Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Cải thiện phát âm về âm nối và âm rút gọn của sinh viên không chuyên tại Trường Đại học Sài Gòn bằng các bài nhạc pop tiếng Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.07 KB, 10 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 14 (39) - Tháng 3/2016

Cải thiện phát âm về âm nối và âm rút gọn của
sinh viên khơng chun tại Trường Đại học Sài Gòn
bằng các bài nhạc pop tiếng Anh
Improving liaisons and elisions through English pop songs for non English
majored students at Sai Gon University
ThS. Võ Thúy Linh
Trường Đại học Sài Gòn
M.A. Vo Thuy Linh
Sai Gon University
Tóm tắt
Phương pháp dạy phát âm về âm nối (liaisons) và âm rút gọn (elisions) qua nhạc pop tiếng Anh (English
pop songs) sau 9 tuần thực nghiệm có khả năng cải thiện kỹ năng phát âm của sinh viên. Chủ thể nghiên
cứu là nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Mỗi nhóm là 30 sinh viên được chọn từ 423 sinh viên
năm 2 hệ cao đẳng ngành Giáo dục Tiểu học Trường Đại học Sài Gòn. Tư liệu để dạy thực nghiệm là 9
bài nhạc pop tiếng Anh được thiết kế theo 3 dạng bài tập C-Test, Cloze-Test và Gap fill ngay trên lời
bài hát. Sinh viên vừa nghe nhạc vừa tìm ra các đáp án đúng chứa các âm nối và âm rút gọn. Phương
pháp nghiên cứu định lượng được vận dụng để thu thập số liệu từ pre-test và post-test.
Từ khố: âm nối, âm rút gọn, nhạc pop tiếng Anh, thực nghiệm…
Abstract
The method of teaching liaisons and elisions through English pop songs can help to improve students’
pronunciation. The research subjects were divided into an experimental group and a controlled group.
Each group has 30 students chosen from 423 college sophomores of the primary education major of Sai
Gon University. The experimental materials were nine English pop songs with exercises on the lyrics
with three kinds of exercises like C-Test, Cloze-Test and Gap fill. The participants listened and at the
same time looked for the answers to liaisons and elisions. The quantitative approach was used to collect
the data from pre-test and post-test.
Key words: liaisons, elisions, English pop songs, experimental…



sinh viên nói chung mắc lỗi phát âm nhiều.
Sinh viên Trường Đại học Sài Gòn nói
riêng, và đặc biệt là sinh viên khơng
chun, kỹ năng nghe nói của họ rất thấp.
Kết quả điểm số các buổi chấm thi và kiểm
tra kỹ năng phát âm của sinh viên khơng

1. Đặt vấn đề
Dạy tiếng Anh qua bài hát là một kỹ
thuật thơng dụng, nhưng nghiên cứu để
ứng dụng dạy phát âm tại Trường Đại học
Sài Gòn là một vấn đề cần quan tâm. Qua
quan sát thực tế cho thấy rằng hiện nay
57


chuyên chỉ đạt khoảng 5% phát âm đúng, tỉ
lệ sinh viên đạt điểm 0 xấp xỉ 36%, số còn
lại hầu như là điểm dưới trung bình. Ngoài
việc phát âm sai nguyên âm (vowels), phụ
âm (consonants), trọng âm (stress), ngữ
điệu (intonation),… âm nối (liaisons) và
âm rút gọn (elisions) là 2 loại âm mà sinh
viên mắc phải trầm trọng nhất. Đây là
nguyên nhân gây cho việc học và thực
hành kỹ năng giao tiếp của họ bằng tiếng
Anh bị hạn chế.
Phương pháp dạy truyền thống như ghi
chép lên bảng, yêu cầu sinh viên lặp lại

theo cách đọc của giáo viên mà không tự
học hoặc luyện tập nhiều chưa thật sự phù
hợp và hiệu quả tại các lớp học tiếng Anh
hiện nay. Lý do là phương cách dạy như
thế không giúp sinh viên nhớ lâu và chưa
khơi dậy được tinh thần học tập tích cực
của sinh viên bởi sinh viên cảm thấy chán
nản và buồn ngủ với việc luôn phải làm
theo sự điều khiển của giáo viên.
Từ những vấn đề của việc dạy và học
phát âm nói trên, một phương pháp mới
sáng tạo hơn trong việc dạy phát âm cần
được đề xuất. Và bài viết này nhằm giới
thiệu một giải pháp mới góp phần để giải
quyết vấn đề phát âm của sinh viên và cung
cấp cho giáo viên thêm một cách dạy phát
âm phù hợp mang lại hiệu quả hơn và có
khả năng kích thích được tinh thần học
phát âm của sinh viên hơn với tựa đề "Cải
thiện phát âm về âm nối (liaisons) và âm
rút gọn (elisions) của sinh viên không
chuyên tại Trường Đại học Sài Gòn bằng
các bài nhạc pop tiếng Anh".
2. Cơ sở lý luận của việc dạy âm nối
và âm rút gọn qua nhạc Pop tiếng Anh
Stevick (1978: 145) định nghĩa rằng
"Phát âm là phương tiện chính mà qua đó
chúng ta sử dụng ngôn ngữ để tạo sự chú ý
của người khác. Nó là một quá trình vật
chất hóa các tính năng liên quan đến hệ


thống âm thanh/âm vị, cấu trúc âm tiết, âm
điệu (trọng âm và ngữ điệu) trong khi
những thông điệp bằng lời nói được hình
thành". Kiến thức về phát âm rất đa dạng
và quan trọng với nhiều thành tố tạo thành
như phụ âm (consonants), nguyên âm
(vowels), trọng âm (stress), âm điệu
(rhythms), ngữ điệu (intonation), âm nối
(liaisons), âm rút gọn (elisions),... Tuy
nhiên, trong bài viết này âm nối và âm rút
gọn được nghiên cứu và giới thiệu.
Theo Cook (2013), âm nối là âm thanh
được phát ra từ việc nối lại giữa hai âm gần
nhau. Âm nối được xem như là một sự liên
kết và tạo ra từ âm liên kết giữa phụ âm
cuối của một từ và nguyên âm đầu của từ
cạnh sau nó. Brinton (2009) nhận thấy nếu
người học thực hành tốt các âm nối thì họ
dễ dàng thông thạo kỹ năng nghe nói trong
tiếng Anh. Âm rút gọn được Roach (2009)
phát biểu là âm thanh đầy đủ của một số từ
bị biến mất hay được nhập gọn lại ở một số
cụm từ trong tiếng Anh (tr.113). Ví dụ:
we’ll (we will), he’s (he is/he has), I’d (I
would). Ông cũng nói rằng việc học âm rút
gọn thật sự cần thiết vì lưu loát âm rút gọn
rất quan trọng trong giao tiếp với người
bản xứ.
Ngoài ra, thực tế giao tiếp bằng tiếng

Anh cho thấy rằng âm nối và âm rút gọn
rất hay nhưng rất khó và cần được chú
trọng nghiên cứu nhiều. Bởi vì âm nối là
âm của 2 từ riêng biệt gần nhau nối kết lại
với nhau (ví dụ: like it /laik it/, think about
you /θiηk ə'baut ju:/) giúp cho câu được
mượt mà dễ phát âm hơn và chuyên nghiệp
hơn. Âm rút gọn là dạng một cụm 2-3 từ
(ví dụ: I’ve (I have), Let’s (let us)) được rút
gọn lại thành một âm để làm cho câu nói
gọn gàng hơn. Tuy nhiên, cả 2 loại âm này
đều rất khó để người học nhận ra dù với
tốc độ nói không quá nhanh. Hơn nữa, các
âm nối và âm rút gọn sẽ tạo ra cách phát
58


âm đã được liên kết và tĩnh lược không
giống với phiên âm quốc tế của các từ.
Điều này đòi hỏi người học phải luyện tập
nhiều và tinh tế nhận ra những âm nối và
âm rút gọn, có như thế thì kỹ năng nghe,
nói mới đạt yêu cầu, khả năng giao tiếp
mới thành công.
Về cách thức dạy các âm nối cũng
được Brinton (2009) đề cập là chú ý các
âm liền kề đặc biệt của các từ trong câu,
cũng như Murcia và Marianne (1996) đề
nghị phương thức dạy âm nối và âm rút
gọn là giao nhiệm vụ cho người học đọc

các câu và gợi ý để người học lưu ý phát
âm qua bốn yếu tố: (1) vị trí ổ răng và lưỡi
(letter), (2) các vần nối (C_V), (3) giảm
nguyên âm trong âm tiết không nhấn, và
(4) đơn giản hóa cụm phụ âm.
Theo từ điển Macmillan, nhạc pop
tiếng Anh được hiểu như một loại âm nhạc
chơi bằng nhạc cụ điện tử và rất phổ biến
với nhiều người. Nhạc pop gồm các bài hát
ngắn với lời nhạc sâu lắng và giai điệu đơn
giản mà dễ nhớ. Lamb (2014) cũng đồng ý
rằng nhạc pop, là loại nhạc phổ thông chủ
đạo thời gian xuất hiện từ khoảng 1950.
Nhạc pop rất phổ biến, có giai điệu du
dương và dễ đi vào lòng người như Take
me to your heart, Give a little love, Miss
you, Only love, ...
Việc dạy phát âm qua bài hát tiếng
Anh cũng đã được nhiều nhà khoa học
nghiên cứu và thể hiện quan điểm tích cực
về phương pháp này. Nambiar (1993) cho
rằng nhạc pop tạo động lực học tập cho
người học trẻ vì âm nhạc có khả năng khơi
dậy cảm xúc và khiến họ sẵn sàng hát theo
lời bài hát, qua đó học được cách phát âm
(tr. 336). Nhạc pop quen thuộc và có sức
hút giải trí mạnh đến giới trẻ (Dubin,
1975). Vì vậy, nhạc pop như một cánh cửa
hướng đến ngôn ngữ mục tiêu mà người
học muốn đạt được (Cheung, 2001). Theo


Gatson (1968), âm nhạc mang nhiều lợi ích
trong việc thúc đẩy tinh thần và tạo nên sự
tự mãn cho người nghe. Bên cạnh đó, nhịp
điệu của âm nhạc có tiềm năng độc đáo để
làm tăng năng lượng cho người nghe khiến
họ chú ý hơn, thích thú hơn để tiếp cận.
Hơn nữa, nhạc pop có thể cung cấp nguồn
thư giãn tinh thần cho người học và sự mới
lạ trong việc truyền đạt kiến thức của
người dạy (Võ Thúy Linh, 2015). Vì vậy,
nhạc pop cung cấp công cụ giảng dạy hiệu
quả tại các lớp ngôn ngữ (Griffee, 2010).
Từ các lý thuyết đã nêu, việc dạy kỹ năng
ngôn ngữ cho người học qua bài hát là vấn
đề được nhiều quan điểm đồng thuận từ
các nhà khoa học. Thật vậy, vấn đề dạy kỹ
năng ngôn ngữ qua bài nhạc tiếng Anh đã
có nhiều nhà nghiên cứu trước đó thực hiện
như Lại Thanh Tình (2010), Engh (2013).
Salcedo (2010), và Tavil & Isisag (2009).
Các nhà khoa học này ủng hộ việc sử dụng
bài hát như một công cụ giảng dạy tại các
lớp học ngôn ngữ bởi âm nhạc vừa mang
tính giải trí vừa có tính học thuật, có thể
giúp người học vừa thưởng thức và tiếp thu
kiến thức tốt. Họ đã minh chứng quan điểm
chung này bằng những nghiên cứu về vận
dụng bài hát để dạy phát âm về nguyên âm,
phụ âm, từ vựng, ngữ pháp tiếng Anh...

Tuy nhiên, phương pháp dạy âm nối và âm
rút gọn bằng nhạc pop tiếng Anh vẫn chưa
được những nhà khoa học này và các công
trình nghiên cứu khác đề cập nhiều. Vì vậy,
bài viết này sẽ bàn về phương pháp dạy
phát âm qua các bài nhạc pop và âm nối và
âm rút gọn trong tiếng Anh là hai thành tố
được tác giả chọn để tiến hành thực
nghiệm. Câu hỏi nghiên cứu của vấn đề
được đặt ra như sau:
Việc sử dụng nhạc pop tiếng Anh để
dạy phát âm âm nối và âm rút gọn làm cải
thiện kỹ năng phát âm của người học ở
mức độ nào?
59


3. Phương pháp nghiên cứu và thiết kế
thực nghiệm
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Chương trình thực nghiệm được tiến
hành trong 9 tuần nằm trong khung thời
gian của học kỳ I năm học 2014-2015 tại
Trường Đại học Sài Gòn. Mẫu được chọn
là 2 nhóm sinh viên chuyên ngành Giáo
dục Tiểu học hệ cao đẳng. Mỗi nhóm gồm
có 30 sinh viên, 1 nhóm là nhóm thực
nghiệm được áp dụng dạy thực nghiệm âm
nối và âm rút gọn qua các bài nhạc pop.
Nhóm còn lại là nhóm đối chứng được dạy

phát âm theo chương trình sách giáo khoa.
Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên ra 2
nhóm từ 14 nhóm tổng cộng gồm 423 sinh
viên. Sinh viên tham gia đảm bảo các điều
kiện cùng độ tuổi và trình độ về phát âm
căn cứ vào kết quả các bài kiểm tra và các
bài thi về phát âm của trường từ học kỳ
trước. Thông tin về năm sinh cung cấp độ
tuổi của sinh viên được cung cấp từ Phòng
Đào tạo qua các danh sách lớp học.
Phương
pháp
thực
nghiệm
(experimental research) được sử dụng
trong bài nghiên cứu này là loại hình
nghiên cứu và đo lường hiệu quả của việc
áp dụng các thử nghiệm trên các nhóm
(Seliger và Shohamy, 1989). Tiếp thu quan
điểm của Parkinson và Drislane (2011), tác
giả sử dụng phương pháp định lượng để
thu thập và phân tích số liệu từ kết quả của
bài kiểm tra đầu (pre-test) và cuối khóa
(post-test). Để chương trình thực nghiệm
được tiến hành, tác giả đã thiết kế thực
nghiệm như sau:
Công cụ để lấy dữ liệu là bài kiểm tra
đầu khóa (pre-test) và bài kiểm tra cuối
khóa (post-test). Tài liệu để dạy thực
nghiệm là 9 bài nhạc pop tiếng Anh, bao

gồm các bài Proud of you, Miss you, Only
love, Give a little love, The day you went
away, Take me to your heart, That is love,

Cry on my shoulder và Happy new year.
Trước khi chương trình thực nghiệm
được bắt đầu, sinh viên của cả 2 nhóm sẽ
làm bài kiểm tra đầu khoá (pre-test). Pretest được thực hiện vào đầu chương trình là
để tác giả đo và đảm bảo trình độ của 2
nhóm là như nhau. Cấu trúc pre-test và
post-test giống nhau gồm 2 phần nhận dạng
(Recognition) có 26 mục trắc nghiệm và
phát âm (Production) có 14 mục. Mục đích
của tác giả là để kiểm tra trình độ và kỹ
năng của người học trong nhận thức và
thực hành phát âm tiếng Anh theo từ và
câu. Khi chương trình dạy thực nghiệm kết
thúc, sinh viên của 2 nhóm làm bài kiểm
tra cuối (post-test) để giáo viên thu thập số
liệu, so sánh kết quả và tìm ra sự khác biệt
giữa 2 nhóm sau thực nghiệm.
3.2. Thiết kế thực nghiệm
Giáo viên là người thực tiếp thiết kế
chương trình và dạy thực nghiệm cho cả 2
nhóm thực nghiệm và đối chứng. Chương
trình thực nghiệm được thực hiện như sau:
3.2.1. Quy trình thiết kế tài liệu giảng dạy
của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng
Đầu tiên, giáo viên soạn một giáo án
riêng để dạy phát âm các âm nối và âm rút

gọn bằng 9 bài nhạc pop cho 9 buổi dạy
thực nghiệm. Lời bài hát đựợc in ra giấy và
được thiết kế bỏ trống các từ hoặc ký tự
chứa các âm nối và âm rút gọn theo 3 dạng
bài tập C-Test (bỏ trống một nữa từ), Cloze
test (bỏ trống trọn 1 từ) và gap fill (trống
1từ, trắc nghiệm với 3 đáp án) tương ứng
mỗi dạng bài tập ứng với 3 bài hát. Các bài
nhạc pop được chọn là những bài hát tiếng
Anh phổ biến và quen thuộc với người học.
Các bài hát được sắp xếp xen kẻ để xuất
hiện đều đặn lần lượt 3 dạng bài tập C-Test
- Cloze test - Gap fill với thứ tự bài hát từ
rất quen thuộc, giai điệu trầm bổng nhẹ
nhàng đến những bài hát ít quen thuộc hơn,
có nhịp điệu nhanh hơn. Mỗi bài hát được
60


lược bỏ 10 chổ trống tại các vần, các kí tự,
các từ có chứa các âm nối và âm rút gọn.
Mỗi sinh viên nhóm thực nghiệm ở mỗi
buổi sẽ nghe bài hát 2 lần, vừa nghe vừa
hoàn thành bài tập trên lời bài hát. Giáo
viên cung cấp kiến thức về âm nối và âm
rút gọn cho sinh viên dựa vào các đáp áp
đúng của các bài tập trên lời bài hát. Sau
đó, giáo viên yêu cầu sinh viên tìm thêm
các ví dụ khác để thực hành tại lớp các từ,
cụm từ chứa âm nối và âm rút gọn trên lời

bài hát. Lý do giáo viên muốn lấy các ví dụ
ngay trên lời bài hát là để sinh viên nhận
biết các từ, cụm từ chứa âm nối và âm rút
gọn tương tự có sẵn và đảm bảo việc thực
nghiệm phát âm của giáo viên và sinh viên
được nghiêm túc thực hiện trên một tài liệu
duy nhất là nhạc pop.
Đối với nhóm đối chứng, giáo án dạy
phát âm trong 9 tuần đươc giáo viên soạn
theo chương trình sách giáo khoa
International Express (new edition) of
Keith Harding & Liz Taylor, Oxford
University Press. Các bài 5, 6, 7 và 8 là 4
trong 12 bài được giáo viên dạy thực
nghiệm. Kiến thức về phát âm âm nối và
âm rút gọn trong 4 bài học được giáo viên
chia đều để dạy trong 9 buổi học. Tuy
nhiên, việc phân bổ kiến thức về các thành
tố phát âm trong sách cũng như trong 4 bài
học này là không đồng đều và đầy đủ. Điều
này đòi hỏi người dạy thực nghiệm phải tư
duy để nhóm đối chứng sắp xếp 1 chương
trình dạy phát âm hợp lý cân bằng về thời
lượng đối với nhóm thực nghiệm. Về
phương pháp dạy được giáo viên áp dụng
kỹ thuật dạy thông thường, sinh viên thực
hiện theo những gì giáo viên hướng dẫn và
ghi chép.
3.2.2. Tiến trình thực hiện
Tiến trình thực hiện chương trình thực

nghiệm trong 11 tuần. Tuần 1: Sinh viên
làm pre-test. Tuần 2 đến tuần 10: giáo viên

dạy thực nghiệm cả 2 nhóm. Tuần 11: sinh
viên làm bài kiểm tra cuối.
Tiến trình thực hiện đối với nhóm
thực nghiệm:
Bước 1: Giáo viên phát lời bài hát có
chứa bài tập đến từng sinh viên.
Bước 2: Giáo viên hướng dẫn cách
làm bài tập đối với từng dạng bài tập CTest, Cloze test hoặc Gap fill.
Bước 3: Giáo viên bật máy nghe trình
phát 2 lần bài nhạc pop tiếng Anh cần dạy
của từng buổi.
Bước 4: Sinh viên vừa nghe nhạc vừa
làm bài tập.
Bước 5: Giáo viên gọi 1 sinh viên bất
kì lên bảng ghi đáp án.
Bước 6: Giáo viên sửa các đáp án và
yêu cầu sinh viên phát âm theo giáo viên.
Bước 7: Giáo viên tiến hành dạy âm nối
và âm rút gọn trên các từ, cụm từ đáp án.
Bước 8: Giáo viên yêu cầu sinh viên
phát âm lại tất cả các đáp án và tìm ví dụ
khác tương tự có chứa âm nối và âm rút
gọn ngay trên lời bài hát.
Bước 9: Giáo viên yêu cầu sinh viên tự
phát âm các ví dụ vừa tìm và sửa lỗi phát
âm cho sinh viên.
Bước 10: Giáo viên cho sinh viên thời

gian ghi chép và ôn tập phát âm lại tất cả
các từ cum từ chứa âm nối và âm rút gọn
trong buổi thực nghiệm.
Tiến trình thực hiện đối với nhóm
đối chứng:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu bài học
phát âm của buổi học
Bước 2: Giáo viên viết các từ chứa các
âm nối, âm rút gọn lên bảng và đọc to 3 lần.
Bước 3: Giáo viên yêu cầu sinh viên
đọc theo giáo viên.
Bước 4: Giáo viên ghi thêm từ 2-3 ví
dụ các từ tương tự và đọc to.
Bước 5: Giáo viên yêu cầu sinh viên tự
đọc và giáo viên sửa lỗi.
61


Bước 6: Giáo viên yêu cầu sinh viên
làm việc theo cặp và tập luyện phát âm các
từ và các cụm từ đã dạy.
Bước 7: Giáo viên yêu cầu sinh viên tự
luyện tập phát âm các từ đã học tại nhà.
Các số liệu từ kết quả thực nghiệm sẽ
được phân tích và so sánh bằng thuật toán
ANOVA của phần mềm xử lý số liệu SPSS
để biết được sự khác biệt về phát âm của
sinh viên 2 nhóm giữa trước và sau chương
trình thực nghiệm. Chỉ số Sig (2 tailed) nếu
lớn hơn 0.05 thì kết quả sau thực nghiệm

không có gì khác biệt so với ban đầu. Ngược
lại, nếu chỉ số Sig (2 tailted) nếu nhỏ hơn
0.05 thì kết quả phát âm trước và sau thực

nghiệm là có sự khác biệt về trình độ phát
âm về âm nối và âm rút gọn giữa 2 nhóm.
4. Kết quả và thảo luận
Để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu
“Việc sử dụng nhạc pop tiếng Anh để dạy
phát âm âm nối và âm rút gọn làm cải thiện
kỹ năng phát âm của người học ở mức độ
nào?", kết quả pre-test và post-test được
phân tích và so sánh tìm ra sự khác biệt
giữa hai nhóm trước và sau khi thực
nghiệm. Qua đó, mức độ sinh viên cải thiện
được trong kỹ năng phát âm cũng được xác
định. Kết quả của pre-test được thể hiện
qua biểu đồ sau:

Bảng 1. Tỉ lệ đáp án đúng âm nối và âm rút gọn của nhóm thực nghiệm và nhóm đối
chứng từ kết quả của bài kiểm tra đầu (pre-test).
Loại âm

Âm nối

Âm rút gọn

Nhóm thực
nghiệm


Nhóm đối
chứng

Nhóm thực
nghiệm

Nhóm đối
chứng

Nhận thức
(recognition)

15%

18%

16%

16%

Thực hành
(production)

12%

10%

12%

12%


Nhóm
Hình thức

Bảng 2. So sánh kết quả bài kiểm tra đầu khoá (pre-test) về âm nối và âm rút gọn của
nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm
Independent Samples Test
Levene's
Test for
Equality of
Variances
F
Sig.

t-test for Equality of Means

T

Df

Equal
So_sanh_nhan variances
1.448 .234 .317 58
_thuc_am_noi assumed
_va_am_rut_g
on_hai_nhom Equal
.317 55.153
_trong_pretest variances
not assumed


62

Sig.
Mean
Std. Error 95% Confidence
(2-tailed) Difference Difference Interval of the
Difference
Lower Upper
.753

.10000

.31568

-.53191 .73191

.753

.10000

.31568

-.53260 .73260


Từ bảng 1, tỉ lệ câu trả lời đúng về
nhận thức âm nối của nhóm thực nghiệm
của nhóm đối chứng là 18%, âm rút gọn
của 2 nhóm đều đạt 16%. Số phần trăm
đáp án đúng của phần thực hành phát âm

âm nối và âm rút gọn của nhóm thực
nghiệm đều là 12%, của nhóm đối chứng
là 10% và 12%. Các tỉ lệ thấp này cho
thấy trình độ phát âm về âm nối và âm rút
gọn của sinh viên 2 nhóm rất hạn chế. Hầu
hết sinh viên gặp khó khăn khi nghe và
nói tiếng Anh vì họ không thể nhận ra và
phát âm các âm rút gọn và âm nối. Hầu
như tỉ lệ phần trăm của các nhóm hầu như

không chênh lệch nhau và đều rơi vào tình
trạng chưa đạt 20%. Điều này cho thấy
trình độ phát âm về âm nối và âm rút gọn
của sinh viên 2 nhóm là hạn chế như nhau.
Chỉ số Sig (2 tailed) ở bảng số 2 là 0.753
lớn hơn 0.05, điều này nói lên rằng kỹ
năng và trình độ phát âm của 2 nhóm thể
hiện qua pre-test là không có sự khác biệt.
Kết quả này thoã điều kiện nghiên cứu
ban đầu vì trình độ sinh viên ngang nhau,
tính khách quan trong nghiên cứu được
đảm bảo.
Kết quả bài kiểm tra cuối (post-test)
được trình bày như sau:

Bảng 3. Tỉ lệ đáp án đúng âm nối và âm rút gọn của nhóm thực nghiệm và nhóm đối
chứng từ kết quả của bài kiểm tra cuối (post-test).
Loại âm

Âm nối


Âm rút gọn

Nhóm thực
nghiệm

Nhóm đối
chứng

Nhóm thực
nghiệm

Nhóm đối
chứng

Nhận thức
(recognition)

50%

21%

44%

18%

Thực hành
(production)

23%


8%

40%

18%

Nhóm
Hình thức

Bảng 4. So sánh kết quả bài kiểm tra cuối khoá (post-test) về âm nối và âm rút gọn
của nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm
Independent Samples Test
Levene's
Test for
Equality
of
Variances
F

So_sanh_n
han_thuc_a
m_noi_hai_
nhom_tron
g_posttest

Sig.

t-test for Equality of Means


T

Df

Equal
variances
1.150 .288 -4.969
58
assumed
Equal
variances not
-4.969 56.347
assumed

63

Sig.
Mean
Std. Error
(2-tailed) Difference Difference

95% Confidence
Interval of the
Difference
Lower Upper

.000

-.86667


.17442

-1.21580 -.51753

.000

-.86667

.17442

-1.21602 -.51731


Sự chênh lệch về số phần trăm câu trả
lời đúng cả về nhận thức và thực hành phát
âm âm nối và âm rút gọn rất rõ ràng qua
các số. Cụ thể là nhóm thực nghiệm đạt số
đáp án đúng phần nhận biết âm nối là 50%
và âm rút gọn là 44%. Phần thực hành phát
âm của âm nối là 23% và âm rút gọn là
40%, trong khi nhóm đối chứng chỉ đạt
21% âm nối và 18% âm rút gọn ở phần
nhận thức. Về phần thực hành, âm nối đạt
chỉ 8%, thấp hơn con số ở pre-test 2% và
đạt 18% đáp án đúng phần thực hành âm
rút gọn. Khi so sánh với kết quả của 2
nhóm ở pre-test, ta thấy kết quả của nhóm
thực nghiệm tiến bộ khá nhiều với số phần
trăm câu trả lời đúng về nhận thức là 35%
âm nối và tăng 28% âm rút gọn.

Về phần thực hành phát âm âm nối
tăng 11% và âm rút gọn tăng lên 28%. Đặc
biệt ở bài kiểm tra cuối, nhóm thực hành
tăng cao hơn nhóm đối chứng về nhận biết
âm nối (29%), âm rút gọn (26%). Phần
thực hành, nhóm thực nghiệm tăng 15%
đáp án đúng về âm nối và tăng 27% của âm
rút gọn. Các con số tăng vọt từ mức thấp
dưới 20% lên đến gần 50%, từ 8% lên đến
23%. Những con số này chưa cao nhưng
với sự tăng vượt hầu hết là 50% số phần
trăm ban đầu. Kết quả tăng vọt như thế thể
hiện rằng kỹ năng và trình độ phát âm của
sinh viên nhóm thực nghiệm sau khi được
học phát âm bằng các bài nhạc pop đã được
cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, việc phát âm
về âm nối và âm rút gọn vẫn còn là thách
thức đối với sinh viên nhóm đối chứng.
Hầu như số đáp án đúng ở cả phần nhận
thức và thực hành đều không tăng, thậm
chí còn giảm 2% so với kết quả thực hành
phát âm nối ở pre-test.
Kết quả cho thấy chương trình dạy
phát âm theo sách giáo khoa không làm
thay đổi kỹ năng phát âm về âm nối và âm

rút gọn trong tiếng Anh một cách tích cực
hơn. Chỉ số Sig (2 tailed) ở bảng 4 là 0,00
bé hơn 0,05 cùng với các số liệu kết quả từ
bài kiểm tra cuối đã khẳng định sau

chương trình thực nghiệm. Nhóm thực
nghiệm có nhiều khác biệt tiến bộ về kỹ
năng và trình độ phát âm âm nối và âm rút
gọn. Việc dạy phát âm qua nhạc pop rất
hữu ích và hiệu quả.
Kết quả bài viết một lần nữa kế thừa
các nhà khoa học như Lại Thanh Tình
(2010), Engh (2013), Saledo (2010) Tavil
& Isisag (2009) để minh chứng rằng việc
dạy phát âm tiếng Anh qua bài hát là một
giải pháp hữu hiệu. Đặc biệt, bài nghiên
cứu này đưa ra một kết quả tích cực về
phương pháp dạy âm nối và âm rút gọn
trong tiếng Anh qua các bài nhạc pop tiếng
Anh mà các nhà khoa học nói trên và các
nhà khoa học khác trên thế giới ít nghiên
cứu đến. Tác giả bài viết đã tổng hợp cơ sở
lý thuyết rõ ràng và thiết kế chương trình
thực nghiệm phù hợp để đảm bảo giá trị
khoa học và hữu ích phục vụ tham khảo
cho khác nghiên cứu liên quan khác.
Phương pháp dạy âm nối và âm rút gọn
qua các bài nhạc pop rất hữu dụng mà giáo
viên tiếng Anh có thể vận dụng trong việc
giảng dạy các kỹ năng tiếng Anh nói chung
và kỹ năng nghe và kỹ năng nói nói riêng.
5. Kết luận
Nhìn chung, bài viết này cho thấy rằng
dưới sự tác động của chương trình thực
nghiệm dạy phát âm qua bài nhạc pop tiếng

Anh, sinh viên của nhóm thực nghiệm
được cải thiện đáng kể phát âm âm nối và
âm rút gọn cả về nhận thức và thực hành
phát âm ở mức độ cao. Các âm nối và âm
rút gọn sinh viên bị hạn chế đã được khắc
phục nhiều. Câu trả lời của câu hỏi nghiên
cứu đã được tìm ra. Kết quả bài nghiên cứu
khẳng định được chất lượng khoa học mà
64


phương pháp thực nghiệm qua nhạc pop
tiếng Anh đem lại. Việc cải thiện phát âm
trong âm nối và âm rút gọn rất cần thiết để
giúp sinh viên khắc phục nhiều hơn về kỹ
năng nghe và nói. Tuy nhiên, việc quan
tâm cung cấp và kết hợp đầy đủ các kiến
thức phát âm từ các yếu tố khác như
nguyên âm, phụ âm, trọng âm, âm điệu,
ngữ điệu... cũng rất quan trọng. Bài nghiên
cứu cung cấp một phương pháp mới để
giáo viên tiếng Anh vận dụng vào việc dạy
phát âm, kỹ năng nghe và kỹ năng nói dành
cho người học ở các độ tuổi khác nhau.
Qua quá trình thực nghiệm và kết quả
thu được, tác giả thấy rằng phương pháp
dạy học truyền thống giáo viên luôn là
người hướng dẫn để người học làm theo và
ghi chép là chưa thật sự phù hợp vì dễ làm
người học chán nãn. Sự phân bổ kiến thức

về phát âm từ sách giáo khoa chưa hợp lý và
không đồng đều làm cho số lượng kiến thức
cho người học chưa đợc đảm bảo. Vì vậy,
việc dạy các kỹ năng ngôn ngữ nói chung
và phát âm nói riêng rất cần được sáng tạo
và linh hoạt về phương pháp để tạo động
lực, sự yêu thích cho người học, giúp người
học hăng hái tiếp thu. Hơn nữa, phương
pháp dạy phát âm của giáo viên nên được
hướng đến việc vận dụng các phương tiện
về âm thanh nhiều hơn ví dụ như dùng nhạc
pop, nhạc roc, nhạc jaz để cung cấp cho
người học lựợng kiến thức phát âm được
phong phú hơn và để phát huy tinh thần học
tập của người học tốt hơn.

culture as a stimulus to motivate
secondary students’ English learning in
Hong Kong. ELT Journal, 55(1), 55-61.
/>3.

4.

5.

6.
7.
8.

9.


10.

11.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.

Brinton. D. M. (2009). Introduction to
connected speech. Soka University of
America.
Retrieved
from
/>train/125507132015214.pdf.
Cheung, C. K. (2001). The use of popular

12.

13.

65

Cook A. (2013). Liason. Retrieved from
/>10.htm.
Dubin, F. (1975). An overlooked resource
for English language teaching: pop, rock,
and folk music. CATESOL (California
Association of Teachers of English to

Speakers of Other Languages) Occasional
Papers, No. 2, ED126673.
Engh D. (2013). Effective use of music in
Language-Learning: A needs analysis.
Humanising Language Teaching Journal.
Year 15; Issue 5; October 2013, ISSN
1755-9715.
Gaston, E.T. (1968). Music in therapy.
New York: Macmillan.
Griffee,
D.
(2010).
Personal
communication with the author.
Lại Thanh Tình (2010). Using songs to
teach English sounds to 11th form
students at Nguyen Gia Thieu high school.
Retrieved April 29th 2014 from
/>Lamb B. (n.d.) What is pop music?
Retrieved on February, 2014 from
/>popmusic.htm.
Murcia C., Marianne, Brinton & Goodwin
(1996). Teaching Pronunciation: A
reference for teachers of English to
speakers of other Languages. Cambridge:
Cambridge University Press.
Nambiar, S. A. (1993). Pop songs in
language teaching. In Oller, J. W. Jr.
(Ed.), 2nd edition. Methods that work:
Ideas for literacy and language teaching,

(pp. 335-338). Boston: Heinle & Heinle
Publishers.
Parkinson, G., & Drislane, R. (2011).
Qualitative research. In online dictionary
of the social sciences. Retrieved from
/>Roach, P. (2009). English phonetics and


phonology: A practical course (4th Ed.).
Great Britain: Cambridge University
Press.
14. Salcedo, C. (2010). The Effects of Songs
in the Foreign Language Classroom on
Text Recall, Delayed Text Recall and
Involuntary Mental Rehearsal. Paper
presented at 2010 IABR (International
Applied Business Research) & ITLC
(International College Teaching and
Learning) Conference Proceedings, 1-12.
15. Seliger, H. W. & Shohamy, E. (1989).
Second language research methods.
Oxford: OUP.
16. Stevick, E. W. (1978). Toward a practical

Ngày nhận bài: 29/02/2016

philosophy of pronunciation: Another
view. TESOL Quarterly, 12(2).
17. Tavil, Z. M. & Isigag, K. U. (2009).
Teaching vocabulary to very young

learners through games and songs. EKEV
AKADEMİ DERGİSİ, 13(38), 299-308.
18. Võ Thúy Linh (2015). Enhancing
Learners’ pronunciation through English
Pop Songs for intermediate non English
majored students at Sai Gon University.
Master thesis. HCMC Open University,
Vietnam.
19. www.macmillandictionary.com/dictionary
/british/pop-music.

Biên tập xong: 15/03/2016

66

Duyệt đăng: 20/03/2016



×