Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Con người trung tâm và chủ thể: Quan niệm nghệ thuật trong Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.76 KB, 12 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 2 (27) - Tháng 3/2015

CON NGƯỜI TRUNG TÂM VÀ CHỦ THỂ - QUAN NIỆM
NGHỆ THUẬT MỚI TRONG NHẬT KÝ TRONG TÙ CỦA HỒ CHÍ MINH
HỒNG TRỌNG QUYỀN (*)

TĨM TẮT
Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là tập thơ chữ Hán cuối cùng của nền văn học Việt
Nam. Tuy nhiên, tập thơ thể hiện một sự khác biệt cơ bản với thơ chữ Hán cổ điển của Việt
Nam và Trung Quốc ở nhiều phương diện. Trong đó, quan niệm mới về vai trò, vị thế, ý
nghĩa và giá trị của con người là vấn đề nổi bật nhất, với nội dung cơ bản là: con người là
trung tâm và con người là chủ thể trong mọi mối quan hệ với vũ trụ, tự nhiên và xã hội.
Cái mới trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nhật kí trong tù có nguồn cội từ
những kết tinh triết học, mỹ học phương Đơng và Chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh,
đồng thời từ những phẩm chất siêu việt cả về tư tưởng và nghệ thuật của chính tác giả
Nhật kí trong tù.
Từ khóa: Hồ Chí Minh, Nhật kí trong tù, thơ cổ điển, quan niệm nghệ thuật về con
người, trung tâm, chủ thể
ABSTRACT
Diary in prison written by Ho Chi Minh is the last poem collection of Vietnamese
literature written in Chinese characters (Han). However, the poem collection displays an
essential difference in many ways from poems written in the classic Han of Viet Nam and
China. In the poems, the new ideas about the role, the position, the significance and the
value of human beings are prominent. The key content of the poem collection is that human
beings are the center and the subject in every relation to the universe, the nature and the
society. What is new in Ho Chi Minh's artistic conception of man emerges from his
synthesis of oriental philosophy and aesthetics with Marxism & Leninism, as well as from
the subtleties of thought and aesthetics of the author.
Keywords: Ho Chi Minh, Diary in prison, classical poetry, artistic conception of


human, center, subject
*

Nhật kí trong tù là tác phẩm nhật kí
bằng thơ của Hồ Chí Minh được viết trong
thời gian Người bị giam cầm trong nhà lao
của chế độ Tưởng Giới Thạch, Trung
Quốc, từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9
năm 1943. Nếu nhìn qng thời gian này
như một chặng trong chuỗi hành trình hoạt
(*)

động cách mạng của Hồ Chí Minh thì đó
chính là lúc tư tưởng u nước và tư tưởng
cộng sản đã có sự hài kết nhuần nhị trong
tư tưởng của tác giả Nhật ký trong tù. Đó
cũng là chặng đời mà trong con người Hồ
Chí Minh đã có sự kết tinh nhiều giá trị
văn hóa Cổ - Kim - Đơng - Tây sau một
thời gian dài Người bơn ba, trải nghiệm
cuộc sống, văn hóa và đấu tranh của nhân

TS, Trường Đại học Thủ Dầu Một

10


loại tiến bộ khắp năm châu bốn biển. Do
vậy, Nhật kí trong tù - đứa con tinh thần
vừa là tư tưởng và cảm xúc, vừa là tư duy

nghệ thuật của Hồ Chí Minh - đã thể hiện
một quan niệm nghệ thuật mới về con
người rất đa dạng, phong phú nhưng cũng
rất thống nhất; thấm đẫm chất triết học,
nghệ thuật và nhân văn.
1. CON NGƯỜI TRUNG TÂM
Nhật kí trong tù là tập thơ chữ Hán
cuối cùng của nền văn học Việt Nam. Do
vậy, tập thơ có những nét tương đồng với
thơ chữ Hán cổ điển Việt Nam và Trung
Quốc. Bên cạnh đó, tập thơ cũng cho thấy
một sự khác biệt cơ bản ở nhiều phương
diện. Trong đó, quan niệm nghệ thuật và
cái nhìn nghệ thuật luôn thể hiện con người
là trung tâm về vai trò, vị thế, ý nghĩa và
giá trị trong mọi hình tượng nghệ thuật là
vấn đề nổi bật nhất. Cái mới trong quan
niệm nghệ thuật về con người của Hồ Chí
Minh so với thơ cổ điển Việt Nam và
Trung Quốc bắt nguồn từ tầm tư tưởng triết
học và nhân sinh mới của chủ thể sáng tạo
tập thơ và từ sự mới mẻ trong tư duy nghệ
thuật về con người của Hồ Chí Minh.
Trong thơ cổ điển Việt Nam và Trung
Quốc, nét nổi bật là cái nhìn “vũ trụ” đối
với con người và cuộc đời. Do sáng tạo với
quan niệm nghệ thuật về con người trong
sự tham chiếu và chi phối của tư tưởng triết
học Tam tài Thiên - Địa - Nhân, các nhà
thơ luôn thể hiện cái nhìn nghệ thuật về

con người từ tiêu chí, đặc điểm của vũ trụ
và thiên nhiên. Trong thực tế, con người
luôn sống trong các quan hệ nhân sinh và
xã hội rất cụ thể, nhưng trong quan niệm,
các nhà thơ thường nhìn họ sống giữa cỏ
cây, sông núi, đất trời. Vì vậy, khi muốn
thể hiện chí khí thì con người đội trời đạp
đất, chọc trời khuấy nước; khi bất đắc chí
thì tìm về với thiên nhiên, với nhật nguyệt,

sơn hà, cỏ cây để di dưỡng tinh thần, lãng
quên thế sự; khi uất hận thì hỏi trời xanh,
tạo hóa hoặc gửi tâm sự vào kiếp sau. Thơ
cổ điển Việt Nam và Trung Quốc cơ bản
thuộc về kiểu tư duy và thẩm mỹ trong cái
mô hình ấy nên vẫn nằm trong sự thể hiện
của thi pháp trung đại.
Chẳng hạn, Đỗ Phủ mượn hình ảnh
chim phượng hoàng để nói chí mình: Bao
giờ đánh lũ chim hèn,/ Máu lông sẽ tưới
khắp miền đồng hoang (Vịnh phượng
hoàng); mượn hình ảnh núi Đông Nhạc để
nói tầm vóc của mình: Lên đỉnh chóp mà
trông,/ Lè tè muôn núi dưới (Trông núi
Đông Nhạc). Lý Bạch nói về lòng thương
nhớ bạn khôn cùng khi tiễn bạn đi xa trong
tuyệt bút bất tử Tại lầu Hoàng Hạc tiễn
Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng. Thế
nhưng, ngay cả ở một bài thơ nói về
chuyện của con người thì thiên nhiên vẫn

choán chỗ, và dường như con người trở
nên nhỏ nhoi, mong manh và mất hút giữa
bao la và rợn ngợp của thiên nhiên: Bạn từ
lầu Hạc lên đường,/ Giữa mùa hoa khói
Châu Dương xuôi dòng./ Bóng buồm đã
khuất bầu không,/ Trông theo chỉ thấy
dòng sông bên trời. Trong thi phẩm này, hệ
thống ngôn từ được xây dựng và triển khai
diễn tiến theo lộ trình của người đi xa, và
cũng là chuỗi nhìn theo bạn của người đưa
tiễn. Cái độc đáo và thi vị của hệ thống
ngôn từ đó là các đơn vị từ ngữ xuất hiện
trong một hệ thống mà bắt đầu là yếu tố
ngôn từ chỉ một địa danh nổi tiếng, có ý
nghĩa cụ thể, xác thực là lầu Hoàng Hạc.
Tiếp theo lộ trình và chuỗi nhìn là địa danh
Dương Châu, thời gian giữa tháng ba. Như
vậy là đến đây, lộ trình của người đi xa vẫn
xác định được, nhưng ở ngay trong câu thơ
thứ hai, cái rõ ràng, xác thực bắt đầu mờ
nhòe dần bởi hình ảnh mùa hoa khói, nghĩa
là thiên nhiên choán chỗ của con người. Từ
11


đây, hình ảnh người đi xa dần và mất hút
vào khoảng không xanh biếc vô tận, vào
cõi mênh mông của sông Trường Giang
chảy vào cõi trời. Như vậy, ngôn từ xác
thực, cụ thể thông qua địa danh, thời gian,

phương hướng đã chuyển một cách tự
nhiên sang địa hạt ngôn từ chỉ cái mơ hồ,
mông lung, không xác định. Trong sự bài
trí và hài phối ngôn từ, người nghệ sĩ tạo
nên một không gian khoáng đạt, diệu vợi,
vô tận: bích không tận (không gian xanh
không có giới hạn cuối cùng), Trường
Giang thiên tế lưu (sông Trường Giang
chảy vào cõi trời); không gian đó có thêm
tính mờ ảo của yên hoa (hoa khói). Trên
cái nền không gian đó có hai điểm, rất nhỏ,
cô đơn, mà khoảng cách dần xa nhau. Một
là, điểm đứng của nhà thơ tại lầu Hoàng
Hạc khi ông tiễn người bạn cũ Mạnh Hạo
Nhiên đi Quảng Lăng. Hai là, cánh buồm
lẻ loi mà trên con thuyền đó là người bạn
cũ thân thương của nhà thơ, xa dần, mất
hút vào khoảng không xanh biếc. Sự kết
cấu, tương tác của hai đặc điểm đó của
ngôn từ gợi lên nhiều vấn đề về triết lý
nhân sinh: con người bé nhỏ, cô đơn trước
vũ trụ và thiên nhiên mênh mông, bất tận,
diệu vợi và rợn ngợp.
Nguyễn Trãi từng ví người quân tử
trượng phu - trong đó có bản thân ông - với
cây tùng: Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,/
Một mình lạt thuở ba đông (…) Nhà cả đòi
phen chống khỏe thay,/ Cội rễ bền dời
chẳng động (Tùng). Nguyễn Du miêu tả
con người trong mối quan hệ đồng hóa con

người - thiên nhiên. Chẳng hạn như trong
Truyện Kiều, khi miêu tả Thúy Kiều thì:
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh;
chân dung của Từ Hải là Râu hùm hàm én
mày ngài. Nói về sự bình phục của Thúy
Kiều, Nguyễn Du viết: Vừa tuần nguyệt
sáng, gương trong; về tình yêu của Từ Hải

và Thúy Kiều, thì: Phỉ nguyền sánh
phượng, đẹp duyên cưỡi rồng; nói về chí
khí của Từ Hải thì: Chọc trời khuấy nước
mặc dầu. Và nhìn chung, con người trong
thơ Nguyễn Du thường nhỏ nhoi, bé bỏng,
cô đơn giữa thiên nhiên mênh mông và hãi
hùng, như Hoa trôi man mác biết là về đâu
(Truyện Kiều) của kiếp người Canh khuya
thân gái dặm trường (Truyện Kiều).
Thu điếu của Nguyễn Khuyến là nói về
chuyện con người đi câu cá. Không gian
nghệ thuật của bài thơ là sự phối kết của ba
mảng chính: vũ trụ, thiên nhiên và con
người. Thế nhưng cái hoạt động của con
người và chính chân dung của con người
cũng chìm khuất giữa thiên nhiên và vũ trụ.
Con người thực sự vô ngôn, vô vi, và
mượn thiên nhiên vũ trụ để trữ tình gián
tiếp. Theo đó, tâm trạng và mĩ cảm được
thể hiện qua các tình tiết, vũ trụ và thiên
nhiên. Từ đó, cấu trúc thẩm mỹ của không
gian được kiến tạo bởi các mảng đối lập và

tương phản. Mảng lớn là Tầng mây lơ lửng
trời xanh ngắt, và mảng bé là Một chiếc
thuyền câu bé tẻo teo. Cái lớn được đẩy tới
vô cùng bằng không gian trời xanh ngắt
không giới hạn. Đó là màu xanh vị liễu
(xanh không rồi), với mục tiêu không phải
ca ngợi bầu trời đẹp mà là nhắm vào tính
vô cùng vô tận của nó, cùng với mỹ cảm là
tạo ra sự rợn ngợp. Không gian còn là sự
tương phản giữa tĩnh và động: Ngõ trúc
quanh co khách vắng teo,/ Sóng biếc theo
làn hơi gợn tí,/ Lá vàng trước gió khẽ đưa
vèo…, Cá đâu đớp động dưới chân bèo; và
thậm chí là bất động giữa một trời tĩnh lặng
đến rợn ngợp vô cùng: Tựa gối ôm cần lâu
chẳng được,/ Cá đâu đớp động dưới chân
bèo. Không gian nghệ thuật của bài thơ
được xây dựng như thế tạo nên đặc tính
vừa là hiện thực, vừa là gợi mở bức tranh
tâm trạng của chủ thể trữ tình. Chính cái
12


không gian thẩm mỹ này hé lộ tâm trạng
buồn, cô độc, u tĩnh của bậc chính nho,
một thi nhân tài hoa và thiên lương. Con
người ông quan Nguyễn Khuyến tài hoa,
nhân cách cao đẹp nhưng lại lạc điệu giữa
thế cuộc đảo điên, xã hội hỗn loạn, nhố
nhăng. Ông cáo quan về ở ẩn và giấu mình

giữa thiên nhiên.
Qua một vài dẫn chứng tiêu biểu như
vậy cho thấy cách tư duy và quan niệm gắn
con người với tiêu chí vũ trụ, thiên nhiên
làm cho hiện thực xã hội lịch sử cụ thể bị
mờ nhạt, còn các hình ảnh thiên nhiên
mang ý nghĩa tượng trưng cho đặc điểm,
dáng nét và tính cách con người lại nổi bật.
Con người được nhìn qua lăng kính thiên
nhiên. Đó là quan niệm và cái nhìn con
người chưa phải là trung tâm, con người
hòa tan trong vũ trụ và thiên nhiên, nhiều
khi khuất lấp bởi cái vô cùng vô tận của vũ
trụ và thiên nhiên.
Ở Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh,
hình tượng con người trong quan niệm của
tác giả tập thơ không phải đối lập với quan
niệm con người vũ trụ trong thơ cổ điển
của Việt Nam và Trung Quốc, nhưng đã có
sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật và
phương thức thể hiện. Một mặt, con người
trong cảm quan và phản ánh của tác giả
Nhật kí trong tù vẫn có sự tiếp nối, gắn kết
với những nét văn hóa truyền thống trong
quan hệ với thơ cổ điển; mặt khác nó mang
những quan niệm mới mẻ, hiện đại và nhân
văn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chất hiền
triết phương Đông vẫn thấp thoáng trong
quan niệm nghệ thuật về con người ở Nhật
kí trong tù bởi vì tác giả của tập thơ vốn

sinh trưởng trong một gia đình nhà nho,
mặt khác, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận, hấp
thụ những giá trị tinh hoa và tiến bộ của
văn hóa, văn học phương Đông. Trong
thực tế, người rất yêu trẻ nhỏ, hoa, chim,

trăng, suối, vườn rau…, con người. Đó
cũng là những nét đẹp trong truyền thống
văn hóa Việt Nam từ xưa đến nay.
Dù vậy, ở Nhật kí trong tù, trong mối
quan hệ với vũ trụ và thiên nhiên, con
người vẫn xuất hiện ở vị trí trung tâm:
trung tâm trong vị thế, ý nghĩa và quan
niệm của tác giả; trung tâm trong từng bức
tranh thơ ở mỗi thi phẩm và của cả tập thơ.
Ngay ở trang bìa của cuốn Nhật kí trong tù,
hình ảnh con người tù đày với hai cánh tay
bị xiềng xích giơ lên là một bức họa đầy ý
nghĩa trong tư tưởng và quan niệm của Hồ
Chí Minh. Đó vừa là hình ảnh thực của
chính tác giả tập thơ trong thời gian bị tù
đày, vừa là hình ảnh tượng trưng cho nỗi
bất bình về sự mất tự do, bất công của con
người nhân loại.
Với quan niệm như vậy, trong bài Cảm
tưởng đọc Thiên gia thi, Hồ Chí Minh nhận
xét về thơ xưa và nói rõ yêu cầu đối với
thơ hiện đại: Thơ xưa thường chuộng thiên
nhiên đẹp,/ Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi,
sông;/ Nay ở trong thơ nên có thép,/ Nhà

thơ cũng phải biết xung phong.
Cái nhìn và quan niệm đối sánh thơ
xưa và thơ hiện đại của tác giả bài thơ chủ
yếu nhấn mạnh những nét khác biệt: thơ
xưa thiên về yêu cảnh thiên nhiên đẹp, và
do vậy, các hình tượng nổi bật lên trong
thơ là núi, nước, khói, hoa, tuyết, trăng, gió
chứ không phải là con người. Còn trong
thơ hiện đại thì phải là con người mà chất
thép - tư tưởng chiến đấu, lý tưởng sống
cao đẹp và mạnh mẽ cải tạo cuộc sống - là
dấu hiệu cần có, phải có. Đặc biệt, chủ thể
thi gia cũng phải biết xung phong như là
chiến sĩ. Như vậy, trong thơ hiện đại,
không chỉ nội dung tư tưởng thơ là thuộc
về con người mà chủ thể thơ cũng phải là
con người ở vị thế mới: con người chiến sĩ.
Do tính chất là một tập thơ chữ Hán
13


nên ở Nhật kí trong tù, con người vẫn còn
gắn với một số hình ảnh vũ trụ, thiên nhiên
mang chất truyền thống như chinh nhân,
thu nguyệt, thu phong, phù vân, cô vân,…
nhưng đã mang một quan niệm mới; thể
hiện rõ nội dung xã hội, thời đại cụ thể
trong nhiểu bài của tập thơ. Tiêu biểu như
các bài Buổi sáng, Nắng sớm, Giải đi sớm...
Trong thơ xưa, cũng có ánh nắng mặt

trời, nhưng thường là tịch dương, tà huy,
lạc nhật, nhật mộ… Còn trong Nhật ký
trong tù, hình ảnh nắng sớm là một tín hiệu
nghệ thuật mới mẻ, sinh động và hấp dẫn;
hàm chứa những thông điệp tư tưởng và
thẩm mĩ của Hồ Chí Minh. Trước đó, trong
truyện ngắn Lời than vãn của Bà Trưng
Trắc, Nguyễn Ái Quốc cũng đã một lần
dùng hình ảnh mặt trời buổi sáng tượng
trưng cho thời đại mới, chứng tỏ sự nhất
quán trong cảm quan của Người.
Trong bài Buổi sáng, bằng thủ pháp
đối lập, tác giả thể hiện một cái nhìn mới
và một tư tưởng mới khác hẳn thơ cổ điển:
cái nhìn mang tính quyết định của chủ thể,
của con người đối với ngoại cảnh. Do vậy,
mặc dù trong bức tranh đối lập sáng - tối,
bây giờ - ngày mai không có con người
xuất hiện như là đối tượng được miêu tả,
nhưng chủ thể của bức tranh là con người,
tư tưởng con người thể hiện chủ động trong
chiều hướng vận hành của vũ trụ, thiên
nhiên. Con người là trung tâm trong cái
nhìn vũ trụ, trong triết lí và niềm tin. Dù
rằng ở tầng hình ảnh trực tiếp, ta chỉ thấy
ngục tối mịt, ánh hồng bừng soi, nhưng ở
tầng gián tiếp và triết luận là hình tượng
con người ở tầng bậc thứ hai qua cái nhìn
và phản ánh đầy niềm tin trong hai câu thơ:
Trong ngục giờ đây còn tối mịt,/ Ánh hồng

trước mặt đã bừng soi. Như vậy, ngay
trong những bài thơ mà hình ảnh thiên
nhiên và vũ trụ xuất hiện trực tiếp chiếm

ưu thế về mặt dung lượng thì ý nghĩa, giá
trị tư tưởng tình và cảm con người vẫn là
trung tâm, là hình ảnh đọng lại sâu nhất
trong cảm nghĩ của người đọc.
Con người là trung tâm thể hiện rõ
nhất ở chỗ hình ảnh con người chiếm phần
lớn dung lượng hình ảnh trong tập thơ.
Điều đó trước hết là do nguyên nhân Nhật
ký trong tù thiên về thể tài thơ ký sự, thơ
sinh hoạt hàng ngày. Quá nửa tập thơ viết
về con người trong mọi dạng thái tồn tại rất
vật chất của người tù: đói, lạnh, bắt rận,
ghẻ lở, bị cùm chân, ngủ cạnh hố xí, chia
nước, rụng răng, mất gậy, đêm lạnh, giải
đi đường, trượt ngã, ngồi xe than, nộp tiền
đèn… Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là
do tác giả của tập thơ luôn hướng đến con
người trong tư tưởng, cảm nghĩ nên trong
tư duy nghệ thuật của Hồ Chí Minh, hình
ảnh con người luôn có mặt và xuất hiện
trên trang thơ Nhật kí trong tù như một lẽ
hiển nhiên.
Trong thơ cổ, con người thường xuất
hiện với một giá trị tượng trưng nào đấy
như quân tử, liệt nữ, anh hùng, giai nhân...
nhưng ở Nhật kí trong tù, con người xuất

hiện một cách cụ thể, xác thực. Nếu chất
tượng trưng là một trong những phẩm chất
hàng đầu của thơ cổ điển thì ở nhiều bài
thơ của Nhật kí trong tù vẫn có phẩm chất
ấy, nhưng lại có nhiều bài dường như chỉ
cốt miêu tả bản chất thực và qua đó làm bật
lên sự quan tâm của tác giả về con người ở
nhiều phương diện, trong có có phương
diện đời thường. Dường như tác giả muốn
hướng đến sự thực trần trụi của nó để nói
rõ hơn về con người từ các góc tiếp cận và
phản ánh. Cũng có lẽ đó chính là lý do tác
giả viết Nhật kí trong tù với kiểu loại kí
bằng thơ, nhằm để phát huy thế mạnh của
ghi chép, mà là ghi chép sự thực bằng hình
ảnh của thơ, chứ không đơn thuần chỉ là
14


thơ trữ tình nói chí. Mục đích của nhà thơ
là nói được nhiều sự thực đa dạng vốn là
chứng nhân cho sự tồn tại và các quan hệ
xã hội của con người. Chẳng hạn bảy lần
nói cái đói trong nhà tù với các biểu hiện
khác nhau: đói vì muộn giờ cơm, đói run
bần bật dưới ánh điện, đói chết, người này
người khác đói cồn cào, đói bụng réo gào,
đói xót lòng, đói vì cơm không no. Bốn lần
nói bị trói giải đi đường với các biểu hiện
xác thực: người bị trói giật cánh khuỷu, trói

bằng sợi thừng gai, trói bằng xích sắt, trói
treo ngược đôi chân. Phương pháp của tác
giả là để cho sự vật tự nói lên bản chất của
chúng. Hoặc có khi, hình ảnh con người
hiện lên trong cuộc sống thanh bạch, cụ thể
dường như nhuốm màu Thiền mà không có
bất kì một lời bình nào của tác giả: Bên
đường nấp dưới bóng lùm cây,/ Một túp lều
tranh: “tiệm rượu” đây;/ Nào món cháo
hoa và muối trắng,/ Đường xa khách tạm
nghỉ nơi này (Hàng cháo). Ở đây, tác giả
không bình luận mà dường như chỉ kí họa
một kiểu dạng chân dung cuộc sống của
con người mà thôi.
Con người trung tâm luôn được thể
hiện xuyên suốt trong tập thơ. Vị thế trung
tâm của con người còn được tác giả đặt vào
vị trí trung tâm trong cấu trúc bài thơ một
cách đầy dụng ý nghệ thuật. Điều đó được
thể hiện ở nhiều bài thơ mà Mộ (Chiều tối)
là một trong những thi phẩm thể hiện điều
đó tiêu biểu nhất.: Quyện điểu quy lâm tầm
túc thụ,/ Cô vân mạn mạn độ thiên không;/
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,/ Bao túc ma
hoàn lô dĩ hồng (Chim mỏi về rừng tìm cây
ngủ,/ Chòm mây lẻ trôi lững lờ trên tầng
không;/ Thiếu nữ xóm núi xay ngô,/ Ngô
xay vừa xong, lò than đã đỏ). Ở bình diện
không gian nghệ thuật của bài thơ, Hồ Chí
Minh thể hiện rõ quan niệm nghệ thuật về

con người hết sức mới mẻ, tiến bộ và nhân

văn. Xét về mặt địa lý thì không gian trong
Chiều tối là không gian một vùng rừng núi
tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc trên con
đường người tù bị chuyển ngục; xét trong
bối cảnh không gian chung của Nhật ký
trong tù thì Chiều tối là không gian ngoài
khu vực ngục tù. Với người tù Hồ Chí
Minh lúc bấy giờ thì đó là một không gian
xa lạ trong cảnh ngộ buồn. Tuy nhiên, phối
cảnh của không gian Chiều tối - một bức
tranh với nhiều mảng màu sáng - tối, nóng
- lạnh, của nó làm bật lên nhiều giá trị tư
tưởng và thẩm mỹ đẹp đẽ, bất ngờ và thú
vị. Xét ở bình diện kết cấu thì hai câu thơ
đầu là một mảng không gian mang tính
thực: Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,/
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không. Tình
tiết nổi bật về cảnh vật trên nền không gian
chiều tối, u tịch là chim, nhưng là chim
mỏi; và mây nhưng là chòm mây. Nghĩa là
tác giả nhấn mạnh vào tính chất của sự vật
chứ không phải tính vật thể của sự vật. Do
vậy, trong nguyên bản là quyện điểu và cô
vân, mà từ quyện (mệt mỏi) và từ cô (cô lẻ,
cô độc) lại được đặt ở đầu câu thơ như
những điểm nhấn tạo ấn tượng thẩm mỹ
của cái buồn trong không gian. Trong sự
liên hệ với người tù thì cảnh ngộ của người

tù còn đáng thương hơn, vì cũng mỏi mệt,
cô đơn trên con đường chuyển lao, nhưng
người tù còn không có được cả tự do thân
thể như chim và mây kia. Thế nhưng, với
phép chuyển đột giáng, mảng thứ hai của
không gian làm bật lên những ý nghĩa mới
mẻ. Trong hai câu thơ cuối Cô em xóm núi
xay ngô tối,/ Xay hết lò than đã rực hồng,
không gian tương phản với mảng thứ nhất
ở hai câu thơ đầu. Thứ nhất, nói về đối
tượng thì đã có bước chuyển từ cảnh vật,
con vật, hiện tượng tự nhiên sang con
người; thứ hai, con người được nhấn mạnh
ở tính chất: thiếu nữ (trẻ trung, sức khỏe,
15


vẻ đẹp…), mà là sơn thôn thiếu nữ lại càng
tôn thêm vẻ đẹp thuần phác, khỏe khoắn,
và đang xay ngô (hoạt động làm nên tính
ấm nóng cho không gian, tăng tính động
tích cực cho không gian). Đặc biệt hơn nữa
là trong cấu trúc câu thơ, con người (thiếu
nữ) được đặt ở vị trí trung tâm giữa câu thơ
và bài thơ, và đó cũng là trung tâm không
gian nghệ thuật của bài thơ. Một tình tiết
khá nổi bật đi liền với hình ảnh thiếu nữ
xóm núi đang xay ngô là lò than đã đỏ.
Màu đỏ - vốn là một sắc màu của gam
nóng trong hội họa, là một màu sắc mang

giá trị tượng trưng khá phổ biến trong
nhiều bài thơ của Nhật ký trong tù, ở bài
thơ này đã rọi lên tất cả, phổ lên tất cả ánh
sáng và sức ấm nóng của nó. Theo đó, từ
tính thẩm mỹ của bức tranh, người đọc
phát hiện ra cả một bầu trời bát ngát tự do
về tư tưởng và mênh mông tình người
trong cách quan niệm và cái nhìn nghệ
thuật của người tù. Đồng thời cũng từ đó,
hé lộ cả một tấm chân dung đầy nghị lực, ý
chí vượt lên cảnh ngộ buồn để hướng về tự
do, ánh sáng của Hồ Chí Minh. Không gian
nghệ thuật đó cho người đọc thấy chất
nghệ sĩ, minh triết và chiến sĩ cách mạng
hài hòa một cách tự nhiên và thuyết phục.
Cái nhìn nghệ thuật trong hai câu đầu được
đặt ở điểm nhìn thiên nhiên, đó là cảnh
thiên nhiên và vũ trụ thấm buồn trên con
đường chuyển lao của người tù. Nhưng cái
nhìn di chuyển sang hai câu cuối thể hiện ở
điểm nhìn con người với ý nghĩa hoàn toàn
tương phản với hai câu đầu. Quan trọng
hơn, đó là con người trẻ trung, khỏe khoắn,
lao động với nhiều giá trị hàm chứa về
niềm tin, hạnh phúc, tương lai. Điều đó
mang lại sự ấm nóng, thay cho cái lạnh, tối,
xám ở hai câu thơ đầu, và tỏa rạng sự ấm
áp cùng vẻ đẹp con người khắp cả bài thơ
và tâm hồn người đọc.


2. CON NGƯỜI CHỦ THỂ
Nhật kí trong tù thể hiện rõ quan niệm
con người là chủ thể. Điều đó được bộc lộ
từ cách nhìn cho đến việc xây dựng và
miêu tả hình tượng mới mẻ của tác giả tập
thơ. Nếu quan niệm con người là trung tâm
thể hiện vị trí trung tâm, tâm thế trung tâm
trong các bức tranh, từ bức tranh hoành
tráng toàn bộ tập thơ cho đến các bức tranh
bộ phận ở từng bài thơ, thì con người chủ
thể là quan niệm nghệ thuật thể hiện rõ sức
mạnh của con người, sự tác động mang
tính chủ động vào hoàn cảnh và chính bản
thân mình để biến chuyển, thay đổi thực
trạng theo chiều hướng tích cực và tiến bộ.
Đó chính là những điểm mới trong quan
niệm nghệ thuật về con người của Nhật kí
trong tù so với văn học cổ điển và văn học
dân gian.
Nhìn chung, trong văn học cổ điển
cũng như trong văn học dân gian, con
người thường được quan niệm là con người
nhất phiến, con người thuần toàn. Ở đó,
con người thường là sản phẩm của hoàn
cảnh, nghĩa là con người được xem xét và
quan niệm như là một phân hệ của hoàn
cảnh theo mối quan hệ nhân - quả. Trong
văn học dân gian thì con người chưa được
khai thác về mặt tâm lí, cái nhìn nghệ thuật
là bên ngoài chứ không phải cái nhìn bên

trong, và cách kể là của người trần thuật
chứ không phải của nhân vật; nhân vật
được thể hiện chủ yếu ở hành động xảy ra
trong hoàn cảnh theo lôgic nhân - quả chứ
không phải tâm lý. Chẳng hạn nhân vật
Tấm bị dì ghẻ đối xử tệ bạc, độc ác thì
khóc rồi đến lúc đấu tranh phản kháng lại;
Thạch Sanh thì làm theo yêu cầu của Lý
Thông... Người đọc chưa thấy được diễn
biến tâm lí bên trong của nhân vật.
Trong văn học trung đại, con người
trong thơ trữ tình thường buồn vui theo thế
16


thái nhân tình, và chủ yếu những người
sáng tác thơ là các nho sĩ, quan chức nên
sự buồn vui luôn gắn với thế sự, triều chính
và mệnh quan của mình. Do vậy mà lúc
gặp vận tốt thì tiếng thơ vui, khi gặp vận
xấu thì giọng thơ buồn và nhà thơ tìm đến
thiên nhiên để giãi bày nỗi niềm cùng trăng
hoa cây cỏ. Đỗ Phủ buồn thế cuộc và thân
phận thì Đăng cao, thả nỗi sầu vào vũ trụ.
Bạch Cư Dị thất thế thì bộc lộ sầu đau
trong tiếng đàn tì bà âm vang trường hận.
Lý Bạch chán cảnh tù túng và phàm tục nơi
cung điện thì giã biệt triều đình không chút
luyến tiếc để ra đi ngao du sơn thủy, luyện
đan múa kiếm và thả hồn vào thiên nhiên

vũ trụ trong tâm trạng của một vị “Trích
tiên” (vị tiên bị đày xuống trần gian).
Nguyễn Trãi bị bọn xấu gièm pha, mưu hại
thì Giũ bụi lầm để đến với tùng lâm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi dâng sớ chém
bọn lộng thần nhưng không được vua nhà
Mạc chuẩn tấu, đã lặng lẽ cáo quan về với
mai, cuốc, cần câu và vui trong cuộc sống
đạm bạc nơi vắng vẻ mà lánh xa chốn lao
xao: Một mai, một cuốc, một cần câu,/ Thơ
thẩn dầu ai vui thú nào;/Ta dại, ta tìm nơi
vắng vẻ,/ Người khôn, người đến chốn lao
xao (Nhàn). Nguyễn Khuyến trong giai
đoạn bất đắc chí, cáo quan về ở ẩn và tìm
đến với thiên nhiên để lặng lẽ chiêm
nghiệm, chìm đắm trong thiên nhiên với
những hoa năm ngoái, ngõ trúc quanh co,
ao thu lạnh lẽo, ngõ tối đêm sâu...
Đến Nhật kí trong tù, Hồ Chí Minh đã
thể hiện một quan niệm nghệ thuật mới về
con người. Ở đó, con người không còn
thuần toàn, nhất phiến và luôn là hệ quả,
kết quả của hoàn cảnh nữa, mà con người
đã có sự đan xen của các phần, các nét như
tinh thần và thể xác, cơ thể và tư tưởng,
tình cảm, hành động và tâm lý... Đặc biệt,
quan niệm và cái nhìn nghệ thuật của tác

giả tập thơ được thể hiện không phải trong
những triết luận khô khan hay thiên về lí

thuyết mà là trong thực tiễn những cảnh
ngộ xác thực. Do vậy sức thuyết phục của
từng bài thơ và cả tập thơ rất cao.
Chẳng hạn, bài thơ đề từ là ví dụ tiêu
biểu và có ý nghĩa chủ đạo cho cả tập thơ:
Thân thể tại ngục trung,/ Tinh thần tại ngục
ngoại./ Dục thành đại sự nghiệp,/ Tinh thần
cánh yếu đại (Thân thể ở trong lao,/ Tinh
thần ở ngoài lao./ Muốn nên sự nghiệp lớn,/
Tinh thần càng phải cao). Trong bài thơ
này, con người chủ thể xuất hiện trước hết
từ một quan niệm mới về con người của tư
duy nghệ thuật hiện đại: con người đã tự
tách mình thành hai mình để triết luận.
Trong đó, tác giả - nhà tư tưởng cách mạng,
nghệ sĩ cách mạng, nhà minh triết cách
mạng Hồ Chí Minh - đã chủ động và bình
tĩnh, ung dung và sáng suốt để quan sát, mổ
xẻ, đánh giá con người nhân vật – người tù
Hồ Chí Minh. Nghĩa là, con người tinh
thần, tư tưởng đã vượt thoát lên con người
thân thể, bản thể để hoàn toàn chủ động và
sáng suốt mổ xẻ, phân tích trạng huống của
chính mình trong cái nhìn đối lập thân thể tinh thần, trong lao - ngoài lao và khẳng
định Muốn nên sự nghiệp lớn thì Tinh thần
càng phải cao. Tâm thế sáng suốt và ý chí
nghị lực kiên cường của con người chủ thể
ở bài thơ còn được thể hiện rõ trong giọng
điệu bài thơ rắn rỏi, khẳng khái, mạnh mẽ,
khẳng định.

Như vậy, con người là chủ thể khi
phần người vượt qua, vượt lên phần con
trong việc quên nỗi đau riêng mà hướng
đến tha nhân để thương xót, cảm thông, sẻ
chia và an ủi. Nghĩa là phần người trong
con người làm chủ phần con trong con
người. Điều đó được thể hiện ở nhiều bài
thơ, tiêu biểu như các bài Chiều tối, Ốm
nặng, Bốn tháng rồi, Một người tù cờ bạc
17


vừa chết, Vợ người bạn tù đến thăm
chồng... Trong Ốm nặng, con người được
đặt trong sự bủa vây tứ bề của những ngặt
nghèo, bệnh tật, gian nan, khó khăn và thử
thách: Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh,/
Nội thương đất Việt cảnh lầm than./ Trong
tù mắc bệnh càng thêm khổ,/ Đáng khóc
mà ta cứ hát tràn. Nhưng người tù đã vượt
qua, vượt lên tất cả, thay không gian của
nóng lạnh, lầm than, khổ bằng không gian
tiếng hát của người chiến thắng. Điều đó
thật xúc động và cũng đáng tự hào, vì đó là
cuộc chiến khó khăn nhất nên chiến thắng
cũng vinh quang nhất của con người: chiến
thắng chính mình!
Con người là chủ thể không chỉ được
thể hiện trong mối quan hệ giữa con người
với thiên nhiên, vũ trụ, ngoại cảnh mà còn,

và quan trọng nhất là trong mối quan hệ với
chính mình. Con người là chủ thể đã vượt
qua cảnh ngộ thực bi thảm của bản thân để
hướng đến vạn vật, tìm trong đó những ý
nghĩa triết học, nhân sinh mới mẻ và tích
cực. Ngay trong cảnh ngộ bị trói treo ngược
và giải đi bằng thuyền, Hồ Chí Minh vẫn vẽ
nên bức tranh lãng mạn và trữ tình: Làng
xóm ven sông đông đúc thế,/ Thuyền câu rẽ
sóng nhẹ thênh thênh (Đáp thuyền đi huyện
Ung Ninh). Hoặc như, trong cảnh ngục tù
đầy rẫy những gian khổ, khắc nghiệt, khốn
khó như thế nhưng Người vẫn ung dung
thanh thản để khi âm vang tiếng giã gạo
vọng đến, không chỉ người lắng nghe được
mà còn diệu kì là ở chỗ Người triết luận về
giáo dục, về nhân sinh từ âm thanh của việc
giã gạo vốn quá đỗi thường tình đó: Gạo
đem vào giã bao đau đớn,/ Gạo giã xong rồi
trắng tựa bông./ Sống ở trên đời người cũng
vậy,/ Gian nan rèn luyện ắt thành công.
Hoặc Người nhìn cột cây số, nghe tiếng gà
gáy, cảm nhận về cái răng rụng hay chiếc
gậy bị lính ngục lấy cắp với những chiêm

nghiệm và triết luận đầy tính nhân văn. Tư
tưởng và tâm thế đó thể hiện khá nổi bật
trong quan niệm nghệ thuật, cái nhìn và
giọng điệu của thi phẩm Đêm ngủ ở Long
Tuyền (Dạ túc Long Tuyền): “Đôi ngựa”

ngày đi chẳng nghỉ chân,/ Món “gà năm
vị”, tối thường ăn./ Thừa cơ rét, rệp xông
vào đánh,/ Mừng sáng nghe oanh hót xóm
gần. Trong thi pháp kết cấu thẩm mỹ của bài
thơ, xét về số lượng thì các chi tiết thể hiện
sự vất vả, gian khó, khổ cực chiếm phần lớn:
“đôi ngựa” (đôi chân) phải đi bộ suốt ngày
không được nghỉ, tối về thì thường ăn “gà
năm vị” (chân bị xiềng chân tréo như chân
gà) suốt đêm; rồi rét, rệp tha hồ chích, cắn.
Chỉ có một chi tiết thể hiện niềm vui, hạnh
phúc là tiếng oanh hót sớm ở xóm gần. Thế
nhưng, chính tín hiệu âm thanh của tiếng
oanh hót đó là điểm nhấn, lả nhãn cú của câu
thơ khẳng định niềm tin, lòng lạc quan của
con người chủ thể vượt thoát ngoại cảnh và
chính mình của Hồ Chí Minh.
Đặc biệt là con người chủ thể luôn
hướng đến tự do, ánh sáng và tương lai với
nhiều hình thức và bút pháp nghệ thuật
khác nhau. Một mặt, thể hiện qua các từ tự
do, ánh sáng, ngày mai, tương lai, màu
hồng, ngày xuân,...được nhắc đến trực tiếp;
mặt khác, thể hiện trong chiều hướng vận
hành của cấu trúc thẩm mỹ các bài thơ từ
buồn sang vui, từ tối sang sáng, từ lạnh
sang ấm nóng. Bài Chiều tối là một minh
chứng. Trong bài thơ này, con người làm
chủ bản thân, con người tư tưởng “hội
xung phong” không bị ngoại cảnh thực u

tối, trầm buồn, thê lương nào đó kéo mình
vào, chi phối và tác động theo chiều hướng
yếm thế, hay bị thất thế bởi những xúc cảm
của thân thể, mà vượt lên và chủ động
chuyển cái nhìn từ ngoại cảnh tối sang
sáng, lạnh sang ấm nóng: chuyển từ quyện
điểu (chim mỏi mệt), cô vân (đám mây cô
18


độc) sang sơn thôn thiếu nữ (thiếu nữ xóm
núi); chuyển từ tầm túc thụ (tìm cây ngủ)
chậm buồn sang ma bao túc (đang xay
ngô) năng động; chuyển mộ (chiều tối u
ám) sang lô dĩ hồng (lò than đã đỏ) ấm áp,
nồng đượm và rực sáng.
Ở bình diện khác, tự do và niềm vui
tiềm ẩn trong những bài tả thực trạng buồn
nhưng chủ thể trữ tình đã chuyển hướng
góc tiếp cận, đổi giá trị cảnh ngộ trong
những hoàn cảnh tưởng chừng như không
thể. Bài Ghẻ là một thí dụ trong nhiều thí
dụ tiêu biểu: Đầy mình ghẻ tím như hoa
gấm,/ Sột soạt luôn tay tựa gảy đàn;/ Mặc
gấm bạn tù đều khách quý, Gảy đàn trong
ngục thảy tri âm. Xét về mặt cấu trúc thẩm
mỹ thì bài thơ chỉ có 1/4 là hiện thực bi
thảm, là khách thể, còn 3/4 là thuộc về ánh
sánh, sắc màu, âm thanh vui trong cái nhìn
đầy bản lĩnh và nhân văn của chủ thể. Tức

là chủ thể đã chủ động chuyển đổi bản chất
của khách thể và chiếm lĩnh dung lượng
cũng như không gian nghệ thuật bài thơ.
Chính vì quan niệm con người là chủ
thể nên hệ quả là Nhật kí trong tù của Hồ
Chí Minh đã thể hiện sức mạnh tinh thần
lớn lao của nhà thơ. Sức mạnh đó gắn liền
với bản lĩnh nhận thức sự vật, mối quan hệ
giữa các sự vật mang tính biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhật kí trong tù thể
hiện một tương quan cảnh - tình mới, trong
đó tình và ý xây dựng trên ý nghĩa khách
quan của cảnh vật, sự kiện, chứ không phải
theo kiểu “người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ” như cách quan niệm một chiều khá
phổ biến của người xưa và trong thơ xưa.
Trong thơ Hồ Chí Minh cũng có nhiều
trăng, chim muông cỏ cây: Trong thơ Bác,
trăng với hoa là bạn (Hoàng Trung
Thông), thế nhưng con người không chìm
khuất trong đó, vì dù thiên nhiên có là một
phần cuộc sống của người trong văn hóa

Hồ Chí Minh đi chăng nữa nhưng chủ thể
vẫn là con người. Do vậy, trong tất cả mọi
mối quan hệ với vũ trụ, thiên nhiên ở Nhật
kí trong tù, con người vẫn luôn không chỉ
là trung tâm mà còn là chủ thể của bức
tranh. Chẳng hạn như bài thơ Giải đi sớm
(Tảo giải), mối quan hệ giữa con người với

thiên nhiên và vũ trụ được thể hiện trong
một cảm quan tinh tế, nhạy bén.
Trong bài I, thiên nhiên và vũ trụ hiện
lên với những vẻ khắc nghiệt cộng với
hoàn cảnh người tù bị giải đi càng làm tăng
tính chất gian nan của hoàn cảnh. Người tù
bị giải đi vào lúc gà gáy lần đầu, tức vào
khoảng nửa đêm, thời tiết giá lạnh, và con
đường mà người tù phải trải qua dường
như diệu vợi, không xác định được đích
đến. Theo lôgic thông thường của tâm lí
con người thì từ điều kiện đó, hệ quả của
nó là con người sẽ buồn nản, ngái ngủ, mệt
mỏi, than vãn, bất bình... Nhưng ở bài thơ
thì chân dung con người hiện lên lại khác
hẳn. Người tù nhanh chóng chuyển từ thế
bị động thành chủ động; cảnh không những
không thể làm nản lòng con người được mà
con người còn chủ động tìm cái đẹp và thi
vị ngay trong hoàn cảnh tưởng chừng như
không thể: ngắm trăng sao và hình tượng
hóa các chi tiết vũ trụ và thiên nhiên là
trăng, chòm sao, dãy núi mùa thu,... vốn
rời rạc và lạnh lẽo trong cảnh mùa đông
thành một hệ thống gắn kết nhuần nhị và
đầy tính nhân sinh: Quần tinh ủng nguyệt
thướng thu san (Chòm sao nâng vầng trăng
vượt lên núi mùa thu). Con người ở đây
được nhìn và quan niệm không phải là
phạm nhân mà là chinh nhân với tư thế chủ

động cho sự lên đường: dĩ tại chinh đồ
thượng (đã ở trên con đường xa) trong tư
thế nghênh diện (ngẩng đầu) trước thu
phong trận trận hàn (nhiều trận gió lạnh
mùa thu) dồn dập và khắc nghiệt dồn về,
19


đổ đến.
Chính tâm thế con người là chủ thể đó
quyết định cái nhìn, tầm nhìn vào vũ trụ
trong chiều hướng vận hành theo niềm tin
của chủ thể trữ tình. Thế nên, trong bài II,
cái ấm nóng, tươi sáng của màu hồng, của
noãn khí đã thay cho cái lạnh, tối của u ám
và trận trận hàn ở bài I.
Con người trong Nhật ký trong tù luôn
chủ động trước thiên nhiên và vũ trụ.
Trong bài Ngắm trăng (Vọng nguyệt), dù
Trong tù không rượu cũng không hoa
những vì cảnh đẹp nên người tù đã quên
cảnh ngộ của mình để chủ động ngắm
trăng trong mối tương quan con người là
chủ thể và truyền tải cảm hứng đến trăng,
làm cho trăng vốn tự thân vô cảm bỗng trở
thành hình tượng đầy tính nhân văn: Người
ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,/ Trăng nhòm
khe cửa ngắm nhà thơ. Trong bài Cảnh
chiều hôm (Vãn cảnh), chính vì con người
tiềm tàng sức mạnh của mình nên hương

hoa đã tìm đến với tù nhân để nói lên tiếng
nói bất bình về lẽ sớm nở tối tàn bất công:
Hương hoa bay thấu vào trong ngục,/ Kể
với tù nhân nỗi bất bình.
Tóm lại, tư duy nghệ thuật sâu sắc và

bút pháp thể hiện độc đáo của Hồ Chí
Minh về con người ở Nhật kí trong tù đã
tạo nên những điều mới mẻ cho tập thơ so
với văn học cổ điển Việt Nam và Trung
Quốc. Trong đó, con người trung tâm và
chủ thể trong mọi mối quan hệ với vạn vật
là một phương diện khá nổi bật. Điều đó là
kết quả sự tham chiếu và phối ứng của tính
khoa học, thực tiễn và nhân văn từ tư tưởng
triết học phương Đông và chủ nghĩa Mác Lênin. Nhưng trước hết là những phẩm
chất siêu việt về tư tưởng, xúc cảm và thẩm
mỹ của chính chủ thể trữ tình Hồ Chí
Minh. Tầm nhìn mới, triết lí mới cùng
những chiều kích nhân văn mới mẻ và sâu
sắc trong thi pháp quan niệm nghệ thuật về
con người của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng
và chi phối các vấn đề khác của thi pháp
tập Nhật ký trong tù như cấu trúc thẩm mỹ,
thời gian - không gian nghệ thuật và giọng
điệu. Hiểu và học tập cái nhìn, quan niệm
nghệ thuật về con người trong Nhật kí
trong tù không chỉ giúp người đọc hiểu
thêm về cái hay cái đẹp của tập thơ, mà
còn là một trong nhiều cách học tập tư

tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
có hiệu quả và thiết thực.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Lê Nguyên Lưu (1997), Đường thi tuyển dịch, Nxb Thuận Hóa.

2.

Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

3.

Hoàng Như Mai, Nguyễn Văn Hấn (2005), Tìm hiểu bản sắc dân tộc trong thơ
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.

4.

Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Mấy vấn đề về phương pháp tìm hiểu, phân tích thơ
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

5.

Hồ Chí Minh (2008), Nhật kí trong tù, Nxb Chính trị Quốc gia.

6.

Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Nxb TP Hồ Chí Minh.
20



7.

Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn,
Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.

8.

Nhiều tác giả (1997), Nghiên cứu, học tập thơ văn Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Ngày nhận bài: 28/10/2014

Biên tập xong: 01/3/2015

21

Duyệt đăng: 20/3/2015



×