tuyệt đối rằng  
không có bất kỳ một sai sót nào trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán, kiểm toán viên chỉ 
quan tâm tới yếu tố trọng yếu của các báo cáo tài chính
Để  đảm bảo sự  thống nhất, trong kiểm toán độc lập chuẩn mực về  báo cáo kiểm toán về 
báo cáo tài chính được xây dựng. Các chuẩn mực này xác định những nội dung chính cần  
trình bày và các loại ý kiến mà kiểm toán viên có thể nêu ra trên báo cáo kiểm toán nhằm hạn 
chế tối đa các ngộ nhận có thể xẩy ra khi đọc báo cáo kiểm toán. Vì vậy nội dung, hình thức  
và kết cấu của báo cáo phải được trình bày theo đúng chuẩn mực kiểm toán về báo cáo kiểm  
toán.
Báo cáo kiểm toán được báo cáo cho: hội đồng quản trị  và cổ  đông; cho Ban giám đốc; cho 
các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác (thị trường chứng khoán) theo luật định.
3.4 Các yếu tố cơ bản của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
Một báo cáo kiểm toán bao gồm các yếu tố (phần ) cơ bản sau đây:
Tên và địa chỉ công ty kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ tên, biểu tượng, địa chỉ giao dịch, số điện thoại, số fax và số 
hiệu liên lạc khác của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán phát hành báo cáo chẳng hạn 
như Công ty Dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC). Ghi rõ tên địa chỉ để biết  
rõ ai là đơn vị kiểm toán báo cáo tài chính này, báo cáo kiểm toán là do công ty nào phát hành.
Nếu có từ 2 công ty kiểm toán trở lên cùng thực hiện một cuộc kiểm toán thì phải ghi đầy đủ 
các thông tin nêu trên của các công ty cùng ký báo cáo kiểm toán Số hiệu báo cáo kiểm toán  
về báo cáo tài chính


Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ số  hiệu phát hành báo cáo kiểm toán của công ty hoặc chi 
nhánh của công ty theo từng năm
Tiêu đề báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
Tiêu đề có thể là báo cáo kiểm toán, báo cáo kiểm toán về BCTC, báo cáo của KTV..Tiêu đề 
này giúp phân biệt báo cáo kiểm toán với các loại báo cáo do người khác lập
Người nhận báo cáo
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ người được nhận báo cáo kiểm toán phù hợp với hợp đồng 

kiểm toán. Người nhận có thể là hội đồng quản trị, giám đốc hoặc các cổ đông đơn vị được  
kiểm toán
Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ ngày, tháng, năm kết thúc toàn bộ công việc kiểm toán. Nó cho  
phép người sử dụng BCTC biết rằng KTV đã xem xét các sự kiện (nếu có) ảnh hưởng đến  
BCTC hoặc báo cáo kiểm toán cho đến ngày ký báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ địa điểm (tỉnh, thành phố) của Công ty hoặc chi nhánh công ty 
kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán
Ngày ký báo cáo kiểm toán không được ghi trước ngày Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn 
vị  ký báo cáo tài chính. Trường hợp báo cáo tài chính được điều chỉnh  và lập lại trong quá 
trình kiểm toán thì ngày ký báo cáo kiểm toán được phép ghi cùng ngày với ngày ký báo cáo 
tài chính
Chữ ký và đóng dấu
Báo cáo kiểm toán phải ký rõ tên của KTV đã đăng ký hành nghề kiểm toán ở  Việt nam, và 
ký rõ tên của Giám đốc(giám đốc của công ty kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo). 
Dưới mỗi chữ ký phải ghi rõ tên, số hiệu đăng ký hành nghề kiểm toán ở Việt nam.
Trên chữ  ký của Giám đốc (hoặc người được uỷ  quyền) phải đóng dấu của công ty (hoặc  
chi nhánh) chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Giữa các trang của báo cáo kiểm  
toán và báo cáo tài chính đã được kiểm toán phải đóng dấu giáp lai


×