Đề bài: Đời thừa – một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng
tháng Tám
Bài làm
Trong cuộc đời cầm bút của mình, Nam Cao luôn suy nghĩ, trăn trở về cuộc sống và viết.
Điều này thể hiện rõ nét trong tác phẩm của ông suốt từ trước đến sau Cách mạng, trở
thành hệ thống quan điểm sáng tác của ông. Nhiều tác phẩm của ông được coi là tuyên
ngôn nghệ thuật với những quan điểm tiến bộ và sâu sắc. Trong đó, Đời thừa là một
tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám.
Nói đến tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng, người ta thường nghĩ đến
Trăng sáng. Song quan điểm nghệ thuật được Nam Cao phát biểu thành hệ thống và có
chiều sâu tư tưởng thì phải nói đến Đời thừa chứ không phải Trăng sáng.
Nếu như trong Trăng sáng, nhà văn phê phán nghệ thuật lãng mạn thoát li trốn tránh trách
nhiệm, trốn tránh cuộc đời, ông coi đó là ánh trăng lừa dối, thì đến Đời thừa ông còn phê
phán cả lối tả chân hời hợt, chỉ tả được cái bề ngoài xã hội. Với quan điểm nghệ thuật
chân chính phải trở về với cuộc đời thực. Hộ (người phát ngôn của Nam Cao) đã có
những nhận xét đích đáng về cuốn Đường về. Cuốn “Đường về” chỉ có giá trị địa phương
thôi, các anh có hiểu không? Người ta dịch nó vì muốn biết phong tục của mọi nơi. Nó chỉ
tả được cá bề ngoài của xã hội. Tôi cho là xoàng lắm! Như vậy, Nam Cao không chỉ đối
lập văn chương giả dối với văn chương chân thực mà còn phân biệt cái chân thực bề
ngoài với chân thực có chiều sâu trong nghệ thuật. Điều này thể hiện tư tưởng mới mẻ
và sâu sắc của ông.
Không tán thành loại sáng tác chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội, Nam Cao cho rằng một
tác phẩm thật giá trị thì phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác
phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau
đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… nó làm cho
người gần người hơn. Đây chính là điều cốt lõi làm nên giá trị đích thực của một nền văn
học lớn. Trong lúc xã hội thuộc địa nửa phong kiến đầy hỗn loạn, văn chương thật – giả
lẫn lộn, nhà văn bị cơm áo ghì sát đất, vậy mà vẫn có một Nam Cao trong sáng vô ngần,
trung thực vô ngần (Tô Hoài) và đầy tâm huyết với nghiệp văn, thật đáng quý biết bao.
Nhiệt tình, tâm huyết và trách nhiệm của người cầm bút đã khiến ông có những suy nghĩ
nghiêm túc đầy tiến bộ về nghệ thuật đích thực. Văn chương của ông hướng tới lòng yêu
thương con người, tình bác ái, sự công bằng. Nó là mục đích cao cả là giúp cho người gần
người hơn. Thì ra sứ mệnh mà cuộc sống giao cho nhà văn, giao cho tác phẩm của ông
thật lớn lao. Nhà văn phải làm cho con người gần gũi nhau hơn, yêu thương nhau hơn. Đó
cũng chính là ý nghĩa văn học là nhân học vĩ đại trong tư tưởng Nam Cao.
Và sự thực Nam Cao cũng đà làm được điều mình nói. Trong tác phẩm của mình, không ít
lần ông vẽ nên những cảnh tượng xót thương, đau lòng rồi thổi lên trong lòng người đọc
sự xót xa, nuối tiếc, sự yêu thương, căm giận, cảm thông. Ta xót thương cho cái chết của
Lão Hạc bao nhiêu thì ngậm ngùi cho đám cưới của Dần bấy nhiêu, đau đớn, day dứt
khôn nguôi cho cái chết của Chí Phèo trên con đường trở lại hoàn lương bao nhiêu thì căm
ghét xã hội thuộc địa phong kiến vô nhân đạo bấy nhiêu và cảm thông vô cùng với những
trí thức như Điền ( Trăng sáng), Hộ (Đời thừa) những con người có ước mơ hoài bão lớn
nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất.. Điều này chỉ có được khi trong thẳm sâu trái tim của
người viết có tình yêu thương trân trọng con người vô hạn. Nỗi niềm day dứt về con
người, tình yêu thương ấy qua quá trình thai nghén đã trào dâng lên ngọn bút để viết nên
những tác phẩm bất hủ của lòng nhân đạo.
Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã phát biểu rất hay về yêu cầu tìm tòi sáng tạo của
nghề văn và lương tâm của người cầm bút: Văn chương không cần đến những người thợ
khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những
người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì
chưa có.
Trước hết, Nam Cao lên tiếng phủ nhận những nhà ván được gọi là những người thợ
khéo tay – những người chỉ biết bắt chước người khác. Đó là những nhà văn chỉ chuyên
chú gọt đẽo ngôn từ tạo nên thứ văn chương đơn giản là văn chương rập khuôn. Thực
chất đó chỉ là thứ văn chương nông cạn, hời hợt, lặp lại, sáo mòn theo một khuôn mẫu đã
có trước đó. Bản chất đích thực của văn chương là sự sáng tạo: Văn chương chỉ dung nạp
những người biết đào sâu tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì
chưa có. Văn chương không cho phép bất cứ sự lặp lại nào. Nghệ thuật là một quá trình
chọn lọc khắc nghiệt. Vì vậy, muốn tác phẩm của mình không bị đào thải thì nhà văn
phải có quá trình tìm tòi, sáng tạo. Con đường lao động nghệ thuật của các nhà văn là con
đường lao động chân chính, lao động thực thụ.
Khi Nam Cao đòi hỏi mỗi nhà văn phải khơi những nguồn chưa ai khơi là ông muốn nhà
văn phải tìm đến những gì chưa ai phát hiện ra. Cuộc đời dường như là một dòng sông
lớn. Nơi ấy đã có những mạch nguồn hiện hữu, nhưng nơi ấy vẫn hãy còn rất nhiều
những mạch nguồn tiềm ẩn mà nhiệm vụ của nhà văn là phải khám phá những mạch
nguồn này. Đó quả là một nhiệm vụ không dễ dàng gì đòi hỏi ờ nhà văn tài năng và một
tinh thần lao động thực sự — một sự cống hiến và tâm huyết nghề nghiệp.
Tim tòi ra những chân lý nghệ thuật này hẳn Nam Cao cũng đã trải qua quá trình suy nghĩ,
trăn trở của một nhà nghệ thuật tâm huyết. Tư tưởng ấy trở thành chân lý nghệ thuật nói
chung và chân lý trong văn chương nói riêng cho mọi thời đại ở mọi nền văn học.
Cuộc đời lao động của Nam Cao là tấm gương sáng cho những nỗ lực tìm tòi, khám phá
giàu giá trị sống mãi cùng thời gian: Chí Phèo, Đời thường… Trong hiện thực mới mẻ
nhất mà Nam Cao khám phá đó là sự tha hóa về nhân phẩm: Hình ảnh người lao động bị
xã hội phong kiến thực dân hủy hoại cả nhân hình, nhân tính (Chí Phèo), người trí thức có
hoài bão lớn, có ý thức về lẽ sống tình thương nhưng lại vi phạm vào chính những lẽ
sống tình thương đó và cẩu thả, đê tiện trong nghề nghiệp (Hộ – Đời thừa)… Đây là
điểm mới mà các nhà văn hiện thực trước đó mới chỉ ra được sự bần cùng, quá trình đói
cơm rách áo của người nông dân, người trí thức mà thôi. Đồng thời, một điển hình mới
mẻ, tiến bộ nữa trong sáng tác của Nam Cao là thấy được quá trình thức tỉnh lương tâm
làm người của Chí Phèo, quá trình thức tỉnh nhận ra mình là một người thừa, một kẻ khốn
nạn ở Hộ… Ngoài ra, nếu như trước đây, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố đem đến cho
chúng ta những nhân vật thiên về hành động, những cuộc đấu tranh diễn ra hàng ngày trên
bề mặt cuộc sống thì Nam Cao lại chủ động đi vào nội tâm nhân vật với rất nhiều vui
buồn, đau đớn, xót xa, ân hận. Cả người nông dân và người trí thức của Nam Cao đều rất
giàu nội tâm…
Như vậy Nam Cao không những có quan điểm chân chính, ông còn thực hiện những quan
điểm ấy một cách xuất sắc. Điều đó làm nên sự vĩ đại của nhà văn Nam Cao – một nghệ
sĩ lớn – một trái tim lớn. Và cũng cần khẳng định rằng hơn bất cứ ở đâu, truyện ngắn Đời
thừa cho thấy đầy đủ nhất những quan điểm nghệ thuật sâu sắc, tiến bộ của Nam Cao.