Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Phân tích cái ngông của nhà thơ Tản Đà trong bài thơ Hầu Trời

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.29 KB, 20 trang )

Đề bài: Phân tích cái ngông của nhà thơ Tản Đà trong bài thơ Hầu Trời
Bài làm 1
Tản Đà là một trong những thi sĩ đi đầu cho thơ  Việt Nam hiện đại. ông là người thứ 
nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một 
cái tôi.
Bằng bản lĩnh của mình, Tản Đà mang đến một luồng sinh khí mới cho nền văn học Việt  
Nam. Thi sĩ trực tiếp thể hiện cái tôi bản ngã của mình một cách hết sức độc đáo và mới  
mẻ. Và "Hầu Trời” là một trong những bài thơ kết tinh những nét riêng độc đáo đó.
Như Hoài Thanh đã nói "Tiên sinh là người của hai thế kỉ”, Tản Đà là người đã đặt được  
dấu gạch nối giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại, là người "dạo bản đàn mở 
đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ  đương sắp sửa” (Hoài Thanh). Tản Đà tên thật là  
Nguyễn Khắc Hiếu, ông sống khoáng đạt và đã đeo "túi thơ” đi khắp cuộc đời mình. Là 
một cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, ông để lại khá nhiều tác  
phẩm cho đời. Trong đó đáng kể là "Hầu Trời” được trích trong tập Còn chơi (1921). Bài  
thơ đã thể hiện rõ cái tôi cá nhân của Tản Đà thông qua sự việc lên thiên đình đọc thơ.
Trong sáng tác văn học, không phải ai cũng thể hiện được cái tôi của mình trên trang viết.  
Cái tôi gắn liền với cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi người viết  
phải thể  hiện được cái riêng có giá trị  thẩm mĩ cao, có khả  năng đóng góp tích cực cho  
nền văn học chung.
Tản Đà­nhắc đến thi nhân là nhắc đến "xê dịch, ngông và đa tình”. Ba yếu tố đủ  để  làm  
nên một cái tôi riêng trong làng thơ Việt Nam. Nhưng có lẽ, cái tôi độc đáo của nhà thơ đã  
thể  hiện trong "Hầu Trời” là một cái tôi ngông rất lạ. "Ngông” không phải chỉ  định một 
kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác. Cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên 
khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài của mình, tự tin để 
khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận. Người ngông tạo cho  
mình những phong cách riêng, khác người nhưng để lại những ấn tượng sâu đậm.
Chất ngông thương được thể hiện bởi các nhà văn, nhà thơ có ý thức cao độ về cái tài và  
cái tình. Với cái tài đó, họ  mang ra phục vụ  cho đời nhưng cũng là để  "đóng dấu” hình  
ảnh của mình với thời gian. Họ  có thể  ngông bởi họ  có tài, họ  có cái để  hãnh diện, để 



thách thức với cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong cuộc sống, mỗi con người họ đã  
là một tính cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người nào khác. Và cái 
ngông ấy trong "Hầu Trời” đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo.
Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài năng của mình. Vì vậy tiếng ngâm thơ "vang cả sông Ngân  
Hà” khiến Trời mất ngủ là ở chỗ ấy.
"Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải thảng thốt không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật than thể
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!”.
Cái duyên được lên hầu Trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút  
cảm hứng của nhà thơ. Chuyện tưởng tượng nhưng như  thật, có lẽ  cái tôi độc đáo của 
Tản Đà là ở chỗ vào đề tự nhiên, hấp dẫn nhưng có duyên. Để thế gian thấy tài năng của  
nhà thơ đã khó vậy mà ngay đến Trời còn say mê, chư tiên yêu thích thì thật lạ lùng. Vậy 
mới thấy được cái ngông của nhà thơ  biểu hiện mạnh mẽ  qua bài Hầu Trời. Đã có dịp  
được lên Thiên đình, vì thế Tản Đà tranh thủ "quảng cáo” tài năng của bản thân:
"Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè Trời nhấp giọng càng tốt hơn.”
Tác giả  đọc thơ  rất tự  tin, khoe tài của mình, đọc cao hứng và nhập thân vào tác phẩm. 
Qua đó bộc lộ cái tôi in đậm phong cách cái tôi cá nhân tự ý thức của chính ông. Sẵn tiện  
nhà thơ giới thiệu luôn những tác phẩm của mình:
"Bẩm con không dám man cửa Trời
Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch



Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Trời văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi?”
Nhà thơ có vẻ rất đắc ý bởi ông ý thức được cái tài của mình. Khẳng định bản ngã cái tôi 
phóng túng, ý thức tài năng giá trị của mình giữa cuộc đời. Trước Tản Đà các nhà nho tài 
tử đều hết thảy thị tài nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm khá rộng.  
Họ không dám nói đến cái hay, cái "tuyệt” của thơ mình, hơn nữa, lại nói trước mặt Trời. 
Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao độ. Chính vì vậy mà đến Trời cũng  
phải tán thưởng:
"Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong một bài cùng vỗ tay.”
"Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”
Chính vì tình yêu văn chương, ông mới tự  tin sáng tác, chuyển tải những tư  tưởng tình 
cảm mới mẻ vào trang thơ. Dường như  với ông, hầu Trời là khoảnh khắc đẹp nhất. Vì 
thế ông mới đem cái tài của mình để thể hiện trước Trời cùng chư Tiên. Và lúc này quan 
niệm mới mẻ  của ông được bộc lộ: sáng tác văn chương là một nghề. Dù không biểu 
hiện trực tiếp nhưng đằng sau các câu chữ ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về 
hoạt động tinh thần đặc biệt này. Với Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm sống mới, 
có người bán kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường đó cũng hết sức phức  

tạp, không dễ chiều. Đặc biệt hơn dương như nhà thơ  đã ý thức được sự cần thiết phải  
chuyên tâm với nghề văn, phải có vốn để theo đuổi nó:


"Nhờ Trời văn con còn bán được”
"Vốn liếng còn một bụng văn đó”
Thật ngang tang khi thi sĩ muốn "gánh văn” lên Trời để bán.
"Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
­"Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”
Làm náo động thiên cung bằng những lời văn giàu thay lắm lối, nay nhà thơ còn muốn văn  
của ông được lan rộng cung đình để mọi người biết đến ông­ một tài năng thực thụ  của  
trần thế. Thế mới thấy được cái tôi mạnh mẽ đến nhường nào.
Qua bài thơ  "Hầu Trời” không dừng lại ở đó, Tản Đà còn vạch ra thực tế phũ phàng: tài 
năng không thống nhất với số phận. Ở cuộc đời nhà thơ thiếu tri âm, tri kỉ và bất hòa với 
cuộc đời:
"Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.”
Vì vậy ông khát khao lên Trời đọc thơ và tìm được người tri âm. Chỉ có Trời và chư  tiên 
mới hiểu cái hay, cái đẹp trong thơ  ông. Và lời Trời khen hắn là sự  thẩm định có sức 
nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đúng là lối tự khẳng định rất ngông ngạo của nhà  
thơ.
Để  Trời hiểu thơ, khen văn thơ  tuyệt, Tản Đà liền đó "tâu trình” rõ ràng thân thế  của  
mình, phù hợp hoàn toàn mạch chuyện:
"Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa Cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.
Khác người xưa, Tản Đà đã tách tên, họ theo một kiểu công khai lý lịch rất hiện đại, lại  

còn nói rõ bản quán, châu lục, trên hành tinh. Qua đó ông thể  hiện niềm yêu nước tha 
thiết, đầy tự hào về bản thân, ý thức cá nhân tự tôn dân tộc sâu sắc. Một cái tên­ tên thật  
chứ không phải tự hay hiệu­ mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có  
một giá trị  không thể  phủ  nhận gắn liền với nó. Cũng qua câu thơ, tác giả  ngầm giới 


thiệu bút hiệu của mình. Tản Đà là con người khoe tài, thị tài và rất ngông cho nên trước  
chư tiên không bao giờ kiềm chế mà luôn thể hiện hết tài hoa của mình.
Từ đầu đến cuối nhà thơ đều tự tin về tài năng của bản thân và một lần nữa Tản Đà lại  
khẳng định rất "ngông”, của kẻ vốn đã "ngông” khi nhận mình là "trích tiên” bị đày xuống  
hạ giới vì tội ngông. Nhà thơ khẳng định tài năng và thân phận "khác thường của mình”.
Sự  khác thường đặc biệt này còn nằm  ở  việc thi sĩ được thừa nhận là một người nhà 
Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả”việc thiên lương của nhân 
loại”, "Trời rằng không phải Trời đày, Trời định sai con một việc này, Là việc "thiên  
lương” của nhân loại, Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Một lần nữa cái ngông ấy lại 
được thổi vào trong ý thơ. Nhưng cái ngông  ấy chẳng qua là vì nó đối lập lại với cả  xã  
hội bất công, vì ông phải đi làm công việc là tìm lại thiên lương vốn đang bị mai một của  
con người:
"Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ
Dám xin không phụ Trời trông mong”
Nhà thơ ý thức về nhân cách, một nhân cách vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc về danh lợi.  
Nó đối lập với cái xã hội bất công vụ lợi, chạy theo đồng tiền và danh lợi thời bấy giờ.
Cuối cùng nhà thơ  vẫn muốn khẳng định, tự  khen thơ  mình. Thơ  thi nhân chẳng những  
đẹp mà còn  ẩn chứa những ý niệm cao siêu về  cuộc đời, về  thiên lương, nhân sinh thế 
giới quan… Tóm lại là tất cả những gì nhân loại cần có để vươn đến cái chân­ thiện­ mỹ. 
Thoát ra khỏi quan niệm "thi dĩ ngôn chí” , Tản Đà thực sự thăng hoa trong thế giới nghệ 
thuật, bộc lộ cảm xúc cái tự do cá nhân mới mẻ của riêng mình.
Kế  thừa nét ngông của truyền thống, song trong sự  ngông của Tản Đà, người ta không  
thấy cái ngông đến mức lấy thú ăn chơi hưởng lạc có phần tiêu cực như một cách để đối  
lại với đời như  Nguyễn Công Trứ. Và cũng không thấy cái ngông trong việc đi tìm một 

phong cách, một lối thể  hiện riêng của người tôn thờ  cái đẹp như  Nguyễn Tuân. Cái 
ngông của Tàn Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong mộng: mộng về cuộc đời, 
mộng về  sự  đổi thay, say để  mộng, mộng để  ngông với người đời. Nhưng có thể  thấy 
rằng, họ  gặp nhau  ở  một điểm cơ  bản mà nếu như  thiếu nó thì sẽ  không thể  "ngông” 
được đó là cái tài, cái tình và ý thức về cái tôi bản ngã của chính mình. Họ làm nên những 


phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, nhưng ấn tượng đặc biệt, không thể nào phai trong  
lòng người đọc và không lẫn với cái ngông của nhà thơ nào khác.
Bài thơ "Hầu Trời” đã kết tinh cái tôi của Tàn Đà. Nhưng không chỉ trên phương diện nội  
dung, những nét độc đáo và mới mẻ  còn làm nên cái tôi trong nghệ  thuật. Có lẽ  "Hầu 
Trời” có vẻ  quá dài nhưng chính điều đó lại tạo cho bài thơ  giàu yếu tố  tự  sự. Hơn thế,  
nguyên tắc tôn trọng dòng chảy tự nhiên,sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể của thơ 
cho phép nhà thơ  thoát khỏi những ràng buộc quá khắt khe về  hình thức để  tự  do vẫy  
vùng thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Thể thơ thất ngôn trường thiên được viết một 
cách phóng túng, tự do theo cá tính riêng của nhà thơ.
Bên cạnh đó, "Hầu Trời” còn đáng chú ý với hiện tượng chia khổ, các khổ có độ dài khác  
nhau tạo nên cảm xúc tự do và nét mới trong thơ văn. Cách thể hiện của Tản Đà đã vượt  
ra khỏi quy pham nội dung và nghệ thuật, muốn phá cách để thể hiện rõ cái tôi của ông.
Nét độc đáo trong cái tôi của Tản Đà là sự dung hòa nhiều yếu tố  khác nhau. Tất cả tạo 
nên ở thi sĩ tính cách của một nhà Nho tài tử, đa tình, ngông và xê dịch. Cái cũ và mới, xưa  
và nay đan xen đưa Tàn Đà trở thành người nối kết hai thời đại thi ca, trở thành ngôi sao  
sáng với vẻ đẹp rất riêng trên bầu Trời văn học Việt Nam.
Bài làm 2
Tản Đà (1889 – 1939) Tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, Quê ông  ở  Sơn Tây thuộc Ba Vì, 
Hà Nội ngày nay. Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là gạch nối 
giữa thơ  mới và thơ  cũ, là người đặt nền móng cho thơ  mới. Những đánh giá ấy đã xác  
nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là 
đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có  
những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài 

thơ  có rất nhiều điểm mới ra đời trong hoàn cảnh khuynh hướng lãng mạn khá đậm nét  
trong văn chương thời đại, xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy cảnh  
ngang trái, xót đau.
Trong sáng tác văn học, không phải ai cũng thể hiện được cái tôi của mình trên trang viết.  
Cái tôi gắn liền với cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi người viết  
phải thể  hiện được cái riêng có giá trị  thẩm mĩ cao, có khả  năng đóng góp tích cực cho  


nền văn học chung. Tản Đà­nhắc đến thi nhân là nhắc đến “xê dịch, ngông và đa tình”. Ba  
yếu tố đủ để làm nên một cái tôi riêng trong làng thơ Việt Nam. Nhưng có lẽ, cái tôi độc 
đáo của nhà thơ  đã thể  hiện trong Hầu Trời là một cái tôi ngông rất lạ. “Ngông” không  
phải chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác. Cái ngông ở đây được nói đến 
là ngông dựa trên khả  năng mình có, nghĩa là chỉ  những người tài năng, tự  tin bởi cái tài  
của mình, tự  tin để  khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận.  
Người ngông tạo cho mình những phong cách riêng, khác người nhưng để  lại những  ấn  
tượng sâu đậm. 
Chất ngông thương được thể hiện bởi các nhà văn, nhà thơ có ý thức cao độ về cái tài và  
cái tình. Với cái tài đó, họ  mang ra phục vụ  cho đời nhưng cũng là để  “đóng dấu” hình 
ảnh của mình với thời gian. Họ  có thể  ngông bởi họ  có tài, họ  có cái để  hãnh diện, để 
thách thức với cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong cuộc sống, mỗi con người họ đã  
là một tính cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người nào khác. Và cái 
ngông ấy trong Hầu Trời đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo.
Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài năng của mình. Vì vậy tiếng ngâm thơ “vang cả sông Ngân 
Hà” khiến Trời mất ngủ là ở chỗ ấy.
“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải thảng thốt không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật than thể
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!”.
Điệp từ  "thật" nhấn mạnh cảm xúc của thi nhân, những câu cảm thán bộc lộ  cảm xúc 
bàng hoàng, câu khẳng định dường như  lật lại vấn đề  mơ  mà như  tỉnh,hư  mà như  thực. 

Cách giới thiệu  ấy đã gợi cho người đọc về  một tứ  thơ  lãng mạn nhưng cảm xúc là có 
thực. Tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái hồn cốt trong cõi mộng, mộng mà như 
tỉnh, hư mà như thật. Cách vào chuyện đầy độc đáo và có duyên ấy làm cho câu chuyện  
mà tác giả sắp kể trở nên lôi cuốn.
Rồi nhà thơ kể về hoàn cảnh  bắt đầu câu chuyện đầy li kì của mình:
Nguyên lúc canh ba nằm một mình
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh
Nằm buồn ngồi dậy đun nước uống


Uống xong ấm nước nằm ngâm văn
Vậy là cái không gian mở đầu đã rất đầy đủ, thời gian – canh ba; không gian – đêm khuya;  
hoạt động – nằm một mình, uống nước ngâm thơ, rất đầy đủ để đọc giả tưởng tượng ra 
một buổi đêm hết sức vắng lặng, quạnh quẽ. Đó là cái nền hấp dẫn để bắt đầu một câu  
chuyện lên tiên của nhà thơ. Vẫn những lời kể  rất tự  nhiên, nôm na. Cái lý do lên trời  
cũng rất độc đáo mà hợp lý.
Trời nghe hạ giới ai ngâm nga
Tiếng ngân vang cả sông Ngân hà
Làm trời mất ngủ trời đương mắng
Có hay lên đọc trời nghe qua
Mượn lời của nhà trời để nói về tiếng ngâm của mình "vang cả sông Ngân hà". Ở đây ta 
đã thấy rõ cái tôi cá nhân đầy chất lãng mạn bay bổng pha chút ngông trong tác giả. Điều 
này càng rõ ràng khi thi nhân đọc thơ và nói về các tác phẩm của mình. 
Đọc hết văn vần lại văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
Nhà thơ đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc. Ông cũng kể tường tận về các  
tác phẩm của mình:
Hai quyển khối tình văn lý thuyết
Hai khối tình còn là văn chơi
Thần tiên giấc mộng văn tiểu thuyết

Giọng đọc của Tản Đà rất đa dạng, hóm hỉnh và ngông nghênh. Đoạn thơ đã cho thấy ông 
rất ý thức về tài năng văn thơ của mình, cũng là người táo bạo dám đường hoàng bộc lộ 
cái tôi cá thể. Ông cũng rất "ngông" khi tìm đến trời để thể hiện tài năng. Đây cũng là khát  
khao chân thành trong tâm hồn Tản Đà.
Sự độc đáo ở đoạn thơ còn thơ còn thể  hiện ở việc thi nhân tự  khen thơ mình nhưng lại  
để cho trời và chư tiên khen ngợi:
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn
"Anh gánh lên đây bán chợ trời"
Trời lại phê cho văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít


Người ở phương nào ta chưa biết.
Trời khen rất nhiệt thành: "văn thật tuyệt, văn chuốt như  sao băng…" chư  tiên thì xúc 
động, hâm mộ và tán thưởng: "tâm nở dạ, cơ lè lưỡi.." Đây là một lối ngông rất đáng yêu  
của thi sĩ. Cả  đoạn thơ  đậm chất lãng mạn. Đồng thời  ở  đây ta cũng thấy rõ tư  tưởng  
thoát li của nhà thơ  – muốn trốn thoát khỏi chốn trần tục, văn thơ  của ông chỉ  xứng cho 
người trời nghe, người đời không hiểu, không cảm hết được giá trị, tầm vóc của nó.
Ở đoạn thơ tiếp theo nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái tôi của mình gắn liền với tên  
tuổi thật của mình:
Con tên Khắc Hiếu họ Nguyễn
Quê ở Á châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Việt Nam
Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để thể hiện cái  
tôi của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài, biết trân trọng khẳng định tài năng của 
mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ  quyền, tự  giới thiệu như  là 
cách thể  hiện sự  tự  hào, tự  tôn dân tộc. Nhà thơ  còn khẳng định phong cách ngông của 
mình một cách hóm hỉnh:
"Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông"

Trong cuộc đối thoại với tưởng tượng với trời nhà thơ  còn khẳng định trách nhiệm và  
nghĩa vụ cao cả của mình là lo việc "thiên lương". Phải chăng đó cũng là lời khẳng định  
về  thiên chức của những người cầm bút. Đây là tình huống được tác giả  xây dựng đầy 
hợp lý để có cơ hội giãi bày về cái nghề của mình.Thi nhân kể về cuộc sống – đó là một  
cuộc sống nghèo khổ, túng thiếu, thân phận nhà văn bị  rẻ  rúng,  ở  trần gian không tìm  
được tri âm phải lên cõi trần để thỏa nguyện nỗi lòng:
Bẩm trời cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Nhà thơ Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ hiện đại không chỉ bởi hơi thở 
mới mẻ trong thơ ông, cái tôi hiên ngang trong các áng văn thơ của ông mà còn bởi ông là  


người đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”. Hầu Trời
Qua đoạn thơ   ấy ta thấy hiện lên một bức tranh đầy chân thực và cảm động về  cuộc  
sống của người nghệ sĩ trong xã hội bấy giờ, một cuộc sống cơ cực, không tấc đất cắm  
dùi, thân phận bị  rẻ  rúng, làm chẳng đủ  ăn… Cả  đoạn văn là cảm hứng hiện thực bao  
trùm.
Ở đây nhà thơ cũng ý thức rất rõ về trách nhiệm của mình là truyền bá thiên lương. Điều 
đó giúp ta chứng tỏ  Tản Đà lãng mạn chứ  không thoát ly hoàn toàn. Ông vẫn ý thức về 
trách nhiệm, nghĩa vụ với đời là góp phần đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn. Đó là 
sự khẳng định mình trước cuộc đời, khao khát được gánh vác việc đời.
Với Hầu trời, Tản Đà đã đem lại cho văn học Việt nam đầu thế kỉ  một luồng không khí 
mới. Qua một câu chuyện tưởng tượng  đầy hào hứng. Ta  đã thấy một cái tôi ngông 
nghênh, hào hoa và cái tôi cô đơn bế tắc trước thời vận. Tản Đà cũng đã tự tin khẳng định 
tài năng nói lên quan điểm văn chương thực hiện thiên lương của mình. Viết văn hay làm 
cho cuộc đời tốt đẹp hơn là sứ  mạng mà trời đã giao cho nhà thơ. Với cách kể  chuyện  
hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc, ngôn ngữ thơ tinh tế, gợi cảm, cảm xúc tự nhiên  
phóng túng trong thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do đã cho ta một tuyệt tác thi ca kì 

diệu.
Bài làm 3
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu (1889 – 1939), xuất thân trong một gia đình khoa  
bảng ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, nay là huyện Ba Vì, Hà Nội, một  
vùng có khung cảnh thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình. Cha là cử nhân Hán học Nguyễn Danh 
Kế, làm quan tới chức Án sát. Mẹ  là bà Phủ  Ba cũng thông thạo chữ  nghĩa và thích văn 
chương thi phú. Thi sĩ có hai câu thơ rất hay giới thiệu về vẻ đẹp của quê hương mình:
Nước gợn sông Đà con cá nhảy,
Mây trùm non Tản cái diều bay.
Sông Đà, núi Tản và mây trắng xứ Đoài đã gợi ý cho nhà thơ lấy bút danh:
Tản Viên ở trước mặt,
Đà Giang bên cạnh nhà.
Tản Đà.


Bút danh ấy đã được ghi nhận là mốc son trong lịch sử phát triển của thơ ca tiếng Việt và 
sống mãi trong lòng người yêu thơ  suốt bảy thập kỉ qua. Tản Đà có những đóng góp rất 
quan trọng cho nền văn học nước nhà. Các sáng tác tiêu biểu của ông là: Khối tình con I,  
II, III (thơ) ;Giấc mộng con I, II (truyện phiêu lưu viễn tưởng), Còn chơi (thơ  và văn 
xuôi),…
Tản Đà là người của hai thế kỉ. Thuở nhỏ, ông cũng theo đuổi con đường cử nghiệp của 
cha nhưng thi Hương mấy lần không đậu. Thời  ấy, Hán học cũng đã suy tàn nên ông 
chuyển qua học chữ quốc ngữ rồi sáng tác thơ, viết văn, làm báo. Ông chua chát tự  nhận 
xét: Chữ  nghĩa Tây Tàu trót dở  dang, Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng. Là nhà Nho 
nhưng Tản Đà không chịu khép mình trong khuôn khổ Nho giáo mà lại có những phá cách 
rất táo bạo. Tính chất giao thời thể  hiện rất rõ trong cuộc đời, lối sống, học vấn và sự 
nghiệp văn chương của Tản Đà.
Trong sáng tác, tuy Tản Đà vẫn thường sử dụng những thể loại cổ điển nhưng cảm hứng  
thì lại rất mới mẻ. Thơ Tản Đà thể hiện “cái tôi” lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, 
ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái. Bởi vậy nên nhà nghiên cứu phê bình văn học Hoài  

Thanh đã trân trọng xếp Tản Đà ở vị trí đầu tiên trong cuốn Thi nhân Việt Nam.
Bài Hầu Trời in trong tập Còn chơi, xuất bản năm 1921, nằm trong mạch cảm hứng lãng 
mạn đậm chất ngông của thi sĩ Tản Đà – một vị trích tiên như tác giả tự nhận, vì đánh vỡ 
chén ngọc mà bị Thượng đế đày xuống hạ giới. Có lúc chán chường trước cảnh đời nhiễu 
nhương, đen bạc, thi sĩ than thở:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần thế em nay chán nửa rồi,
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
(Muốn làm thằng Cuội).
Có khi cao hứng, thi sĩ còn mơ lạc bước vào chốn Thiên Thai, được gặp gỡ các giai nhân 
như  Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi… đàm đạo văn chương với Đoàn Thị  Điểm,  
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… Còn lần này thì thi sĩ đã được mời lên tận thiên đình để 
đọc thơ Hầu Trời !
Qua bài thơ  này, Tản Đà đã mạnh dạn thể  hiện“cái tôi”cá nhân – một“cái tôi”ngông  


nghênh, phóng túng lạ  kỳ! Đó cũng là cách thể  hiện ý thức về  tài năng, giá trị  đích thực 
của bản thân và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời. Có thể tóm tắt nội dung  
bài thơ  như  sau: Đêm khuya thanh vắng, thi sĩ buồn nên đun nước pha trà uống rồi cất  
tiếng ngâm văn.Tiếng ngâm sang sảng vọng tới trời cao. Hai tiên nữ  xuống truyền lệnh  
Trời đòi thi sĩ lên hầu chuyện. Thi sĩ được đón tiếp trọng vọng, được mời đọc văn thơ. 
Trời và chư tiên hết lời khen ngợi, tán thưởng. Trời truyền hỏi danh tính, thi sĩ kể lể tình  
cảnh khốn khó của kẻ  theo đuổi nghề  văn dưới hạ  giới. Trời an  ủi, khuyên nhủ, thi sĩ  
cảm kích lạy tạ ra về. Cuối cùng là cuộc chia tay đầy xúc động của thi sĩ với Trời và chư 
tiên.
Cách vào đề  của bài thơ  khá thú vị, khiến người đọc cảm nhận được tài hư  cấu nghệ 
thuật độc đáo và lối dẫn dắt rất có duyên của Tản Đà:
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể !
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.
Giấc mơ đêm qua mà thi sĩ là người trong cuộc cũng không biết rõ là có hay không, thực  
hay hư. Nếu là mơ thì ắt hẳn không thể có thực; nhưng mọi chi tiết, hình ảnh vẫn hiện ra  
rõ ràng, nên không thể  không tin. Bởi vậy mà  ở  ba câu tiếp theo, thi sĩ cả  quyết khẳng  
định như đang đối thoại với người nghe kể vậy. Ngữ điệu mạnh mẽ làm nổi bật yếu tố 
thật:Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! Thật được lên tiên – sướng lạ lùng. Tất cả đã 
khơi gợi sự hiếu kỳ và cuốn hút người nghe nhập cuộc.
Ở những khổ thơ tiếp theo, thi sĩ đã kể về tình huống mình được Trời mời lên Thiên đình:
Nguyên lúc canh ba nằm một mình,
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.
Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.
Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng
Ra sân cùng bóng đi tung tăng
Trên trời bỗng thấy hai cô xuống
Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:


– “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,
Tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà!
Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.
Ước mãi bây giờ mới gặp tiên!
Người tiên nghe tiếng lại như quen!
Văn chương nào có hay cho lắm
Trời đã sai gọi thời phải lên.
Theo hai cô tiên lên đường mây
Vù vù không cánh mà như bay.
Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ

Thiên môn đế khuyết như là đây!
Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy
Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy.
Ghế bành như tuyết vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy.
Tình huống câu chuyện bắt đầu từ Tiếng ngân vang cả  sông Ngân Hà của thi sĩ dưới hạ 
giới làm cho Trời mất ngủ. Rõ ràng, cái duyên may được lên hầu Trời gắn liền với câu  
chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cao hứng của thi sĩ. Dường như  tác giả  muốn  
nói rằng câu chuyện tuy không có thật nhưng lại rất thật về  tâm sự  và nỗi niềm của  
mình. Chuyện bịa mười mươi mà xem ra rất tự nhiên, hấp dẫn.
Khi chư  tiên đã tề  tựu đông đủ, Trời liền:Truyền cho “văn sĩ đọc văn nghe!”. Được lời 
như  cởi tấm lòng, thi sĩ vội vàng cung kính:“Dạ  bẩm lạy Trời con xin đọc”. Thi sĩ đọc 
văn thơ  của mình với tất cả  sự phấn khích và thăng hoa của cảm hứng. Có lẽ  chưa bao  
giờ thi sĩ lại hứng thú đến như vậy. Không để sót một khoảng trống nào của thời gian, thi 
sĩ đọc liền một mạch:
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn.


Thi sĩ cao hứng và tự đắc vì có lẽ đây là dịp hiếm hoi để Trời và các chư tiên thưởng thức  
thơ  của thi sĩ sông Đà, núi Tản. Thính giả  nghe thơ  cổ  vũ thật nhiệt thành. Các chư  tiên 
đồng thanh tán thưởng và hồn nhiên bộc lộ sự hâm mộ qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, ngôn 
ngữ… Điều đó làm cho cảm hứng trong lòng thi sĩ mỗi lúc một dâng cao:
Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng

Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.
Thi sĩ cao hứng tự nhận:
Văn đã giàu thay, lại lắm lối.
Trời nghe Trời cũng bật buồn cười.
Cuộc đọc văn đã khép lại mà ấn tượng sâu sắc của nó khiến:
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
– “Anh gánh lên đây bán chợ trời !”
Trời nghe thi sĩ đọc văn đã không tiếc lời khen tặng và những lời khen đó chứng tỏ  Trời  
có khả năng thẩm văn, thẩm thơ tinh tế:
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít.
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết.
Đây là đoạn thơ thú vị, độc đáo nhất trong bài. Tác giả cố tình mượn lời Trời để  ca ngợi  
thơ văn mình. Rõ ràng ý thức về“cái tôi”cá nhân của Tản Đà rất cao và thi sĩ không hề vô  
lý khi tự  khen đến thế:Văn đã giàu thay lại lắm lối. Lời văn, khí văn được so sánh với 
những vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên:như  sao băng, như  mây chuyển, như  gió thoảng, 
như sương, như mưa sa, như tuyết… Tưởng chừng tinh hoa của núi Tản sông Đà đã được 
thu cả vào hồn thơ thi sĩ. Đoạn thơ trên đã khai thác tối đa tác dụng của các biện pháp tu 


từ để thể hiện đầy đủ mọi cung bậc trầm bổng, mạnh mẽ, tinh tế và linh diệu của cảm 
xúc đang thăng hoa.
Tình huống Hầu Trời bất ngờ  quả  đã cho Tản Đà một cơ  hội tuyệt vời để  phô bày tài 
năng văn chương của mình trước thiên hạ. Thật thú vị  khi tất cả  nhân vật trong câu  
chuyện đều có tâm trạng hứng khởi tột độ, từ  thi sĩ đến chư  tiên và nhất là Trời – một  
ông Trời khá bình dân trong cung cách cư xử, nói năng. Điều đáng chú ý là thi sĩ chỉ  cao  
hứng tột độ như thế khi gặp được người hiểu và thông cảm với mình mà thôi. Chứ dưới  

hạ giới, thi sĩ dễ đâu tìm được người tri âm tri kỉ như vậy?! Lời ban khen của Trời hẳn là  
sự thẩm định, đánh giá chính xác nhất, không ai có thể nghi ngờ hay bác bỏ. Đúng là một 
cách tự khẳng định rất ngông, rất Tản Đà, xưa nay chưa từng có!
Người đọc có cảm giác như thi sĩ vô cùng tự hào khi khẳng định và ca ngợi tài năng văn  
chương của mình. Chưa có tác giả  nào dám mạnh dạn, công nhiên như  thế. Có lẽ  một 
cuộc cách mạng về thơ ca thực sự đã được bắt đầu từ chính Tản Đà – thi sĩ được coi là  
“cây cầu nối” giữa thơ cũ và thơ mới.
Thể theo yêu cầu của Trời, thi sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế:
– “Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa Cầu
Sông Đà, núi Tản, nước Nam Việt”.
Trời ngợ một lúc lâu rồi sai Thiên tào kiểm tra lại:
Thiên tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ trình lên Thượng đế trông
– “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông”.
Lúc ấy, Trời mới phán rằng:
Trời rằng: “Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay”.
Được lời như  cởi tấm lòng, Tản Đà trình bày một mạch những nỗi niềm bức xúc của 


mình chất chứa bấy lâu nay. Qua lời Trời, Tản Đà nói đến nhiệm vụ  truyền bá thiên  
lương mà Trời giao cho, (giải thích để loài người hiểu rằng lương thiện vốn là bản tính  
trời sinh). Điều đó chứng tỏ Tản Đà tuy lãng mạn, ngông nghênh nhưng không hoàn toàn  
thoát li hiện thực mà vẫn có ý thức trách nhiệm với đời và khát khao được gánh vác việc  
đời. Đấy cũng là một cách tự khẳng định mình.

Cảm hứng chủ đạo của bài thơ  là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong đoạn thơ  dưới đây,  
thi sĩ lại sử dụng bút pháp tả thực cụ thể, tỉ mỉ đến từng chi tiết:
– “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó.
Giấy người mực người thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố.
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày một kém tuổi ngày cao
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều
Trời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo”.
Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về  văn chương và nghề  văn, tuy  
vậy người đọc vẫn có thể  hình dung ra phần nào về  nội dung của hoạt động tinh thần  
đặc biệt này. Đối với Tản Đà, văn chương không còn đơn thuần là một khái niệm tinh 
thần cao siêu mà đã trở thành một nghề kiếm sống như bao nghề khác, có người bán kẻ 
mua và thị trường văn chương cũng hết sức phức tạp. Vì thế  mà nhà văn, nhà thơ  không 
dễ thành công.
Tản Đà đã vẽ  ra một bức tranh hiện thực trần trụi, nghiệt ngã về  nghề  văn bằng ngôn  


ngữ  đời thường. Đó là cảnh sống nghèo khổ:Trần gian thước đất cũng không có; thi sĩ 
đành phải mưu sinh bằng công việc viết văn, làm thơ và xuất bản mà vốn liếng chẳng có 
gì   ngoài   ngòi   bút:Giấy   người   mực   người   thuê   người   in,   Mướn   cửa   hàng   người   bán 

phường phố.Người nghệ  sĩ phải cam chịu cảnh:Văn chương hạ  giới rẻ  như  bèo, Kiếm  
được đồng lãi thực rất khó, Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều, Lo ăn lo mặc hết ngày  
tháng… Kể đến đây, cảm xúc của thi sĩ chợt ngậm ngùi, chua chát, khác hẳn với cảm xúc  
trữ tình bay bổng, đắc ý khi đọc thơ cho Trời nghe.
Tất cả những điều  ấy đã hiện ra nhiều lần trong thơ văn Tản Đà, một thi sĩ tài hoa hơn  
người mà cả đời phải sống trong tình cảnh nghèo khổ, quẫn bách:
Hôm qua chửa có tiền nhà,
Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào.
Đi ra rồi lại đi vào,
Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ.
Về cuối đời, ông từng phải chuyển qua nghề xem tướng số để  kiếm ăn sống lay lắt qua 
ngày; rồi mở  lớp dạy Hán văn, quốc văn nhưng không có học trò. Cuối cùng, ông chết 
trong cảnh túng bấn, cơ cực rất thương tâm!
Giấc mơ  Hầu Trời phải chăng là biểu hiện tha thiết, mãnh liệt của khát vọng được 
khẳng định tài năng của thi sĩ giữa chốn văn chương hạ giới rẻ như bèo và thân phận của  
người sáng tạo bị xã hội rẻ rúng, khinh khi. Vậy thì chỉ có thể lên thiên đình thi sĩ mới có 
thể tìm được tri âm tri kỉ, mà chuyện này chỉ có thể xảy trong giấc mộng mà thôi ! Dường  
như Trời cũng thấu hiểu nỗi niềm bức xúc của thi sĩ nên chân thành khuyên nhủ:
Rằng: “Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”.
Cuộc chia tay giữa thi sĩ với Trời và chư  tiên diễn ra quyến luyến và xúc động. Ngày đã  
rạng, tiếng gà xao xác gáy. Thi sĩ tỉnh mộng nhưng  ấn tượng về cuộc hầu Trời vẫn còn  
nóng hổi khiến thi sĩ bâng khuâng tiếc nuối và ao ước đêm nào cũng được lên thiên đình 
để hầu Trời.
Câu chuyện về cuộc đọc văn Hầu Trời và các chư tiên đã phản ánh khá rõ tâm hồn và tính  


cách của Tản Đà – một thi sĩ ngông và hay sầu mộng. Đó là một Tản Đà ý thức rất rõ về 

tài năng của mình, dám đàng hoàng, công khai thể hiện và khẳng định một cách tự hào, tự 
đắc về  cái tài văn chương hơn người  ấy. Thi sĩ chẳng ngần ngại tự  khen mà còn mượn 
những lời tán dương của Trời cùng các chư  tiên để  đề  cao thơ  văn mình. Điều đó xuất  
phát từ niềm hãnh diện của một hồn thơ đã hấp thu được linh khí của sông Đà, núi Tản.  
Trong một bài thơ tự vịnh, Tản Đà đã kiêu hãnh viết:
Vùng đất Sơn Tây nảy một ông,
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng.
Núi Tản sông Đà ai hun đúc,
Bút thánh câu thần sớm vãi vung…
“Cái tôi”đó cũng thật ngông khi dám tìm lên tận thiên đình để  khẳng định tài năng của 
mình trước các chư tiên và Ngọc Hoàng thượng đế!
Thái động ngông trong văn chương chính là phản  ứng của những nghệ  sĩ tài hoa, có cá 
tính mạnh mẽ, không chịu trói mình trong khuôn khổ  chật hẹp có sẵn.Ngông cũng là thái 
độ của những người trí thức có nhân cách cứng cỏi, quay lưng ngoảnh mặt trước một xã 
hội bất công, nhiễu nhương mà họ  không chấp nhận. Ngông trong văn chương bao giờ 
cũng gắn liền với tài hoa và nhân cách của người cầm bút. Tản Đà không phải là một 
trường hợp cá biệt trong văn học Việt Nam mà trước ông đã có quan Thượng Nguyễn 
Công Trứ với:Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng, ngẩng cao đầu thách thức:Trong triều  
ai ngất ngưởng như ông?Và chửi thói đời xấu xa bằng một câu thề như dao chém đá:Kiếp 
sau xin chớ làm người, Làm cây thông đứng giữa trời mà reo… Tú Xương thì chửi thẳng  
vào mặt cái xã hội thối nát, đảo điên:Thiên hạ  xác rồi còn đốt pháo, Nhân tình trắng thế 
lại bôi vôi…và định:Phen này ông quyết đi buôn lọng, Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.
Tuy nhiên, cái ngông của Tản Đà có những điểm đặc thù do chịu  ảnh hưởng của buổi 
giao thời dở Tây dở  ta. Tản Đà phản ứng xã hội bằng thái độ  ngông của một nghệ sĩ tài 
hoa tài tử. Thái độ ngông nghênh, tự đắc dường như được thi sĩ cố ý phóng đại trong bài  
Hầu Trời cốt để gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Nhà thơ đánh giá văn mình hay đến  
mức Trời và các chư tiên phải hết lời tán thưởng. Như thế tức là dưới hạ  giới, không ai 
xứng đáng là kẻ tri âm tri kỉ với mình. Tản Đà còn tự nhận mình là một vị trích tiên bị đày 
xuống hạ  giới vì tội ngông, nhưng lại được Trời trao cho sứ  mệnh cao cả  là truyền bá  



thiên lươngcho loài người.
Việc nhà thơ thêu dệt nên chuyện Hầu Trời hàm chứa một sự thách thức đối với cái nhìn  
đầy thành kiến về bậc thang giá trị của con người trong xã hội tôn thờ đồng tiền, coi nhẹ 
các giá trị tinh thần. Cái ngông của Tản Đà có nhiều điểm tương đồng với cái ngông của 
Nguyễn Công Trứ  thể  hiện qua bài Bài ca ngất ngưởng: Ý thức rất cao về  tài năng của 
bản thân, dám nói giọng bông lơn về  những đối tượng như  Trời, Tiên, Bụt; dám khẳng 
định“cái tôi cá nhân”vượt ra ngoài khuôn khổ của luân lý, đạo đức Nho giáo.
Điểm khác biệt giữa hai người là Nguyễn Công Trứ tuy ngất ngưởng tột bậc nhưng vẫn  
giữ:Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, còn Tản Đà lại không coi đó là chuyện hệ trọng. 
Hơn nữa, cái tài mà Tản Đà muốn khoe thuộc phạm trù văn chương chứ không phải là cái 
tài “kinh bang tế thế” như Nguyễn Công Trứ. Rõ ràng, thi sĩ Tản Đà đã rũ bỏ  được khá  
nhiều gánh nặng trách nhiệm mà thông thường các nhà Nho từ  trước tới nay vẫn tự đặt 
trên vai mình (Vũ trụ  nội mạc phi phận sự) để  sống thoải mái hơn với quyền tự  do cá 
nhân mới mẻ mà thời đại đưa tới.
Bài thơ  Hầu Trời được viết theo thể  thất ngôn trường thiên khá tự  do về  số  lượng câu; 
bố cục theo lối tự sự, diễn biến câu chuyện theo trình tự thời gian. Vì tác giả là nhân vật  
chính nên cảm xúc bộc lộ tự nhiên, thoải mái và cách kể chuyện rất hóm hỉnh, có duyên.  
Ngôn ngữ bình dân và giọng điệu hài hước rất ăn ý, hoà hợp, hỗ  trợ  cho nhau nhằm thể 
hiện sinh động thái độ  hào hứng của thi sĩ trước một đối tượng đặc biệt đang say sưa  
nghe mình đọc văn, ngâm thơ. Quan hệ giữa thi sĩ với Trời và chư tiên xem ra cũng dân dã, 
thân mật như giữa những người đồng thanh tương khí.
Lối kể bịa mà như  thật và nụ  cười hóm hỉnh tạo nên nội dung trữ  tình của bài thơ, giúp 
người đọc hiểu sâu hơn về con người thi sĩ. Những yếu tố nêu trên là một phần tất yếu  
của bài thơ, hoàn toàn xứng hợp với câu chuyện Hầu Trời mà tác giả  hư cấu. Ngôn ngữ 
trong bài thơ  rất gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Từ  dùng nôm na, bình dị, lại 
được đặt trong ngữ điệu nói nên càng ý vị:Văn dài hơi tốt ran cung mây! Văn đã giàu thay, 
lại lắm lối… Trời nghe Trời cũng bật buồn cười… Chư  tiên ao  ước tranh nhau dặn,…  
Đặc biệt, dưới ngòi bút của tác giả, Trời và chư  tiên không có một chút gì là đạo mạo.  
Họ biểu hiện cảm xúc theo một cung cách rất đỗi… bình dân:lè lưỡi, chau mày, lắng tai 



đứng, vỗ tay, bật buồn cười, tranh nhau dặn,… Cứ tưởng tượng ra hình ảnh của các đấng  
cao siêu mà có những cử chỉ, điệu bộ ngộ nghĩnh, rất “người” như thế, ai mà chẳng buồn 
cười và khâm phục cách kể chuyện tự nhiên, sinh động của thi sĩ Tản Đà. Các đoạn đối 
thoại và miêu tả phản ứng tâm lý của từng nhân vật đan xen với nhau khiến người đọc có  
cảm tưởng mình đang được chứng kiến hoặc tham gia vào câu chuyện, cùng nếm trải,  
chia sẻ những phút sung sướng lạ lùng và đắc ý tột bậc của người kể chuyện.
Hầu Trời là bài một thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới mẻ về mặt thi pháp, tiêu biểu cho  
tính chất giao thời giữa cái mới và cái cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà. Qua bài thơ, người  
đọc có thể  nhận ra đôi điều về  xu hướng phát triển của thơ  ca Việt Nam trong những  
thập niên đầu thế kỉ XX.
 



×