Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Những tấm lòng cao cả - bài ca về sự nghiệp trồng người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.91 KB, 7 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 3(28) - Tháng 5/2015

NHỮNG TẤM LỊNG CAO CẢ BÀI CA VỀ SỰ NGHIỆP TRỒNG NGƯỜI
BÙI THANH TRUYỀN(*)

TĨM TẮT
Những tấm lòng cao cả là cuốn sách gắn liền với tên tuổi của Edmondo de Amicis –
nhà văn trọn đời tìm kiếm, khám phá vẻ đẹp của thế giới tâm hồn con người. Truyện khắc
họa sinh động chân dung tập thể thầy cơ hết lòng u thương học sinh, tận tuỵ, hi sinh vì
sự nghiệp trồng người. Bài ca sư phạm âm vang suốt tác phẩm đã góp phần khẳng định
tên tuổi tác giả trên văn đàn thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng.
Từ khóa: thầy cơ, học sinh, bài ca sư phạm, sự nghiệp trồng người
ABSTRACT
Heart is the work which made Edmondo de Amicis – a writer who has spent his whole
life looking for the beauty of the human spirit. The story portrays the teachers who love
pupils with their whole heart and serve devotedly in educating career. The work is as a
beautiful pedagogical song that confirms the author's reputation in the world and in
Vietnam.
Keywords: teacher, pupil, pedagogical song, educating career
1. EDMONDO DE AMICIS – NGHỆ SĨ
TRỌN ĐỜI TRUY TẦM VẺ ĐẸP CỦA
THẾ GIỚI TÂM HỒN (*)
Edmondo de Amicis xuất hiện trên văn
đàn Ý vào nửa sau thế kỉ XIX và nhanh
chóng đến với bạn đọc thế giới bằng những
câu chuyện nhỏ viết cho thiếu nhi. Trẻ em
đọc Amicis bằng một niềm đồng cảm chân
thành. Suốt cuộc đời sống và viết của
mình, ơng mải mê kiếm tìm thứ hạnh phúc


ẩn chứa trong tâm hồn con người, trong
tình u thương đồng loại – một trạng thái
sung sướng, mãn nguyện chỉ có được khi ta
biết thấu hiểu, đồng cảm và sẻ chia với
những người xung quanh.
Amicis sinh năm 1846 tại Ơnêglia, xứ
Liguria, trên bờ biển Tây Bắc bán đảo Ý và
qua đời ở Boocđighêra, tỉnh Giênơva ngày
(*)

12 tháng 3 năm 1908. Sinh ra và lớn lên
trong hồn cảnh đất nước chiến tranh, ơng
sớm ý thức được trách nhiệm của mình và
có một tinh thần dân tộc sâu sắc. Trước khi
tên tuổi của nhà văn Edmondo de Amicis
vang danh trên văn đàn, người ta đã biết
đến người lính Amicis dũng cảm.
Hơn 40 năm gắn bó với sự nghiệp văn
chương, một nửa thời gian ơng viết về du kí,
nửa còn lại dành cho các vấn đề xã hội. Tuy
vậy, vẫn còn một mảng đề tài khơi dậy
trong Amicis cảm hứng sáng tạo và với nó,
ơng đã trở thành nhà văn của tình thương,
của những bài học đạo đức dành cho trẻ
nhỏ. Ơng hướng ngòi bút đến trẻ thơ với
một tấm lòng nhân hậu, một tình u
thương trìu mến và một sự hiểu biết sâu sắc
đặc điểm tâm lí lứa tuổi này. Các truyện viết
về mảng đề tài thiếu nhi khơng đầy tình tiết
bất ngờ như thể du kí, khơng nóng bỏng và


TS, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM

22


gay gắt như khi viết về các vấn đề xã hội.
Chúng nhẹ nhàng, thoải mái nhưng giàu sức
thuyết phục. Những người bạn dí dỏm thân
mật, dễ thương; Giữa trường và nhà tâm lí
và đầy trách nhiệm; Cuốn truyện của người
thầy xúc động và giàu tình thương...
Trong cái vốn liếng khiêm tốn đó, Tấm
lòng (Coure) ra đời vào năm 1886 (được
dịch ra tiếng Việt là Những tấm lòng cao
cả) là cuốn sách có đời sống lâu dài hơn cả.
Hơn một thế kỉ nay, Coure đã đưa Amicis
đến với mọi người, đến với thiếu nhi Việt
Nam và thiếu nhi toàn thế giới.
2. NHỮNG TẤM LÒNG CAO CẢ KHÚC HÁT VINH DANH NHỮNG
NGƯỜI GIEO HẠT LẶNG THẦM
Những tấm lòng cao cả [1] là một
cuốn sách giản dị, được viết dưới dạng
nhật kí học trò, ghi lại những việc lớn nhỏ,
những chuyện hàng ngày của cậu bé lớp ba
Enricô Bôttini theo trình tự thời gian một
năm học, từ những hoạt động trong lớp của
học sinh, những bức thư của phụ huynh
viết cho con em mình để nhắc nhở lỗi lầm,
những truyện đọc hàng tháng của thầy giáo

về các nhân vật cùng trang lứa với các
em... Sức hấp dẫn của tác phẩm chính là
những câu chuyện xúc động về tình người,
những bài học giáo dục trẻ con sâu sắc
được thể hiện bằng giọng văn trìu mến,
tràn đầy yêu thương. Ở đó, ta được vui đùa
hồn nhiên cùng đám học trò nhỏ, đứa thì
ngây thơ khoe những đồ chơi mới, đứa lại
ngộ nghĩnh với dáng bộ làm kiêu, đứa thì
luôn đứng ra bênh vực bạn. Ở đó, ta như
trẻ lại để được vỗ về, được yêu thương
trong tình mẹ cha, được lớn lên, trưởng
thành trong sự dìu dắt, dạy bảo của những
người thầy. Cuốn sách là một thiên trường
ca cảm động về nghề dạy học. Amicis đã
viết về hình ảnh của thầy cô giáo với
những tình cảm trân trọng nhất. Họ đã sống

hết mình vì nghề nghiệp, vì học sinh, vì
những mục đích tốt đẹp.
Trong truyện, hình ảnh các thầy cô
giáo đã hiện lên với lòng nhiệt thành và
bao điều tôn kính. Họ coi trọng sự nghiệp
giáo dục, chăm lo việc học, đời sống tình
cảm và cả chuyện ăn ngủ, sinh hoạt của
học sinh. Họ lo lắng và yêu quý trẻ thơ như
chính con em của mình, không dạy mà như
đã dạy, không nói mà như đã nói. Những
bài học về tình thầy trò cứ nhẹ nhàng đi
vào lòng trẻ thơ, đi vào lòng người đọc.

Thầy truyền cho học sinh ngọn lửa của
lòng yêu nước, ý thức sống xứng đáng với
truyền thống đất nước, dân tộc mình – một
đất nước “đã chiến đấu năm mươi năm, và
ba vạn người Ý đã chết cho tự do”. Họ đặt
lợi ích, vận mệnh đất nước lên trên hết, sẵn
sàng để người thân, con em mình lên
đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ
quốc và họ thực sự tri ân những người đã
hi sinh hoặc đang làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc thân yêu. Họ ý thức được rằng: “Chế
giễu một người lính đang ở trong đội ngũ
và không thể đáp lại, cũng không thể tự vệ,
thế khác nào chửi một người đang bị trói:
như thế gọi là hèn nhát”, “phải yêu những
quân dân, các con ạ, đó là những người bảo
vệ chúng ta”. Thầy hiệu trưởng của Enricô
là một trong những người như thế. Chính
thầy đã nêu một tấm gương sáng về tình
yêu nước, đức hi sinh, lòng vị tha cho học
sinh thân yêu.
Trong bức tranh toàn cảnh đó, thầy
Pecbôni hiện lên với nhiệt tâm và tài năng
của một nhà sư phạm. Đây là một tấm
gương của sự tự rèn luyện và phấn đấu
không ngừng: “Từ một nông dân, thầy đã
thành ông giáo, nhờ cố gắng học tập và
chịu đựng mọi sự thiếu thốn". Gặp nhiều
đau khổ trong cuộc sống gia đình nhưng
với học trò, thầy luôn dành cho các em một

23


tình thương trọn vẹn. Thầy đã cảm hoá
được những em bé tinh nghịch, ngỗ ngược
nhất. Mỗi tháng thầy đều dành ra một giờ
để kể cho các em nghe một câu chuyện,
một tấm gương cảm động. Tất cả các câu
chuyện của thầy làm cho học sinh (và ngay
cả chúng ta) xúc động. Juliô Pecbôni chọn
cho mình một con đường riêng để “đối
thoại” với học trò: thầy kể chuyện. Mỗi câu
chuyện là một bài học về lòng yêu nước, sự
dũng cảm, đức hi sinh. Amicis không miêu
tả nhiều về con người ấy nhưng qua những
“truyện đọc hàng tháng”, độc giả có thể
nghe thấy âm hưởng ấm áp cất lên từ một
tâm hồn rất đằm, rất sâu. Thầy thổi vào thế
giới ấu thơ rộn rã một niềm chờ đợi – chờ
đợi được nhận những bài học làm người từ
tám câu chuyện kể. Ngay từ buổi học đầu
tiên, Pecbôni đã khiến cho học trò yêu
thích. Enricô đã rất tinh tế thấy được sự
yêu quý của mọi người dành cho thầy khi
viết: “Chốc chốc, chúng tôi lại thấy những
học trò của thầy năm ngoái đi qua đều
bước vào cửa chào thầy: “Chào thầy ạ!
Chào thầy Pecbôni ạ! Rõ ràng đám học trò
cũ đều rất mến thầy và rất muốn lại được
học với thầy”. Sau khi nhìn chăm chú từng

học sinh mới của mình, thầy bắt đầu bằng
bài chính tả, vừa đọc vừa đi vào giữa các
dãy bàn. Chợt nhìn thấy một cậu mặt đỏ
ửng và đầy những nốt sừng nhỏ, thầy liền
ngừng lại, lấy hai tay ôm đầu cậu bé, hỏi
cậu làm sao, rồi sờ trán xem cậu có sốt
không. Cũng chính người thầy đáng kính
này đã dạy cho cậu bé Enricô và các bạn
bài học đầu tiên về tình yêu đất nước, tình
đoàn kết dân tộc, về tình bạn: “Hãy nhớ kĩ
những gì thầy sắp nói. Rồi đây, những câu
chuyện kiểu này sẽ đi vào quá khứ: một
cậu bé Calabria tới sống ở Turin hoặc một
cậu bé ở Turin có thể tìm thấy ngôi nhà
riêng của mình ở Calabria. Tổ quốc Italia

của chúng ta đã chiến đấu trong năm mươi
năm, ba nghìn người đã chết chỉ để đạt
được một mục tiêu cuối cùng: một đất
nước Italia thống nhất”. Thầy xem lớp học
là gia đình và học trò là những người con
thân yêu của mình: “Thầy không có gia
đình. Chính các con sẽ thay cho gia đình
của thầy... Nay thầy chỉ có một mình, thầy
chỉ còn các con trên đời này nữa thôi. Thầy
chẳng còn ý nghĩ nào, tình cảm nào ngoài
các con ra. Các con phải là đàn con của
thầy. Thầy sẽ rất thương các con và các
con cũng phải thương thầy”. Có lúc con
người ấy cũng nhẹ nhàng như một người

mẹ khi an ủi học sinh gặp điều mất mát, bất
hạnh: “Khóc đi, tội nghiệp, con cứ khóc đi,
nhưng hãy can đảm, con ạ. Mẹ con vẫn
thương con, bà vẫn sống bên con, và một
ngày kia con sẽ gặp lại bà vì con có tấm
lòng hướng thiện và trung hậu như lòng bà.
Can đảm lên, con ạ”; hoặc tha thiết trong
từng lời nhắn nhủ khi biết quỹ thời gian
của mình sắp cạn: “Con phải chú ý điều
này... nếu thầy không qua được... thì con
phải chú ý đến môn toán đấy, đó là chỗ yếu
của con...”. Nhưng cũng chính thầy đã
nghiêm khắc như một người cha khi bọn
trẻ làm điều sai trái: “Các cậu đã lăng mạ
một người bạn không hề gây sự với mình,
các cậu đã nhạo báng một người tàn tật,
các cậu đã tấn công một em bé yếu đuối
không có sức chống cự. Các cậu đã làm
một việc hèn hạ và nhục nhã nhất, có thể
bôi nhọ lương tâm con người! Các cậu là
những kẻ hèn nhát!”. Thầy dạy học trò
không nên chưng diện, khoe khoang, hợm
hĩnh, tự phụ, đặc biệt là tránh xa thói đố kị,
tị hiềm với bạn bè: “Đừng để cho con rắn
ghen tị luồn vào tim. Đó là con rắn độc, nó
gặm mòn khối óc và làm đồi bại trái tim”.
Ngay cả lúc ốm nặng, thầy vẫn trăn trở vì
đàn em thân yêu: “Thầy đang ốm thảm hại,
24



con thấy đấy. Enricô à, lớp ta ra sao? Và
học sinh thì thế nào? Tốt lắm phải không?
Các cậu không cần có thầy cũng vẫn được
đấy nhỉ?”.
Hình ảnh thầy Pecbôni được nhà văn
khắc chạm trong tác phẩm thật nhân từ,
hiền hậu, phảng phất dáng hình của ông
Bụt phương Đông. Thầy đã lo cho học sinh
bằng nỗi lo của một người cha đầy trách
nhiệm, bằng tình thương vô bờ của người
mẹ đối với những đứa con yêu. Cảm tưởng
của Enricô về thầy trong Buổi thi cuối cùng
thật xúc động: “Tội nghiệp thầy quá! Ai
cũng thấy ngay là thầy yêu thương chúng
tôi thật sự. Thầy chỉ nghĩ đến chúng tôi, chỉ
lo cho chúng tôi. Khi chúng tôi trả lời thầy
cảm động đến luống cuống...”. Đến cha mẹ
các em cũng chưa chắc đã lo lắng bằng
thầy. Khi tất cả học sinh đều thi khá, để
làm cho họ vui, người thầy giáo tóc đã hoa
râm và không bao giờ cười ấy lại làm bộ
trượt chân, phải bám vào tường cho khỏi
ngã. “Phải chăng đó là cái phút vui độc
nhất của thầy? - một sự đền bù cho chín
tháng trời yêu thương, kiên nhẫn và phiền
muộn" - Enricô đã ghi vào nhật kí những
dòng rất đỗi yêu thương như thế. Vật kỉ
niệm mà thầy nâng niu, gìn giữ là những
tấm ảnh các học trò cũ tặng, đã ngoài hai

mươi năm vẫn luôn treo ở đầu giường để
“khi sắp chết, thì cái nhìn cuối cùng của
thầy sẽ quay về họ”.
Nhân vật Pecbôni gợi cho độc giả nhớ
đến thầy giáo Đuysen trong Người thầy đầu
tiên của T.Aitmatôp, người đã đến từng nhà
để thuyết phục bố mẹ học sinh cho con em
mình lên lớp, đã kiên nhẫn với dư luận, đã
bằng tất cả tình thương yêu lần lượt cõng
từng em qua suối trong mùa đông giá lạnh,
đã tự mình làm trường học... Bằng tất cả
nhiệt tâm, cả Pecbôni lẫn Đuysen đã chắp
cánh cho những đàn em thân yêu bay xa

hơn trong ước mơ và cuộc sống. Không chỉ
những lời dạy bảo mà ngay từ chính con
người họ đã là một tấm gương, một bài học
quý về tình yêu nước, tình cảm gia đình,
lòng vị tha, tính hướng thiện, sự cảm thông,
chia sẻ... dành cho học trò.
Với Những tấm lòng cao cả, Amicis đã
làm cho biết bao độc giả trên thế giới phải
thực sự rung động, yêu quý, tôn kính, biết
ơn người thầy. Ta gặp ở đây rất nhiều cô
giáo, thầy giáo đã xem nghề dạy học là lẽ
sống, là cuộc đời của mình. Ở trường học
cũng có những gương hi sinh như ở chiến
trường. Cô giáo lớp một trên của Enricô ho
không ngớt, nhưng tiếng của cô luôn luôn
át cả lớp học, cô nói không nghỉ để học

sinh nhỏ không thể lơ đễnh được. Cô có
thể sống thêm nếu xin nghỉ dạy, nhưng
không muốn xa học trò, cô cứ dạy cho hết
năm, và cô đã mất ba ngày trước khi dạy
hết chương trình. Vĩnh biệt học trò, cô ôm
hôn tất cả, rồi vừa khóc vừa chạy nhanh ra
khỏi lớp. Con người "để lại cho học trò tất
cả những gì cô có trên đời" ấy trước khi từ
giã cõi đời lại yêu cầu thầy hiệu trưởng
đừng cho học trò đi theo đám tang mình, sợ
các em khóc. Thầy hiệu trưởng luôn là
người đến trường sớm nhất và về sau cùng.
Thầy Côatti người cao lớn, tóc quăn, đôi
mắt âm u và tiếng nói oang oang. Thầy
luôn luôn doạ phạt học trò, doạ cả đưa đi
tù, nhưng thầy không phạt ai bao giờ và
cười trong chòm râu khi thấy học trò sợ.
Cô giáo mà người ta gọi là “Nữ tu sĩ bé
nhỏ” (vì cô lúc nào cũng mặc áo sẫm màu)
có gương mặt trắng và thanh, bộ tóc óng
mượt, đôi mắt trong trẻo và giọng nói dịu
dàng. Thế nhưng, với giọng nói dịu dàng
ấy, cô vẫn biết cách làm cho cái thế giới
học sinh tí hon của cô phải yên lặng,
“những chú bé tinh nghịch nhất cũng chẳng
dám ho he trước mặt cô”. Cô giáo lớp một
25


sơ đẳng số ba lúc nào cũng vui tính, điều

khiển lớp học vui vẻ, luôn luôn tươi cười.
Khi học trò ra về, cô chạy theo để xếp các
em ngay ngắn vào hàng ngũ, xốc cổ áo lại
cho em này, cài khuy áo choàng cho em
kia, theo dõi trẻ đi ngoài phố xem có cãi
nhau không, và khẩn khoản xin phụ huynh
đừng phạt các em ở nhà, đưa kẹo thuốc cho
em nào ho, cho em bị rét mượn bao tay
bằng lông của mình... Những hình ảnh về
các nhà sư phạm với "tấm lòng cao cả" như
thế cứ nối tiếp nhau qua miền nhớ, miền
xúc động của học trò, nâng đỡ và hình
thành nhân cách các em.
Amicis dường như luôn dành sự cảm
phục đặc biệt cho những nhà giáo thiết tha
với những học sinh mà số phận đã không
mỉm cười với các em: những trẻ em mù,
những trẻ em câm điếc. Vẻ bất ngờ đến
sửng sốt của chú làm vườn Gioocđanô khi
đứa con gái tật nguyền của mình nói được
đã xác tín sự kì diệu của những người thầy:
“Bà đã kiên trì dần dần cho từng học trò,
ngày nào cũng vậy, năm này qua năm khác
à? Bà thật đáng được tất cả mọi sự khen
thưởng. Nhưng có sự khen thưởng nào
xứng đáng để đền bù bao nhiêu sự chăm
sóc, bao nhiêu công lao ấy không?”. Nhờ
thế, những học sinh mù đã vượt qua bất
hạnh, vươn lên để có cuộc sống như những
người bình thường, học tính giỏi, âm nhạc

giỏi, đi lại dễ dàng... Lời dạy của thầy cũng
là một bài học chứa chan về tình người:
“Hãy thương xót, các con ạ, hãy thương
xót mãnh liệt những người mà đối với họ
mặt trời không có chút ánh sáng và người
mẹ không có cả cái nhìn”.
Thầy Crôxetti, sau sáu mươi năm dạy
học, vẫn chưa muốn nghỉ – ở nước Ý thuở
ấy cô giáo, thầy giáo không có lệ phải về
hưu, vì kinh nghiệm và lương tâm của nhà
giáo càng thâm niên càng được xã hội quý

trọng – nhưng vì run tay trót đánh rơi một
giọt mực lên trang vở của học sinh, bậc lão
sư đành phải xin về. Đây là nỗi lòng của
ông khi phải rời xa bục giảng: “Thật là cay
đắng, cay đắng hết sức... tôi hiểu rằng cuộc
đời với tôi như vậy là hết rồi, không có
trường học, không còn sức trẻ, tôi cũng
không sống được bao lâu nữa”. Sau bao
năm tận tuỵ với nghề, ông chỉ có một căn
nhà trống trải, tấm ván tồi tàn làm giường
ngủ, mẩu bánh mì và chai dầu làm bữa ăn “đó là tất cả phần thưởng của thầy”. Đạm
bạc và thanh cao nhưng người thầy giáo
đáng kính ấy vẫn là người giàu có trong
“vương quốc” học trò với đầy ắp tiếng cười
và sự kính trọng. Hình ảnh cụ giáo già và
chuyến trở lại thăm thầy cũ của bố con ông
Bôttini đã gửi gắm phần nào ý nguyện của
nhà văn. Tác giả đã đưa đến cho chúng ta

những thông điệp giàu tính nhân văn về sự
cao quý của tình thầy trò, về lòng biết ơn,
về truyền thống “tôn sư trọng đạo”,...
Những bài học làm người đầu tiên mà
các thầy cô giáo đã chắt chiu, gom góp
dành tặng cho học sinh thân yêu sẽ mãi là
những gì đẹp nhất, cao quý nhất trong suốt
cuộc đời của các em. Và như một sự tưởng
thưởng xứng đáng, những con người với
tâm hồn cao thượng trong cõi nghề cao quý
ấy đã nhận về sự biết ơn, đền đáp, thương
yêu chân thành của học trò. Cái chết của cô
giáo Đentica làm cậu Prêcôtxi gục đầu vào
bàn mà khóc, và tất cả học sinh trong lớp
đều đến nhà cô để đưa tang. Lời vĩnh biệt
của Enricô viết trong trang nhật kí thể hiện
rất rõ lòng yêu thương, kính trọng và biết
ơn: "Cô giáo đáng thương! Vĩnh biệt! Vĩnh
biệt cô mãi mãi, cô giáo quý mến của tôi!
Niềm tưởng nhớ đau buồn nhưng dịu dàng
trong thời thơ ấu của tôi”. Khi cô giáo cũ
dạy lớp một nhân từ và hiền hậu của Enricô
sợ một ngày nào đó học trò sẽ quên mình,
26


cậu bé đã vô cùng xúc động và tự nhủ với
mình: “Ôi! Cô giáo rất tốt của con, không,
không bao giờ con lại quên cô được! Sau
này, khi đã lớn con vẫn nhớ cô, và con sẽ

đến tìm gặp cô giữa đám học trò nhỏ của
cô”. Nếu có thầy giáo phiền muộn vì một
học sinh nào đó không vâng lời, các em đã
động viên thầy bằng những tình cảm thật
đáng quý: “Thưa thầy, xin thầy đừng buồn
phiền nữa, tất cả chúng con ở đây đều rất
kính yêu thầy”.
Những giọt nước mắt chực trào vì cảm
động, những cái ôm hôn, vuốt ve, túm khăn
trùm hay áo choàng... là những gì mộc mạc
nhưng chân thành mà những người học trò
nhỏ đã dành tặng cho thầy cô. Đó là những
món quà vô giá không gì có thể đổi được.
Dù đôi lúc có làm thầy cô bực mình vì tính
nghịch ngợm, không vâng lời, chưa chăm
chỉ... nhưng trong sâu thẳm trái tim, các em
luôn dành cho thầy cô một vị trí trân trọng,
chan chứa niềm tri ân, thương quý. Những
lời trách mắng dành cho nhau của bọn trẻ
cũng làm vơi đi phần nào phiền muộn của
thầy: “Thôi đi! Đồ ngốc tất cả! Các cậu lạm
dụng lòng tốt của thầy phụ giáo; giá thầy ấy
nghiền nát tay các cậu... nhưng thầy thương
hại các cậu, việc làm của các cậu hèn nhát
lắm, hiểu chưa...”. Với Enricô, lòng biết ơn,
yêu kính biểu hiện qua thức nhận về sự bao
dung, đức hi sinh quên mình của thầy thổ lộ
bằng những dòng nhật kí già dặn: “Trước
hết, tôi cảm ơn thầy giáo kính yêu, thầy rất
thương yêu tôi và khoan dung đối với tôi, và

mỗi tiến bộ của tôi đều đổi bằng sự hao tổn
sức khoẻ của thầy...”. Dẫu là một học trò
đặc biệt - một tù nhân, họ cũng gửi tâm tình
mình vào một vật chứng không thể phai mờ
theo thời gian, ghi dấu lòng biết ơn chân
thành đối với người đã “khai sáng lòng
mình”, đã dạy mình biết đọc, biết viết: Lọ
mực do người tù tự làm rất kì công khắc

hình một quyển vở, trên có một ngòi bút với
dòng chữ: “Kính tặng thầy giáo của tôi, kỉ
niệm của số 78 - sáu năm!”. Đây là những
phương thuốc thần diệu có thể chữa lành
bao thương tổn, bệnh tật cho những người
đã thầm lặng hi sinh vì đàn em thân yêu.
Mỗi nhà sư phạm một vẻ, một tính
cách. Viết về họ, Amicis đã nêu lên được
những tấm gương sáng trong sự nghiệp
trồng người. Qua ngòi bút của tác giả, các
thầy cô giáo hiện lên với những hình ảnh
thật đẹp. Họ hết lòng thương yêu học trò,
họ dùng những phương pháp giáo dục đúng
đắn và thích hợp để hướng các em đến một
sự phát triển toàn diện về nhân cách. Họ
không chỉ dạy các em về kiến thức mà còn
dạy lẽ phải, dạy cách làm người.
3. VÀ TIẾNG CA VỌNG VÀO VÔ TẬN…
Với nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam,
Những tấm lòng cao cả là một cuốn - sách
gối - đầu - giường. Thời gian trôi đi, nhưng

những gì tác giả gửi gắm qua từng bài học
của thuở ấu thơ về công ơn mẹ cha, về lòng
yêu nước, thương người, về tình thầy trò,
bè bạn,... vẫn không bao giờ xưa cũ, không
bao giờ thừa. Sáu câu chuyện nhỏ được sử
dụng làm ngữ liệu dạy học trong sách giáo
khoa Tiếng Việt Tiểu học (Chương trình
Cải cách giáo dục, Chương trình Thực
nghiệm và Chương trình hiện hành) đã
khẳng định được chân giá trị của tác phẩm,
bởi một khi sáng tác văn học đã được đưa
vào nhà trường thì vị trí cũng như ảnh
hưởng của nó, nói như Hoài Thanh, là điều
không thể phủ nhận [4]. Ở đó, ta được gặp
gỡ những người thầy đã thắp sáng bao tin
yêu, bao hoài bão để Bắc từ một cậu học
sinh “tối dạ” vươn lên đứng đầu lớp trong
sự khâm phục của mọi người (Có chí thì
nên), để Sắc có thêm lòng đam mê học tập,
“những món tiền cậu dành dụm được đều
đi vào cửa hàng bán sách” (Tủ sách của
27


bạn Sắc) và để Nenli “rạng rỡ vẻ chiến
thắng” trong sự động viên, cảm phục của
bạn bè (Buổi tập thể dục) v.v.
Dẫu không phải là nhà giáo, nhưng
những bài học quý chan chứa tình yêu
thương và tinh thần trách nhiệm đối với trẻ

thơ mà Amicis gửi gắm trong tác phẩm đã
chứng tỏ nghệ thuật sư phạm của người
viết. Nó giúp trẻ em ngạc nhiên vì khám
phá ra điều mới mẻ trong cái quen thuộc
hàng ngày, nhận ra cái chí lí sâu xa trong
những gì bình thường, đơn giản. Các em sẽ
tự hỏi mình rằng: Ngày hôm qua ta đã sống
thế nào? Cả hôm nay và ngày mai nữa? Ta
đã làm được gì cho mọi người? Đã động
lòng thương chưa khi thấy một người gặp
hoạn nạn? Đã tự xấu hổ với chính mình
chưa khi một chút vô tình lỡ lời với bố mẹ?
Đã thật sự kính trọng, lễ độ với thầy cô
giáo chưa hay có lúc vẫn vô tâm? Đã sống
với bạn chân thành chưa hay còn nuôi lòng
ích kỉ?... Trả lời được những câu hỏi đó, tự
các em sẽ lớn lên, sẽ trưởng thành.
Không chỉ trẻ thơ, chính “bầu không
khí yêu thương và giáo dục” luôn hiện diện
trong tác phẩm còn làm rung động, nhắc
nhớ bao tâm hồn người lớn. Trả lời cho câu

hỏi: “Cuốn sách nào đã ảnh hưởng nhiều
nhất từ trước tới nay?”, nhiều người đã
không ngần ngại ghi ngay cuốn Tâm hồn
cao thượng. Lời tâm sự và ước muốn của
Trần Bình Quan cũng là tâm trạng của
những ai đã từng đến với Những tấm lòng
cao cả: “Theo tháng năm tôi không bao giờ
quên những mẩu chuyện ngắn dạy ta nên

người. Càng lớn, cứ vài năm tôi xem lại
một lần và tôi lại cảm nhận thêm vài điều
hay lẽ phải. Tôi luôn ao ước có một nhà
văn nào đó sẽ viết một Tâm hồn cao
thượng đúng nghĩa người Việt Nam ta” [3].
Những tấm lòng cao cả đã trở thành
tác phẩm kinh điển của văn học Italia và
đưa Amicis vào hàng ngũ những nhà văn
thành công nhất về đề tài giáo dục - giáo
dục cho con trẻ biết nhận thức những đúng,
sai xung quanh mình, biết học tập, biết yêu
lao động, yêu thương mọi người. Đây là
những yếu tính để trẻ vững bước vào đời.
Chung tay vào sự nghiệp xây dựng những
nấc thang quan trọng đó có vai trò của
những người ngủ ít, ăn vội ăn vàng, nói vỡ
phổi - những thầy cô giáo thiết tha với học
sinh thân yêu, với sự nghiệp trồng người.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Edmondo de Amicis, Những tấm lòng cao cả (Hoàng Thiếu Sơn dịch từ bản tiếng
Pháp), Nxb Văn học, Hà Nội, 2004. Các trích dẫn trong bài lấy từ tài liệu này.
2. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (Chủ biên) (2004), Từ
điển Văn học, Nxb Thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh. (Mục Amixix, trang 32).
3. Trần Bình Quan, “Ý kiến bạn đọc”; Nguồn: www.dongtamhoi.com.
4. Xem Hoài Thanh – Hoài Chân (1988), Một thời đại trong thi ca, trong Thơ mới 1932 –
1942, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Bùi Thanh Truyền (Chủ biên) (2009), Thi pháp trong văn học thiếu nhi, Nxb Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội.
* Ngày nhận bài: 09/4/2015. Biên tập xong: 24/4/2015. Duyệt đăng: 04/5/2015.

28



×